Kính thưa Hoàng Thượng, các thành viên Hội đồng Nobel, và các
anh chị em.
Chúng tôi rất vui mừng hiện diện nơi
đây với tất cả quý vị hôm nay để nhận Giải Nobel Hòa bình. Chúng
tôi cảm thấy vinh dự, khiêm tốn và cảm kích sâu xa rằng quý vị
đã trao một giải thưởng quan trọng đến một tu sĩ giản dị từ Tây
Tạng, chúng tôi chẳng phải làm một người đặc biệt. Nhưng chúng
tôi tin tưởng giải thưởng này là một sự công nhận giá trị chân
thật của lòng vị tha, yêu thương, từ bi và bất bạo động những
điều mà chúng tôi cố gắng để thực hành, theo lời giáo huấn của
Đức Phật, những bậc Hiền Nhân vĩ đại của Ấn Độ và Tây Tạng.
Chúng tôi nhận giải thưởng với lòng
tri ân sâu
xa nhân danh cho tất
cả mọi nơi vị áp bức và cho tất cả những ai đang vất vả đấu
tranh cho tự do và hoạt động vì hòa bình thế giới. Chúng
tôi nhận nó như một tặng phẩm đến người tạo nên truyền thống của
bất bạo động cho thay đổi Thánh Gandhi, mà cuộc đời của người đã
là một bài học và sự cảm hứng của chúng tôi. Và, dĩ nhiên,
chúng tôi nhận nó nhân danh sáu triệu người Tây Tạng, những
người nông dân hiền hòa nam nữ bên trong Tây Tạng, những người
đã khổ đau và tiếp tục khổ đau quá nhiều. Họ đối diện trước
một chương trình và một hệ
thống có tính toán
nhầm phá hủy truyền thống, bản chất, văn hóa và đất nước của một
dân tộc. Giải thưởng xác nhận sự tin chắc của chúng tôi rằng
với sự thật, lòng can đảm và quyết tâm như vũ khí của chúng tôi,
Tây Tạng sẽ được giải phóng và tự do.
Không kể chúng ta đến từ nơi nào, tất
cả chúng ta căn bản là những con người như nhau. Tất
cả chúng ta cùng tìm
kiếm hạnh phúc an lạc và cố gắng xa lánh khổ đau. Chúng ta có
cùng căn bản những sự cần thiết và quan tâm của con người. Tất
cả những con người chúng ta muốn tự do và những quyền để quyết
định chân giá trị và số phận như những cá nhân và như những con
người. Đấy là tự nhiên của con người. Những đổi thay to tát
đang xảy ra khắp nơi trên thế giới, từ Đông Âu đến Phi Châu đã
biểu lộ rõ ràng cho điều này.
Ở Trung Quốc những vận động cho dân
chủ đã bị đàn áp một cách dã man trong tháng sáu năm nay. Nhưng
chúng tôi không tin sự chứng minh là vô hiệu, phù phiếm, bởi vì
tâm linh của tự do được
kích thích trong những người Trung Hoa và Trung
Quốc không thể trốn tránh khỏi tác động tinh thần này của tự do
đang thổi qua nhiều nơi trên thế giới. Những sinh viên học sinh
can trường và những người ủng hộ của họ đã chỉ cho giai cấp lãnh
đạo Trung Quốc và thế giới bộ mặt con người của quốc gia rộng
lớn này.
Tuần rồi một số người Tây Tạng một
lần nữa đã bị kết án tù đến mười chin năm tại một màn trình diễn
xét xử, nhầm mục đích có
thể làm hoảng sợ dân
chúng trước khi sự kiện ngày hôm nay xảy ra. “Tội”
trạng của họ chỉ là biểu lộ lòng khát khao sâu rộng của những
người Tây Tạng vì sự khôi phục nền độc lập cho non sông mến yêu
của họ.
Sự khổ đau của người dân chúng tôi
sau bốn mươi năm chiếm đóng là dẫn chứng rõ rệt. Những
khổ đau của chúng tôi qua một cuộc đấu tranh dài lâu. Chúng
tôi biết nguyên nhân của chúng tôi chi vì bạo động chỉ có thể
sản sinh thêm bạo động và khổ đau, sự đấu tranh của chúng tôi
phải duy trì bất bạo động và không thù hận. Chúng tôi đang cố
gắng để chấm dứt khổ
đau của người dân chúng tôi, mà không bắt người khác phải chịu
đau khổ.
Với điều này trong tâm chúng
tôi trù liệu thương thảo giữa Tây Tạng và Trung Quốc trong nhiều cơ
hội. Trong năm 1987, chúng tôi đã đề nghị rõ ràng trong chương
trình Năm Điểm cho việc khôi phục hòa bình và nhân quyền ở Tây
Tạng. Điều này bao gồm việc biến toàn bộ cao nguyên Tây Tạng
thành một Khu vực Ahimsa, một nơi tôn nghiêm của hòa bình và bất
bạo động nơi con người và thiên nhiên có thể sống trong sự an bình
và hòa hiệp.
Năm vừa rồi, chúng tôi đã trình bày
tỉ mĩ chương trình ấy tại Strasbourg, Nghị Viện Âu Châu, chúng
tôi tin tưởng những ý tưởng chúng tôi trình bày trong những dịp
ấy cả về thực tế và hợp tình hợp lý mặc dù chúng bị chỉ trích
bởi một số người Tây Tạng như là quá hòa giải. Bất hạnh thay,
giai cấp lĩnh đạo Trung Quốc đã không đáp ứng tích cực đến những
đề nghị mà chúng tôi đã đưa ra, điều
bao gồm cả những
nhượng bộ quan trọng. Nếu
điều này tiếp tục chúng tôi bắt buộc phải quyết định lại vị thế
của chúng tôi.
