- VÔ MÔN QUAN
-
無門関
- Chữ Vô của Phương Đông
- Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin
- Biên dịch: Nguyễn Nam Trân
- Bản Thảo - 2009 -
Tắc số 44:
Cây trượng của Ba Tiêu (Ba Tiêu trụ trượng)[1].
芭蕉拄丈
Bản tắc:
Hòa Thượng Ba Tiêu[2]
nói trước chúng tăng môn hạ:
-Nếu các ngươi có được cây trụ
trượng[3],
ta sẽ cho các ngươi cây trụ trượng. Còn như các ngươi không có cây trụ
trượng, ta sẽ lấy lại cây trụ trượng của các ngươi.
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Khi qua sông cầu gãy, nó giúp ta
tựa vào, đi về làng đêm không trăng tối mịt, nó lại dắt ta
[4].
Vật đó nếu ai nhỡ mồm gọi là cây trụ trượng thì sẽ được xuống địa ngục
nhanh như tên bắn.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Chư phương thâm dử thiển,
Đô tại chưởng ác trung.
Sanh thiên tịnh trụ địa,
Tùy xứ chấn tông phong.
諸 方 深 與 淺
都 在 掌 握 中
橕 天 並 拄 地
隋 處 振 宗 風
(Bốn phương dù sâu cạn,
Đều nắm giữa lòng tay,
Mầy chống trời đỡ đất,
Khắp chốn rạng tông thầy)
Lược dịch lời bàn của Giáo sư
Akizuki Ryômin:
Thiền sư Ba Tiêu Huệ Thanh (pháp tôn đời
thứ ba của Ngưỡng Sơn) nói gì mà lạ thế? Thông thường, đáng lẽ ông phải
bảo: “Nếu các ngươi có cây trụ trượng, ta sẽ lấy lại; còn như các ngươi
không có cây trụ trượng, ta sẽ cho” chứ! Nhưng đây “có thì cho, không có
thì đoạt” như thể muốn ăn ngang nói ngược thiên hạ. Những ai còn mang
lấy cái tâm phân biệt của tự ngã thì sẽ vô cùng lúng túng, không hiểu
câu này. Hoặc có người sẽ bảo: “Thiền kiểu ông ta thối quá, phải bịt mũi
mất!” rồi bỏ chạy không xem tiếp nữa. Nhưng chính đây mới là điểm then
chốt và ta phải bình tĩnh quay lại suy xét.
Trước hết trụ trượng là gì? Bên ngoài,
nó chỉ là cây gậy mà các du tăng dùng chống lúc đi đường. Sau đó nó trở
thành một pháp cụ họ mang bên mình, giống như cái quạt xưa kia khua ruồi
đuổi muỗi sau cũng đã trở thành một pháp cụ. Thế nhưng không chỉ có
chừng đó. Bên trong, cây trụ trượng tượng trưng cho “sự giác ngộ” ,
thường được sử dụng trong các cuộc vấn đáp về thiền. Cho nên mới có câu
“ thức đắc trụ trượng tử, nhất sinh tham học sự liễu” (khi hiểu được về
cái trụ tượng rồi coi như việc tu thiền đã hoàn tất).
Khi qua sông qua suối, có thể dùng cây
trụ trượng để đo mực nước nông sâu, đêm tối không trăng có thể nương
theo trụ trượng mà lần về thôn. Tuy nhiên, hễ gọi nó là trụ trượng lại
phải sa xuống địa ngục như tên bắn. Cả trong lời bình xướng trên đây của
Vô Môn cũng vậy, cây trụ trượng tượng trưng cho chuyện quan trọng nhất
của một đời tu học, đó là sự giác ngộ.
Thiền sư Đại Quy Mộ Triết lại có câu nói
đơn sơ: “Nếu ngươi có cây trụ trượng, ta sẽ đoạt lấy nó khỏi ngươi, nếu
người không có cây trụ trượng, ta sẽ đem tặng cho ngươi” Nếu bảo cây trụ
trượng tượng trưng cho sự giác ngộ thì khi nghe câu này, người ta sẽ dễ
dàng chấp nhận hơn.
Thế nhưng ở đây Thiền sư Ba Tiêu lại bảo:
“Có thì cho, không có sẽ đoạt!” Câu nói của ông, phải hiểu như thế nào?
Người ta đã giác ngộ rồi mà ta còn muốn đem cho, thế thì đem cho cái gì
nhỉ? “Cái gì” đây là vấn đề? Còn thêm “cho” và “đoạt” nữa chứ, hiểu được
cả ba, phải tốn một chút công phu.
Đầu Tử, Thanh thiền sư có câu nói: “Xưa
nay, Hữu và Vô vẫn là hai cửa ải hai lớp (lưỡng trùng quan sở). Ngay
người có con mắt nhìn được thấu suốt (chính nhãn) còn khó đi qua lọt nữa
là!”. Thiên Đồng, Giác thiền sư lại có câu: “Lúc mà anh có, tất cả là
Hữu. Lúc anh không có, tất cả là Vô. Chính ra, việc được cho hay bị đoạt
(dữ, đoạt) chỉ hiểu được bởi chính đương sự mà thôi.”
Dù là gì đi chăng nữa, bây giờ ở đây này, chúng ta
đang có một cây trượng. Có kẻ trưởng giả dợm bước lên đường. Khi chìa
cây gậy ấy ra, nếu là bạn thì bạn sẽ làm gì và nói gì với người ấy?
[1]
Thoại này có chép trong Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 9 chương nói về Ba
Tiêu Huệ Thanh.
[2]
Hòa Thượng Ba Tiêu Huệ Thanh (không rõ năm sanh năm mất), gốc người
Triều Tiên, là một thiền gia đời Đường. Ông thuộc tông Quy Sơn nhận
pháp tự của Thiền sư Nam Tháp Quang Dũng (850-938). Tiểu sử có trong
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 12 và Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 9.
[3]
Nôm na là gậy để chống. Ở Ấn Độ, dành cho người yếu hoặc bị bệnh,
sau thành gậy đi đường của du tăng, pháp cụ để sư gia truyền giáo và
trừng phạt học trò phạm lỗi.
[4]
Nguyên văn: Phù quá đoạn kiều thủy, Bạn quy vô nguyệt thôn (hai câu
này thấy trong Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 15, chương nói về Linh Ẩn
Vân Tri Từ Giác và những sách khác).
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/vomonquan_47.htm