- VÔ MÔN QUAN
-
無門関
- Chữ Vô của Phương Đông
- Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin
- Biên dịch: Nguyễn Nam Trân
- Bản Thảo - 2009 -
Tắc số 42:
Cô gái xuất thiền định (Nữ tử xuất định)[1].
女子出定
Bản tắc:
Khi xưa, có lần Bồ Tát Văn Thù[2]
đến nơi chỗ chư Phật hội họp với Đức Thế Tôn[3]
thì vừa vặn hội đã tan, các vị ấy đều trở về bản địa cả rồi. Chỉ còn một
người con gái ngồi rất gần bên ngài, cứ như thế mà tiếp tục nhập định
(tam muội)
[4].
Bồ Tát Văn Thù thấy vậy bèn bạch với Thế Tôn:
-Cớ sao người thiếu nữ có thể ngồi
sát bên Phật tòa mà đệ tử không được phép.
Nghe thế, Thế Tôn mới dạy:
-Nhà ngươi hãy thử làm cho người gái
này xuất định rồi trực tiếp hỏi chắc hay hơn!
Do đó, Bồ Tát bèn đi quanh (tay
mặt) người ấy ba vòng[5],
búng ngón tay một cái thành tiếng[6]
rồi đặt nàng lên tay đưa lên thượng giới (Phạm Thiên)[7],
vận dụng hết sức thần thông để gọi nhưng vẫn không tài nào kéo cô ta ra
khỏi trạng thái nhập định.Thế Tôn lại phán:
-Cho dù hàng trăm hàng nghìn
Văn Thù hiệp sức lại cũng không làm cho người này xuất định được đâu.
Phía dưới đây, ở một nơi xa thẳm qua khỏi cả thập nhị ức hà sa[8]
quốc thổ, có một vị Bồ Tát tên là Võng Minh[9].
Chỉ có vị này may ra mới làm cho người con gái này xuất định được.
Ngay lúc ấy, Võng Minh Đại Sĩ[10]
từ phía dưới bay vọt lên, sụp lạy ra mắt ĐứcThế Tôn. Rồi sau khi Thế Tôn
ra lệnh cho Võng Minh, ông này mới đến trước mặt nàng búng tay một cái
thành tiếng. Cuối cùng, lúc ấy, người con gái mới xuất định.
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Cái lão Thích Ca khéo đóng trò
kịch cỡm (tạp kịch)[11].
Nhưng hắn cũng có chút tài mọn[12]
đấy chứ! Này, nói thử nghe coi! Người thầy của bảy vị Phật trong quá khứ
là Bồ Tát Văn Thù vì cớ gì lại không thể kéo cô gái kia ra khỏi trạng
thái thiền định? Chứ Bồ Tát Võng Minh chi chi đó, bất quá là một anh tu
hành cấp bậc thấp kém nhất (sơ địa bồ tát), làm sao có thể kéo cô kia
xuất định được nhỉ.Nhưng nếu ở đây ai có năng lực nhìn thấu suốt vấn đề
thì sẽ thấy rằng con người đang bị túc nghiệp (nghiệp trong quá khứ) dẫn
dắt (lúc quay phải lúc quay trái) cũng có thể đi đến chỗ đại thiền định[13].
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Xuất đắc xuất bất đắc,
Cừ nùng[14]
đắc tự do.
Thần đầu tịnh quỉ diện,
Bại khuyết đáng phong lưu.
出 得 出 不 得
渠 儂 得 自 由
神 頭 並 鬼 面
敗 闕 當 風 流
(Xuất ra khỏi định hay không xuất,
Người với ta đều được tự do.
Đầu thần, mặt quỉ đem ra diễn,
Dù cho thất bại vẫn ra trò)
Lược dịch lời bàn của Giáo sư
Akizuki Ryômin:
Tại sao Bồ Tát Văn Thù, đức Phật
của trí tuệ, tượng trưng cho Bát Nhã, ông thầy của 7 vị cổ Phật, là Phật
Mẫu (người sinh ra Phật), mà thần thông lại kém cả một Bồ Tát sơ địa là
hàng yếu kém nhất trong thập địa như Võng Minh?[15]
Công án này cũng có điểm trọng yếu (nhãn
mục) của nó và mỗi người trong chúng ta sẽ tìm ra được bằng thể nghiệm
bản thân. Chỉ xin đưa ra một gợi ý nho nhỏ. Trước đây, chúng ta có lần
nói đến “nan thấu” nghĩa là “không cách chi đi suốt qua được”. Nó tương
đương với hoàn cảnh “không cách chi xuất định được” ở đây. Nếu ta còn
nghĩ “thấu suốt là tốt, không thấu suốt là xấu”, “xuất định là tốt,
không xuất định là xấu” thì sẽ rơi vào sự phân biệt. Tóm lại, chuyện có
phải như thế không ạ?