Bất cứ quan hệ nào giữa Tây Tạng và
Trung Hoa sẽ phải dặt cơ sở trên nguyên tắc của bình đẳng, tôn
trọng, tin tưởng và lợi ích hổ tương. Nó cũng sẽ là cơ sở trên
những nguyên tắc mà những nhà lãnh đạo của Tây Tạng và Trung Hoa
đã thiết lập trong những thỏa ước vào năm 823, đã được chạm trên
những cột trụ vẫn còn tồn tại đến
ngày này ở Tu Viện Jokhang, cung điện thiêng liêng và trang
nghiêm nhất của Tây Tạng, ở thủ đô Lhasa, rằng “người dân Tây
Tạng sẽ sống một cách hạnh phúc
trong lãnh thổ vĩ đại Tây Tạng, và người dân Trung Hoa sẽ sống
một cách hạnh phúc
trong mãnh đất rộng lớn của
Trung Hoa.”
Như một tu sĩ, sự lưu tâm của chúng
tôi mở rộng đến tất cả những thành viên của gia đình nhân loại
và thực tế, đến tất cả những chúng sinh khổ đau. Chúng tôi tin
rằng tất cả những đau khổ là do nguyên nhân của sựn thiếu hiểu
biết hay vô minh. Người ta bắt kẻ khác phải chịu đớn đau do sự theo đuổi
vị kỷ cho những hạnh phúc và hài lòng của họ. Tuy
thế, hạnh phúc chân thật đến từ một cảm xúc của tình anh chị
em. Chúng ta cần
phát triển một trách nhiệm toàn cầu cho những người khác và hành
tình mà chúng ta chia xẻ. Mặc dù chúng tôi tìm thấy sự hổ trợ
trong đạo Phật của
chúng tôi trong sự phát sinh yêu thương và từ bi, ngay cả những
ai mà chúng ta xem như là kẻ thù của
mình, chúng tôi tin chắc mọi
người có thể phát triển một trái tim tốt, một lòng hảo tâm và
một ý nghĩa trách nhiêm toàn cầu dù
mình có hay không có
tôn giáo.
Với một sự lớn mạnh chưa từng có của
khoa học ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta, tôn giáo và tâm
linh có một vai trò to lớn hơn để hành động nhầm nhắc nhở chúng
ta về tính con người của chúng ta. Không
có sự mâu thuẫn đối kháng giữa hai phía. Mỗi phía cho chúng ta
những tuệ sáng giá trị bên trong bên kia.
Cả khoa học giáo huấn của Đức Phật đã nói cho chúng ta về căn
bản nhất thống của tất cả mọi thứ. Điều
hiểu biết này là thiết yếu nếu chúng ta thể hiện những hành động
tích cực và kiên quyết trên sự quan tâm địa cầu thúc đẩy toàn
cầu với môi trường.
Chúng tôi tin tưởng tất cả tôn giáo
theo đuổi cùng mục tiêu, sự
phát triển lòng tốt nhân loại và mang hạnh phúc đến toàn thể
loài người.. Mặc dù
những ý nghĩa có thể biểu hiện khác nhau nhưng cuối cùng là
giống nhau.
Khi chúng ta bước vào thập niên cuối
cùng thế kỷ này, chúng tôi lạc quan rằng những giá trị truyền
thống từ xưa, những điều
đã nâng đở cho nhân
loại ngày nay đang xác nhận chính chúng để chuẩn bị cho chúng ta
cho một thế kỷ hai mươi mốt tử tế ân cần hơn, hòa bình hạnh
phúc hơn.
Chúng tôi nguyện cầu cho tất cả chúng
ta, kẻ áp bức lẫn bè bạn, rằng hợp sức cùng nhau chúng ta sẽ thành
công trong việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn qua tình
thương yêu và hiểu biết của nhân loại, và rằng trong việc làm
như thế chúng ta cũng có thể làm giảm bớt đớn đau và khổ sở của
toàn thể chúng sinh.
Chân thành cảm ơn.
Đại Học
Aula, thủ đô Oslo, Na Uy, ngày 10 tháng 12 năm 1989
Nobel Peace Prize
Acceptance Speech
Tuệ Uyển chuyển
ngữ
25-02-2009
DIỄN THUYẾT NOBEL
Anh chị em thân mến:
Thật là một niềm vinh dự và vui mừng
được cùng với quý vị hôm nay. Chúng tôi thật sự hạnh phúc để
thấy nhiều thân hữu từ lâu, những người
đã từng đến từ những khung trời khác nhau trên thế giới, và để
làm nên tình thân hữu mới, đến những ai mà tôi hy vọng gặp một
lần nữa trong tương lai. Khi chúng tôi gặp gởi mọi người
trong những vùng khác
nhau của thế giới, chúng tôi luôn luôn được nhắc nhở rằng chúng
ta căn bản giống nhau: tất cả chúng ta là những con người. Có
thể chúng ta có áo quần khác nhau, màu da chúng ta có khác nhau,
hay chúng ta nói chuyện bằng những ngôn ngữ khác nhau, điều ấy
chỉ là trên bề mặt. Nhưng căn bản, chúng ta là những con người
như nhau. Điều này
đã gắn bó chúng ta với nhau. Điều này đã làm chúng ta có thể
hiểu nhau và phát triển tình thân hữu và gần gũi hơn.
