- VÔ MÔN QUAN
-
無門関
- Chữ Vô của Phương Đông
- Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin
- Biên dịch: Nguyễn Nam Trân
- Bản Thảo - 2009 -
Tắc số 35:
Người đẹp lìa hồn (Thanh (Thiến) nữ
ly hồn)[1].
倩女離魂
Bản tắc:
Ngũ Tổ[2]
nhân tăng hỏi:
-Có truyện nói cô Thanh (Thiến)[3]
kia thoát hồn ra khỏi xác, vậy thế cô Thanh (Thiến) thực sự là cô nào?
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Nếu nắm bắt được điểm quan trọng
của câu chuyện này (biết được cô Thanh thật là cô Thanh nào), có lẽ đã
hiểu hồn thoát ra khỏi xác rồi lại nhập vào (vòng sinh tử) có khác nào
việc (một người) đến trọ trong lữ quán (rồi đi). Thế nhưng, khi chưa
biết được điều đó thì hãy cẩn thận chớ có chạy lung tung (đi tìm những
lối giải quyết ngoài tự kỷ bản thân) trên con đường đời. Khi cái chết
bất chợt đến và thân thể tan rã (địa thủy hỏa phong[4]
nhất tán), thì sẽ không khác gì con cua lọt vào trong nồi nước sôi, khua
que khua càng loạn lên. Lúc đó đừng khóc vì hối hận đã không nghe lời (phải
tự kỷ cứu minh mà ta) dặn bảo.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Vân nguyệt thị đồng,
Khê sơn các dị.[5]
Vạn phúc vạn phúc,
Thị nhất thị nhị.
雲 月 是 同
溪 山 各 異
萬 福 萬 福
是 一 是 二
(Mây trăng thì giống nhau,
Chiếu núi khe lại khác.
Xin chúc lành tất cả,
Hai, một, nhằm chi đâu!).
Lược dịch lời bàn của Giáo sư
Akizuki Ryômin:
Ngũ Tổ Pháp Diễn là một đại sư thiền
thời Bắc Tống. Vì ngày xưa vào đời Đường, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (601-674)
trụ trì ở Hoàng Mai Sơn, núi này mới có tên gọi là Ngũ Tổ Sơn. Thiền sư
Pháp Diễn, người vốn có công đưa Thiền tông lên một địa vị cao, cũng tu
ở núi ấy cho nên người đời gọi ông là Ngũ Tổ Sơn Pháp Diễn.Chính ông là
người đã đại thành công án thiền , dòng Lâm Tế đánh giá công lao ấy,
xưng tụng ông bằng danh hiệu cao quí: Trung Hưng Thiền Sư.
Riêng về sự tích Thanh (Thiến) nữ ly hồn
thì đã thấy chép trong Ly Hồn Ký, một tập truyền kỳ đời Đường do Trần
Huyền Hựu soạn. Truyện ấy kể vào năm Thiên Thụ thứ 3 (671) đời Tắc Thiên
Vũ Hậu, đất Hành Châu (nay là Hành Dương, Hồ Nam) có một người tên
Trương Giám sinh được hai con gái nhưng cô chị đã mất sớm chỉ còn cô em,
ấy là Thanh nữ (cô Thanh). Cô này nhan sắc xinh đẹp nên người cha định
kén rễ quí, danh vọng đỗ đạt. Thế nhưng từ bé cô đã khắng khít và ngầm
đính ước với người anh em cô cậu là thư sinh Vương Trụ. Khi họ Vương
biết chủ tâm của Trương Giám muốn gã con cho một người khác, ôm hận lẳng
lặng bỏ ra đi. Chẳng ngờ dọc đường thấy Thanh nữ chạy đuổi theo thuyền,
rồi cả hai trốn nhà đưa nhau vào đất Thục sinh sống. Năm năm sau, khi họ
có hai con trai, Thanh nữ động tình quê, xin chồng cùng theo về thăm bố
mẹ để tạ lỗi. Khi chồng lên bờ, vợ ở dưới thuyền. Chẳng ngờ khi Vương
Trụ đến nhà kể chuyện cô Thanh trốn nhà theo mình thì Trương Giám tỏ ra
ngạc nhiên vì con gái mình từ mấy năm nay vẫn nằm bệnh trong buồng. Như
thế là có hai cô Thanh, hay đúng hơn một cô Thanh mà hồn đã thoát xác để
theo Vương Trụ năm năm về trước. Sau khi cô Thanh về tới nhà gặp cô
Thanh kia thì rõ ràng là hai người hoàn toàn giống nhau từ vóc dáng đến
y phục. Hồn cô Thanh này bèn bèn nhập vào xác cô Thanh nọ và rốt cuộc,
chỉ còn một cô Thanh duy nhất. Cô ta bèn kể rằng trong lúc ngủ mình đã
nằm mộng bỏ nhà ra đi (thuyền trung Thanh nữ) chứ thật ra vẫn ở suốt
trong phòng (khuê trung Thanh nữ).