[1]
Thoại này phỏng theo truyện có chép trong Chư Phật Yếu Tập Kinh
quyển hạ (xem Đại Chính Tạng 17-763 trở xuống). Người thiếu nữ trong
truyện tên là Ly Ý. Cũng có thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
quyển 27. Trong làng thiền, hay dùng nó như công án.
[2]
Văn Thù, lược từ chữ Văn Thù Sư Lợi, dịch âm tiếng Phạn Manjusri.
Còn được dịch ý là Diệu Cát Tường, Diệu Đức, Diệu Thủ, vị bồ tát
ngồi bên tay tả của Phật Thích Ca và tượng trưng cho trí tuệ.
[4]
Tam Muội, dịch âm Phạn ngữ Samandhi. Còn có thể gọi là Tam Ma Địa,
Tam Ma Đề, Tam Muội Địa. Dịch theo ý là Định, Chính Thụ, Định Tuệ,
Đẳng Trì…Chỉ trạng thái tinh thần chuyên chú về một mối (tâm cảnh).
[5]
Nguyên văn “hữu nhiễu tam táp”: đi vòng bên tay mặt ba lần. Cử chỉ
này là theo lễ nghi Ấn Độ khi đến thăm bậc trưởng giả.
[6]
Búng tay, khẩy tay (thiền chỉ) có hai cách: kinh giác thiền chỉ (làm
cho kinh động để đánh thức) và khứ uế thiền chỉ (để tẩy trừ uế
trược)..
[7]
Phạm Thiên (Phạn Thiên) là 3 tầng trời đầu tiên của 18 tầng trời
trong sắc giới: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Đại Phạm Thiên.
Đây là chỗ xa rời tục giới, thường được để chỉ Đại Phạm Thiên không
thôi. Cùng với Thích Ca Thiên, Phạm Thiên được coi như thần hộ pháp
của Phật giáo.
[8]
Hằng Hà sa số: cát sông Hằng, ý nói rất rất nhiều.
[9]
Võng Minh, Võng cũng hiểu như Vô nên còn gọi là Vô Minh. Bồ tát bậc
thấp kém nhất.
[10]
Một cách gọi Bồ Tát.
[11]
Loại kịch bình dân diễn vào thời Tống-Nguyên, có tiết mục đeo mặt nạ
thần hay quỉ làm trò (xem câu 3, 4 trong bài tụng)
[12]
Bất thông tiểu tiểu: không phải nho nhỏ, không đến nỗi tầm thường.
[13]
Nguyên văn “nghiệp thức mang mang, na già đại định”. Na già (Phạn
ngữ Naga) có nghĩa là đại long, con rồng lớn. “Đại long tam
muội” có nghĩa là tâm cảnh an định như con rồng lớn cho dù đang chìm
đắm ở trong thế gian đầy đau khổ.
[14]
Cừ: hắn, nông (nùng): ta. Tiếng xưng hô của người bình dân. Hắn và
ta để chỉ Văn Thù và Võng Minh, cả hai chỉ là một dù mang mặt nạ
khác nhau.
[15]
Ryômin hơi ít lời, trong phần bình luận ông chỉ tập trung vào chủ đề
về sự phân biệt. Có thể hiểu thêm như Thánh Tham (dẫn bởi DĐH) là
Văn Thù, tượng trưng cho trí huệ, còn vướng mắc vào sự chấp trước
nam nữ, còn cậy vào thần thông để làm cho thiếu nữ xuất định..trong
khi Võng Minh là phần sâu thẳm của tâm hồn (vô minh). Muốn xuất
định, thiếu nữ phải tự mình giác ngộ từ chỗ sâu xa ấy (LND).
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/vomonquan_45.htm