Nghĩ qua những gì chúng tôi có thể
nói hôm nay, chúng tôi quyết định chia sẻ với quý vị một số suy
nghĩ của chúng tôi quan tâm về những vấn đề thông thường mà chúng
ta đối diện như những thành viên của gia đình nhân loại. Bởi vì
chúng ta tất cả cùng
chia sẻ trái đất nhỏ bé này, chúng ta phải học để sống trong sự
hòa hiệp và hòa bình với nhau và với thiên nhiên. Điều
này không chỉ là mơ mộng, nhưng là mọt sự cần thiết. Chúng ta
bị lệ thuộc vào nhau trong rất nhiều cách, rằng chúng ta không
có thể sống cô lập được nữa, và chúng ta phải chia sẻ những may
mắn tốt đẹp mà chúng ta vui hưởng. Chúng tôi nói với quý vị chỉ
như một con người khác; như một tu sĩ đơn giản. Nếu
quý vị thấy những gì tôi nói là lợi ích, thế thì chúng tôi hy
vọng quý vị sẽ cố gắng để thực tập nó.
Chúng tôi cũng
ao ước chia sẻ với quý vị ngày hôm nay cảm nhận quan tâm của tôi
về thề nguyền cam kết và nguyện vọng của nhân dân Tây Tạng.
Giải thưởng hòa bình Nobel là một giải thật xứng đáng cho họ vì
sự can đảm và quyết
tâm không bao giờ hao mòn suốt bốn mươi năm qua dưới sự chiếm
đóng của ngoại bang. Như một người phát ngôn tự do cho những
người đàn ông đàn bà bị giam cầm của chúng tôi. Chúng
tôi cảm thấy nó là nghĩa vụ của tôi để nói lên thay mặt cho họ. Chúng
tôi không với một cảm giác giận dữ hay thù hận đối với những ai
có trách nhiệm cho những khổ đau vô hạn của nhân dân chúng tôi
và sự tàn phá quê hương và văn hóa của chúng tôi. Họ cũng là
những con người, những kẻ hành động để tìm hạnh phúc và cũng đáng được
chia sẻ với lòng từ
bi của chúng tôi. Chúng tôi nói để cho
quý vị biết về tình trạng đau buồn ở quê hương tôi ngày nay và
nguyện vọng của nhân dân tôi, bởi vì trong cuộc chiến đấu vì tự
do, sự thật là vũ khí duy nhất mà chúng tôi sở
hữu.
Nhận thức rõ rằng tất cả chúng ta căn
bản cũng là những con người như nhau, những người tìm hạnh phúc
và cố gắng né tránh khổ đau, thì rất lợi ích trong việc phát
triển một tình cảm anh chị em; một cảm giác ấm áp về yêu thương
và từ bi cho những người khác. Điều này là quan trọng để sống
còn nếu chúng ta ở trong
thế giới mãi làm ta
run sợ này mà chúng ta sống. Vì nếu mỗi chúng ta ích kỷ theo đuổi
chỉ những gì chúng ta tin tưởng trong sự quan tâm của chính
chúng ta mà không cần nghĩ đến những sự cấn thiết của kẻ khác,
có thể cuối cùng chúng ta chi tổn hại người khác mà cũng ngay cả
chính chúng ta. Sự kiện này đã trở nên rất rõ ràng trải qua
những diễn biến trong thế kỷ này. Chúng ta biết rằng nếu tiến
hành một cuộc chiến nguyên tử ngày nay, thí dụ, sẽ là một
hình thức của tự sát; hay rằng bởi sự ô nhiễm không khí hay đại
dương, để đạt đến một số lợi ích ngắn hạn, chúng ta đang tàn phá
chính nền tảng cho sự sống còn của chúng ta. Vì
thế, như những sự liên hệ hổ tương, chúng ta không có chọn lựa
nào khác hơn là phát triển điều mà chúng tôi gọi là một cảm giác
của trách nhiệm toàn cầu.
Ngày nay, chúng ta thật sự là một gia
đình địa cầu. Những
gì xảy ra trong một bộ phận của thế giới có thể tác động tới tất
cả chúng ta. Dĩ
nhiên, điều này không chỉ đúng
với những thứ tiêu cực xảy ra, mà cũng đồng giá trị cho những
phát triển tích cực. Chúng ta biêt không chỉ những gì xảy ra ở
nơi nào đấy, cảm ơn cho kỷ thuật thông tin tuyệt vời
hiện đại, mà chúng ta
cũng biết trực tiếp tác động bởi những sự kiện xảy ra xa tít
mù khơi. Chúng ta
cảm nhận một cảm giác đau buồn cho những đứa trẻ đang đói khát ở
miền đông Phi Châu. Tương
tự thế, chúng ta thấy một cảm giác vui thích khi một gia đình
đoàn tụ sau hàng thập niên bị chia cách bởi bức tường ô nhục Bá
Linh. Mùa màng và súc vật của chúng ta bị ô nhiễm, sức khỏe và
sinh kế chúng ta bị đe dọa khi một tai nạn
nguyên tử xảy ra hàng trăm, hàng nghìn dặm từ xa, ở một quốc gia
nào đấy. Sự an toàn
của chính chúng ta nổi bật lên khi hòa bình xảy ra giữa những phía
tham chiến ở những lục địa khác.
Những chiến tranh hay hoà bình; tàn
phá hay bảo vệ thiên nhiên; vi phạm hay tôn trọng nhân quyền và
dân chủ tự do; nghèo
hay giàu vật chất;
thiếu vắng những giá trị đạo đức hay tâm linh hay sự tồn tại và
phát triển của chúng; và sự sụp đổ hay phát triển sự hiểu biết
của nhân loại, không là những hiện tượng cô lập mà có thể phân
tích và giải quyết một cách độc lập từng thứ này đến thứ kia. Thực
tế, chúng liên hệ mật thiết rất nhiều với nhau tại tất cả mọi
trình độ và cần được tiếp cận với sự hiểu biết ấy.