Câu chuyện trên đã được bọn các ông Lý
Phưởng mười hai học giả đời Tống, sưu tập trong Thái Bình Quảng Ký.
Đương thời truyện Thanh (Thiến) nữ ly hồn được truyền bá rộng rãi trong
dân chúng cho nên các thiền sư mới lấy ra làm tài liệu để cùng với tín
đồ trao đổi ý kiến về Phật Pháp (Phật Pháp thương lượng). Công án đặt
câu hỏi: Trong hai cô, một người trong thuyền, một người trong phòng
khuê, ai mới là cô Thanh thật?
Ngày thường, trong một thân xác, chúng
ta thường có hai cái tâm. Giữa ta và cái tâm của ta đã xảy ra bao nhiêu
chuyện lầm lạc. Sứ đồ Phao Lô (Paolo) trong Kinh Thánh (sách Rô-Ma, Thư
gửi cho các giáo hữu ở Roma, chương 7) cũng có nói đại ý: “Chúng ta có
một cái tâm biết vui với sự tuân thủ giới luật nhưng có khi tay chân ta
lại nghe theo một pháp luật khác. Nó chiến đấu chống lại cái tâm biết
giữ giới của ta và giam hãm, bắt ép ta làm theo cái pháp luật có sẵn nơi
chân tay. Loài người thật là tội nghiệp. Ai có thể kéo ta ra khỏi cái
thân xác hữu tử này?”
Thực ra, ý nghĩa sâu xa của công án nằm
trong nghi vấn : “Cái tự kỷ bản lai chân thực là gì?”.
Không giống như Ki-Tô Giáo, vấn đề cơ
bản của Phật Giáo không phải là thần thánh cũng như người chết. Nó phải
là sự xét rõ về con người của mình hiện sống tại đây bây giờ (cứu minh
tự kỷ, tức kim, thử xứ). Trong Phật Pháp có tên gọi” kỷ sự cứu minh”.
Thiền sư Dôgen (Đạo Nguyên) gọi nó là “Phật Pháp là sự học tập về bản
thân”, còn ngài Viên Ngộ Khắc Cần, đệ tử của Ngũ Tổ Pháp Diễn, thì bảo:
“ Hầu hết việc tham thiền vấn đáp phải nằm ở chỗ tự soi xét rõ về mình”
(tự kỷ cứu minh).
Bồ Tát Văn Thù mượn
dạng gái làng chơi khai ngộ tăng Saigyô (1118-1190)
[1]
Thoại này không thấy chép trong Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên,
phần truyện về Ngũ Tổ Pháp Diễn. Tuy nhiên, trong Chính Đăng Lục
quyển 6, chương về Ngũ Tổ thì có đề cập đến chuyện tình kỳ lạ giữa
cô Thanh nhà họ Trương và thư sinh Vương Trụ. Thái Bình Quảng Ký
quyển 358 cũng có chép, dẫn điển từ Ly Hồn Ký của Trần Huyền Hựu.
[2]
Tức Ngũ Tổ Pháp Diễn (?- 1104), thiền sư thời Bắc Tống. Thuộc phái
Lâm Tế dòng Dương Kỳ, nhận pháp tự của Bạch Vân Thủ Đoan
(1025-1072). Tiểu sử có trong Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 19, Tục
Truyền Đăng Lục quyển 20. Sách để lại có Ngũ Tổ Pháp Diễn Thiền Sư
Ngữ Lục 4 quyển.
[3]
Chữ Thanh (bộ nhân đứng bên cạnh chữ thanh là xanh), vốn có nhiều âm:
“thanh”, “thiến”. “sai”. Ý nói “người dáng tươi đẹp, sinh động”, còn
động từ có nghĩa “nhờ ai thay thế”, nghĩa giống như chữ thỉnh trong
thỉnh (nhờ) đại (thay thế).
[4]
Theo triết học cổ Ấn Độ, đây là 4 nguyên tố chính (tứ đại) của thế
giới.Nói “tứ đại phân tán” có thể hiểu là trạng thái khi người ta
chết đi.
[5]
Ryômin giải thích rằng “Cùng chung một vầng trăng giữa khoảng mây
trời nhưng tùy theo hình thế của khe hay núi mà phản chiếu ánh sáng
khác nhau thiên sai vạn biệt”. Eshin thì đơn thuần hơn, chỉ xem :
“Mây giống trăng, khe khác núi, hai vật cùng bản chất nhưng cách thể
hiện khi giống, khi khác nhau”.
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/vomonquan_38.htm