Hòa bình, trong ý nghĩa vắng bóng của
chiến tranh, nó chỉ có một ý nghĩa nho nhỏ với những ai đang đói
khát hay lạnh lẽo. Nó
không thể xóa đi những nổi đau của tra tấn phải
chịu đựng trong ý thức của một tù nhân. Nó
không làm thoải mái những ai mất người thân thương trong lụt lội
bởi sự tàn phá rừng vô ý thức của quốc gia lân cận. Hòa bình
cuối cùng chỉ có thể hiện hữu nơi mà nhân quyền được tôn trọng,
nơi mà con người được no đủ, và nơi những cá nhân và quốc gia tự
do. Hòa bình thật sự
với chinh mình và với thế giới quanh ta chỉ có thể được đạt đến
qua sự phát triển hòa bình tâm linh. Những
hiện tượng khác đề cập ở trên là những sự liên hệ hổ tương tương
tự. Vì thế, chúng ta thấy rằng một môi trường sạch, thịnh
vượng hay dân chủ có ý nghĩa nhỏ thôi trong sự đối diện với
chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh nguyên tử, và sự phát triển
vật chất đó không có
khả năng để bảo đảm hạnh phúc của nhân loại.
Tiến trình vật chất dĩ nhiên là quan
trọng cho sự tiến bộ của nhân loại. Ở
Tây Tạng, chúng tôi chú ý rất ít đến sự phát triển của khoa học
kỷ thuật và kinh tế, và hôm nay chúng tôi nhận ra điều này là
một sai lầm. Cùng
lúc, sự phát triển vật chất mà không có sự phát triển tâm linh
cũng có thể là nguyên nhân cho những vấn nạn nghiêm trọng. Trong
một số quốc gia đã chú ý quá nhiều đến những thứ ngoại tại và
chỉ rất ít quan trọng được lưu tâm cho sự phát triển nội tại.
Chúng tôi tin cả hai là quan trọng và phải
được phát triển bên cạnh để cho có một sự cân bằng giữa chúng. Người
Tây Tạng luôn luôn được diễn tả bởi những du khách ngoại quốc như
là những người an lạc và vui tính. Đặc tính quê hương này của
chúng tôi, được hình thành bởi những giá trị văn hóa và tôn giáo
nhấn mạnh sự quan
trọng của hòa bình tinh thần qua sự phát sinh của yêu thương và
tử tế ân cần đến tất cả những loài chúng sinh, cả loài người và
loài vật. An bình
nội tại là then chốt: nếu chúng ta có an bình nội tại, những vấn
đề ngoại tại không tác động cảm giác sâu xa của hòa bình và tĩnh
lặng. Trong trạng thái của này của tâm thức chúng ta có thể đối
phó với những tình trạng bằng sự tĩnh lặng và lý trí, trong khi giữ
sự hạnh phúc an lạc
nội tại của chúng ta. Điều
này rất quan trọng. Không có sự an bình nội tại này, dù cho
sự thoải mái đời sống vật chất chúng ta thế nào đi nữa, chúng ta
có thể vẫn lo lắng,
phiền muộn hay không vui do bởi trạng huống xảy ra.
Vì thế, rõ ràng, quan trọng vô cùng
để hiểu sự liên hệ hổ tương trong những hiện tượng này và hiện
tượng khác, và để tiếp cận và cố gắng giải quyết những vấn nạn
trong một cung cách cân bằng để đem những khía cạnh khác nhau
vào trong sự cân nhắc. Dĩ
nhiên điều ấy không dễ dàng. Nhưng
nó là một ít lợi ích để cố gắng giải quyết một vấn đề nếu không
làm thế nó sẽ tạo nên một vấn đề mới nghiêm
trọng như nhau. Vì thế thật sự chúng ta không có lựa chọn nào
khác: chúng ta phải phát triển một cảm giác trách nhiệm toàn cầu
không chỉ trong ý nghĩa địa lý, mà cũng trong sự tôn trọng đến
những vấn đề khác đối diện với hành tinh chúng ta.
Trách nhiệm không chỉ ở nơi những
lãnh tụ của những quốc gia hay những ai được chỉ định hay đắc cử
để làm những công việc đặc thù nào đấy. Nó
thuộc mỗi chúng ta một cách cá nhân. Thí
dụ, hòa bình bắt đầu trong mỗi chúng ta. Khi
chúng ta có hòa bình nội tại, chúng ta có thể ở trong trạng thái
hòa bình với những người chúng quanh chúng ta. Khi
cộng đồng chúng ta ở trong tình trạng hòa bình, nó có thể chia
sẻ trạng thái hòa bình ấy với những cộng đồng lân cận, và tiếp
tục nhân rộng ra. Khi chúng ta cảm thấy yêu thương và tử tế ân cần
với những người khác, nó không chỉ làm cho những người khác cảm
thấy được yêu thương
và chú ý đến, mà nó cũng giúp chúng ta phát triển hạnh phúc và
hòa bình nội tại. Và có những phương pháp mà chúng
ta có thể hành động
một cách có ý thức để phát triển những cảm giác yêu thương và tử
tế ân cần. Đối với
một số chúng ta, phương pháp tác động nhất để làm thế là qua
thực hành tôn giáo. Đối
với những người khác nó có thể là sự thực tập không tôn giáo.
Điều gì là quan trọng đấy là mỗi chúng ta làm một nổ lực chân
thành để nhận lấy
trách nhiệm của chúng ta cho mỗi người khác và cho môi trường
thiên nhiên mà chúng ta đang sống một cách nghiêm chỉnh.
Chúng tôi rất phấn khích bởi sự phát
triển đang xảy ra chung quanh chúng ta. Sau
khi những người trẻ nhiều quốc gia, đặc biệt ở Bắc Âu, đã nhiều
lần kêu gọi cho một sự
chấm dứt những sự tàn
phá môi trường nguy hiểm đã được tiếp diễn nhân danh
sự phát triển kinh tế, những lĩnh tụ chính trị thế giới bây giờ
đang bắt đầu hành động những bước ý nghĩa để nói về vấn đề này.
Báo cáo đến Tổng thư ký
Liên hiệp Quốc bởi Ủy ban Thế Giới Môi Trường và Phát triển là
một bước quan trọng trong sự giáo dục chính phủ trên sự cấp bách
của vấn để. Những nổ lực để mang đến hòa bình đến những vùng
chiến tranh và sự thi hành quyền tự quyết của một số người kết
quả trong sự rút binh sĩ Sô Viết ra khỏi A Phú Hãn và sự hình
thành nền độc lập cho Namibia. Những
nổ lực phổ biến bất bạo động bền bỉ, những thay đổi ấn tượng,
mang nhiều quốc gia gần hơn với dân chủ thật sự, đã xảy ra trong
nhiều nơi, từ Manila ở Phi Luật Tân đến Bá Linh ở Đông Đức. Với
Kỷ nguyên Chiến tranh lạnh chấm dứt, mọi người khắp nơi
sống với niềm hy vọng
mới. Đáng buồn thay, nổ lực can trường của nhân dân Trung Hoa
để mang đến sự thay đổi tương tự đến xứ sở họ đã bị đàn áp một
cách dã man vào tháng sáu vừa rồi. Nhưng
nổ lực của họ cũng là nguồn gốc của hy vọng. Tầng lớp quân sự
đã không thể dặp tắt khát vọng tự do và quyền tự
quyết của nhân dân
Trung Hoa . Chúng
tôi đặc biệt khâm phục sự kiện rằng những người dân trẻ tuổi này
dù đã từng được dạy rằng “chính quyền trên đầu súng”, thay vì
thế đã chọn lựa, dùng bất bạo động như vũ khí của họ.
Những thay đổi tích cực này đã cống
hiến gì, đấy là lý trí, can đảm, quyết tâm,và khát
vọng không mệt mỏi cho tự do cuối cùng có thể thắng lợi. Trong
sự đấu tranh giữa sức mạnh của chiến tranh, bạo động, và đàn áp
về một phía, và phía kia là
hòa bình, lý trí, và tự do sau cùng sẽ dành được trong tầm
tay. Nhận thức này tưới tẩm đầy ấp
hy vọng cho chúng tôi
rằng một ngày nào đấy những người Tây Tạng một lần nữa cũng sẽ
dành được tự do.
Phần thưởng giải Nobel hòa bình đến
với chúng tôi, một tu sĩ đơn giản từ Tây Tạng xa xôi, ở đây Na
Uy, cũng tưới tẩm đầy ấp hy vọng cho những người Tây Tạng. Nó
có nghĩa là, mặc dù sự kiện là chúng tôi không lôi cuốn sự chú ý
đến thề nguyền của chúng tôi bằng bạo động, chúng tôi sẽ không
bị lãng quên. Nó cũng có nghĩa là giá trị mà chúng tôi yêu mến,
đặc biệt trong sự tôn trọng tất cả những hình thức của sự sống
và sự tin tưởng trong năng lực của sự thật, là hôm nay được công
nhận và khuyến khích. Nó
cũng là một tặng phẩm đến người hướng dẫn của chúng tôi, Thánh
Gandhi, mà tấm gương của người là một sự truyền cảm đến rất
nhiều người trong chúng ta. Giải
thưởng năm nay là một chỉ dẫn rằng cảm giác trách nhiệm toàn cầu
này đang lớn mạnh. Chúng tôi thật sự
rung động sâu xa bởi
sự quan tâm chân thành biểu lộ bởi quá nhiều người trong phần
thề giới này đến sự khổ đau của nhân dân Tây Tạng. Đấy
là một nguồn hy vọng không chỉ cho người Tây Tạng chúng tôi, mà
cho tất cả những người bị áp bức.
Như quý vị biết, Tây Tạng đã bị ngoại
bang chiếm đóng đã bốn mươi năm. Ngày
nay, hơn một phần tư triệu quân Trung Cộng đang đóng ở Tây
Tạng. Một số nguồn
khác ước lượng quân đội chiếm đóng là gấp đôi số này. Trải qua
thời gian này, người Tây Tạng đã bị tước đoạt hầu hết những
quyền căn bản của con người, kể cả quyền để sống, di chuyển,
ngôn luận, tín ngưỡng, chỉ được đề cập một ít. Hơn một phần sáu
của sáu triệu người đã chết một cách trực tiếp như kết quả của
sự xâm lăng và
chiếm đóng của Trung Cộng. Ngay
cả trước khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu, nhiều tu viện, chùa
chiền, và những tòa nhà lịch sử của Tây Tạng đã bị tàn phá. Hầu
hết những gì còn lại đã bị phá hủy trong Cách mạng Văn hóa. Chúng
tôi không muốn dừng lại ở điểm này, dù có rất nhiều tài liệu cụ
thể. Tuy nhiên, điều
quan trọng để nhận thức là dù có những tự do giới hạn được cho
phép sau 1979, để xây dựng lại những phần của một số tu viện và
những bằng như vậy của sự cởi mở, những quyền con người căn bản
của nhân dân Tây Tạng vẫn bị vi phạm một cách có hệ thống ngày
nay. Trong những
tháng gần đây tình trạng xấu này đã trở nên tệ hại hơn.
Nếu không có sự che chở và hổ trợ vô
cùng rộng rãi của chính quyền và nhân dân Ấn Độ, cùng sự giúp đở
bởi những tổ chức và cá nhân cho cộng đồng tị nạn lưu vong, quốc
gia chúng tôi ngày nay sẽ
không gì hơn dấu vết điêu tàn của một dân tộc. Nền
văn hóa, tôn giáo, và bản sắc quê hương của chúng tôi sẽ bị xóa
sổ một cách thảm hại. Như
thế, chúng tôi đã xây dựng trường học và tu viện trong lưu vong
và đã tạo nên một thể chế dân chủ để phục vụ nhân dân chúng tôi
và để bảo tồn những hạt giống nền văn minh của chúng tôi. Với
những kinh nghiệm này, chúng tôi dự hướng thi hành một nền dân
chủ hoàn toàn cho một Tây Tạng tự do trong tương lai. Vì thế,
khi chúng tôi phát triển cộng đồng lưu vong trên nền tảng hiện
đại, chúng tôi cũng yêu mến và bảo tồn bản sắc và văn hóa của
chúng tôi và mang niềm hy vọng đến hàng triệu đồng bào nam nữ
chúng tôi ở Tây Tạng.
Vấn đề khẩn cấp quan tâm hiện nay là
việc định cư ồ ạt người Han ở Tây Tạng. Mặc dù trong những thập
niên đầu tiên chiếm đóng một số lượng lớn những người Han đã
được chuyển đến những phần phía đông của Tây Tạng – trong những
tỉnh Tây Tạng là Amdo (Thanh Hải) và Kham (hầu hết những vùng
này đã bị sáp nhập vào những tỉnh lân cận của Trung Hoa) – từ
năm 1983 một số lượng không được biết rõ người Han đã được chính
quyền khuyến khích di cư tới tất cả mọi vùng của Tây Tạng, kể cả
miền trung và tây của Tây Tạng (nơi mà chính phủ Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa gọi là
Khu Tự Trị Tây Tạng). Người Tây Tạng nhanh chóng biến thành
người thiểu số một cách rõ ràng ngay trên quê hương của họ. Sự
mở rộng này đe dọa sự tồn tại của chính quốc gia quê hương Tây
Tạng, truyền thống văn
hóa và tâm linh, vẫn có thể được dừng lại và đảo ngược. Nhưng
điều này phải được thực hiện ngay bây giờ, trước khi nó quá
muộn.
Một vòng mới của chống đối và đàn áp
bạo lực bắt đầu ở Tây Tạng vào tháng Chín năm 1987 và lên đến
cực điểm trong việc áp đặt thiết quân luật ở thủ đô Lhasa ,
trong tháng Ba năm nay, là một bộ phận lớn của
một phản ứng đến lượng người Han ồ ạt. Tin tức đến được với
những người lưu vong chúng tôi là những cuộc tuần hành chống đối
và những hình thức phản kháng hòa bình khác đang tiếp tục tại
Lhasa và một số những vùng khác ở Tây Tạng, mặc cho những sự
trừng phạt kinh khiếp và những đối xử vô nhân đạo đặt lên người
Tây Tạng để ngăn trở họ biểu lộ sự bất bình. Một số người Tây
Tạng bị giết bởi những lực lượng an ninh
vũ trang trong cuộc phản kháng tháng Ba và những người bị chết
trong sự giam cầm sau đó thì không được biết nhưng được tin là
hơn hai trăm người. Hàng nghìn người bị tù tội hay bị bắt giữ
và giam cầm, và tra tấn là chuyện thường.
Để phòng ngừa nguyên nhân của tình
trạng tệ hại này và nhầm để phòng ngừa những sự đẩm máu nhiều
hơn nữa về sau, chúng tôi
đã đề xuất liên hệ một cách phổ quát như Dự án Năm điểm Hòa
bình để tái lập sự thanh bình và nhân quyền ở Tây Tạng. Chúng
tôi đã trình bày chi tiết của dự án trong
một phát biểu ở Strasbourg năm ngoái. Chúng tôi tin tưởng rằng
dự án cung
ứng một khuôn thức hợp lý và thực tiển cho những cuộc thương
thảo với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Tuy
thế, đối với điều này giới lĩnh đạo Trung Hoa đã không có đáp
ứng thiện chí xây dựng. Tuy nhiên, sự đàn áp dã man cuộc vận
động dân chủ cho Trung Hoa vào tháng Sáu năm nay, đã thúc đẩy
cho quan điểm của chúng tôi rằng bất cứ sự giải pháp nào cho vấn
để Tây Tạng chỉ đầy đủ ý nghĩa nếu nó được hổ trợ bởi những sự
bảo đảm quốc tế thích đáng.
Dự án Năm
điểm Hòa bình nêu lên những vấn đề chính yếu
và liên hệ hổ tương, trong ấy chúng tôi đã đề cập đến trong phần
đầu của diễn thuyết này. Nó kêu gọi:
1- Biến
toàn thể Tây Tạng, kể cả những tỉnh miền đông, Kham và Amdo,
thành một vùng bất bạo động (Ahimsa).
2- Từ
bỏ chính sách di chuyển dân cư của Trung Hoa.
3- Tôn
trọng những quyền căn bản và sự tự do dân chủ của người Tây
Tạng.
4- Tái
lập và bảo vệ môi trường thiên nhiên của Tây Tạng.
5- Khởi
động thương thảo nghiêm chỉnh về vị thế tương lai của Tây Tạng
và về quan hệ giữa người Tây Tạng và người Han.
Trong phát biểu tại Strasbourg chúng
tôi đã đề xuất Tây Tạng trở thành một chính quyền hoàn
toàn tự trị với chính sách thực thi dân chủ.
Chúng tôi muốn nhân cơ hội này để
giải thích về Vùng Bất Bạo Động (Ahimsa)
hay Khái niệm Bảo tồn
Hòa bình, đấy là trung tâm của Dự Án Năm Điểm Hòa Bình. Chúng
tôi tin chắc đấy là điều quan trọng vô cùng không chỉ cho Tây
Tạng mà cho cả nền hòa bình và ổn định ở Á châu.
Niềm mơ ước của chúng tôi là toàn bộ
cao nguyên Tây Tạng nên trở thành chốn trú ẩn tự do nơi mà con
ngưởi và thiên nhiên có thể sống trong thanh bình và trong sự
cân bằng hòa hiệp. Nó sẽ là một nơi mà con người từ khắp nơi
trên thế giới có thể đến để tìm một ý nghĩa chân thật của hòa
bình trong chính họ, xa rời những căng thẳng và áp lực của hầu
hết những nơi khác trên thế giới. Tây Tạng có thể thật sự trở
thành một trung tâm sáng tạo cho sự xúc tiến và phát triển hòa
bình.
Sau đây là những yếu tố then chốt của
đề xuất Vùng Bất Bạo Động:
- Toàn
thể cao nguyên Tây Tạng sẽ phi quân sự hóa;
- Những
sự sản xuất, thử nghiệm, và dự trử vũ khí nguyên tử và những thứ
vũ khí khác trên cao nguyên Tây Tạng sẽ bị cấm chỉ.
- Cao
nguyên Tây Tạng sẽ được biến thành một công viên thiên nhiên hay
sinh quyển lớn nhất của thế giới. Những luật lệ nghiêm khắc sẽ
được thi hành để bảo vệ đời sống hoang dã và thực vật; sự khai
thác tài nguyên thiên nhiên sẽ được điều chỉnh một cách cẩn thận
để không làm tổn hại liên quan đến hệ thống sinh thái; và một
chính sách phát triển hợp lý sẽ được tiếp thu trong những khu
vực cư dân;
- Những
việc sản xuất và dùng năng lượng nguyên tử cùng những kỷ thuật
khác sản sinh những chất thải nguy hiểm sẽ bị cấm chỉ.
- Tài
nguyên và chính sách quốc gia sẽ hướng trực tiếp đến sự khuyến
khích năng động cho hòa bình và sự bảo vệ môi trường. Những tổ
chức cống hiến đến sự đẩy mạnh hòa bình và để bảo vệ tất cả
những hình thức của sự sống sẽ tìm thấy một ngôi nhà mến khách ở
Tây Tạng.
- Sự
thành lập những tổ chức quốc tế và địa phương cho sự xúc tiến và
bảo vệ nhân quyền sẽ được khuyến khích ở Tây Tạng.
Chiều cao và kích thước của Tây Tạng
(bằng diện tích của Cộng Đồng Âu Châu), cũng như lịch sử đặc
biệt và truyền thống tâm linh sâu sắc làm cho nó thích hợp một
cách lý tưởng để hoàn thành vai trò cho sự bảo tồn hòa bình
trong trái tim chiến lược quan trọng của Á châu. Nó
cũng sẽ được gìn giữ với vai trò lịch sử của Tây
Tạng như một quốc gia Phật Giáo hòa bình và là vùng đệm chia
cách những quốc gia to lớn và thường kình địch của lục địa Á
châu.
Nhầm để giảm thiểu căng thẳng hiện
hữu ở Á châu, Tổng Thống Liên
Bang Sô Viết, Gorbachev, đề xuất sự triệt thoái quân đội ở biên
giới Trung – Sô và biến biên giới của họ thành “một biên giới
của hòa bình và láng giềng tốt”. Chính quyền Nepal trước đây đã
từng đề xuất rằng quốc gia Hy mã lạp sơn Nepal, giáp giới với
Tây Tạng, nên trở thành một khu vực hòa bình, mặc dù đề nghị ấy
không bao gồm sự giải trừ vũ khí của quốc gia.
Vì một Á châu ổn định và hòa bình, thật
cần thiết để tạo nên những khu vực hòa bình cách ly những cường
lực lớn nhất của lục địa và những đối thủ tiềm tàng. Sự
đề xuất của Tổng Thống Gorbachev cũng bao gồm một sự triệt thoái
hoàn toàn quân đội Liên Sô khỏi Mongolia sẽ giúp giảm bớt căng
thẳng và khả năng đối đầu giữa Trung – Sô. Một khu vực hòa bình
chân thực cũng phải được hình thành một cách rõ ràng để cách ly
hai nước đông dân nhất thế giới, Trung Hoa và Ấn Độ.
Sự thiết lập Khu Vực Bất Bạo Động sẽ
đòi hỏi việc rút quân đội và hệ thống quân sự ra khỏi Tây Tạng,
điều cho phép Ấn Độ và Nepal cũng có thể rút quân đội và hế
thống quân sự ra khỏi vùng Hy mã lạp sơn tiếp giáp với Tây
Tạng. Điều này sẽ
được đạt đến bằng những thỏa thuận quốc tế. Nó sẽ là điều quan
tâm và hấp dẫn hàng đầu đến tất cả những quốc gia ở Á châu, đặt
biệt là Trung Hoa và Ấn Độ, như nó sẽ nâng cao sự bảo vệ của họ,
trong khi giảm bớt gánh nặng kinh tế của việc duy trì tập trung
quân đội cao độ ở những vùng xa xôi.
Tây Tạng sẽ không phải là một vùng
chiến lược đầu tiên giải trừ quân bị. Những
bộ phận ở bán đảo Sinai, lĩnh thổ của Ai Cập chia cách Do Thái
và Ai Cập, thỉnh thoảng đã từng được giải giáp. Dĩ
nhiên, Costa Rica là thí vụ điển hình nhất của một quốc gia hoàn
toàn giải trừ vũ khí. Tây Tạng cũng muốn là vùng đầu tiên được
biến thành một khu bảo tồn thiên nhiên hay sinh quyển. Nhiều
công viên đã từng được thành lập khắp thế giới. Một
số vùng chiến lược chính đã từng được biến thành “những công
viên hòa bình” thiên nhiên. Những thí dụ đấy là Công viên La
Amistad, nằm trên biên giới Costa Rica – Panama và chương trình
Si A Paz trên biên giới Costa Rica – Nicaragua.
Khi chúng tôi thăm viếng Costa Rica
vào đầu năm nay, chúng tôi đã thấy làm thế nào một quốc gia có
thể phát triển một cách thành công mà không có quân đội, để trở
thành một nền dân chủ ổn định hướng đến hòa bình và bảo vệ môi
trường thiên nhiên.
Điều này củng cố niềm tin của chúng tôi rằng quan kiến của chúng
tôi về Tây Tạng trong tương lai và một dự án thực
tiển, không chỉ đơn thuần là một giấc mơ.
Hãy để cho chúng tôi chấm dứt với một
lưu ý cá nhân để cám ơn tất cả quý vị và thân hữu của chúng tôi
có mặt ở đây hôm nay. Sự quan tâm và hổ trợ mà quý vị đã bày tỏ
cho cảnh ngộ của người Tây Tạng đã làm chúng tôi xúc động vô
vàn, và tiếp tục ban cho chúng tôi sự
can trường để chiến đấu cho tự do và công lý: không phải qua
việc dùng vũ lực, mà qua vũ khí mạnh mẽ kiên cường của chân lý
và quả quyết. Chúng tôi biết rằng chúng tôi nói lên nhân danh
tất cả những người Tây Tạng khi cảm ơn và xin quý vị đừng quên
Tây Tạng ở thời điểm nguy nan này của lịch sử quê hương chúng
tôi. Chúng tôi cũng
hy vọng cống hiến đến sự phát triển cho một nền hòa bình hơn,
nhân bản hơn, và thế giới xinh tươi hơn. Một Tây Tạng tự do
tương lai sẽ tìm thấy sự hổ trợ của những ai khăp thế giới cần
kiếp để bảo vệ thiên nhiên, và thúc đẩy hòa bình. Chúng tôi tin
tưởng rằng khả năng người Tây Tạng để phối hợp những phẩm chất
tinh thần với một thái độ thực tế và thực tiển có thể cho phép
chúng tôi làm nên một cống hiến đặc biệt, ,
dù trong một phương thức khiêm tốn đi nữa. Đây
là sự hy vọng và nguyện cầu của chúng tôi.
Để kết luận, hãy để chúng tôi chia xẽ
với quý vị một lời cầu nguyện ngắn mà đã cho tôi một niềm cảm
hứng và quả quyết lớn lao:
Cho đến khi không gian còn hiện hữu,
Và khi
chúng sinh vẫn còn tồn
tại,
Cho đến lúc ấy, nguyện cho chúng tôi
cũng còn hiện diện
Để xua tan khổ đau của trần thế.
Chân thành cảm ơn.
Diễn thuyết Nobel, ngày 11, tháng
Mười hai năm 1989
_________
XỬ DỤNG TIỀN
THƯỞNG GIẢI NOBEL
Chúng tôi quyết định hiến tặng một phần tiền thưởng cho những
người trong nhiều vùng khác nhau của thế giới đang đối diện với
nạn đói; một phần cho những người bị bệnh hủi ở Ấn Độ, một phần
cho những tổ chức và chương trình hiện hữu hoạt động cho hòa
bình; và cuối cùng chúng tôi muốn dùng một phần như tiền hạt
nhân để cuối cùng thiết lập Tổ Chức Tây Tạng vì Trách Nhiệm Toàn
Cầu.
Tổ chức mới này sẽ thi hành những
chương trình tuân theo những nguyên tắc của Phật Giáo Tây Tạng
để làm lợi ích cho nhân loại khắp mọi nơi, đặc biệt tập trung trên
sự hổ trợ những phương pháp bất bạo động, trên sự cải thiện đối
thoại giữa tôn giáo và khoa học, trên sự bảo đảm nhân quyền và
tự do dân chủ, và trên bảo tồn và hồi phục Bà Mẹ Trái Đất quý
giá của chúng ta.
Chúng tôi thêm chữ “Tây Tạng” một
cách thận trọng vào tên của tổ chức vì thế điều này sẽ là một
trong những tổ chức Tây Tạng đầu tiên thật sự thiết lập để hành
động từ trái tim của người Tây Tạng để làm những việc tốt lành
và hữu ích không chỉ cho xứ sở của chính họ mà cho con người
khắp thế giới.
Tây Tạng cũ thì hơi quá cô lập. Tây
Tạng tương lai sẽ được hành động để hổ trợ những ai cần thiết
khắp thế giới, đặc biệt áp dụng những lĩnh vực chuyên môn của
chúng tôi về tâm lý học, tâm linh học, và những vấn đề triết lý.
Dĩ nhiên, nhiều cá nhân, tổ chức và chính phủ đang hoạt động
trên những lĩnh vực này rồi, và nhiều hơn nữa sẽ làm như thế một
cách chắc chắn khi khủng hoảng của thế gian này trở nên
rõ ràng và mãnh liệt
hơn. Tuy nhiên, chúng tôi tin tưởng rằng sự phối hợp của người
Tây Tạng về tâm linh và thực tiển sẽ làm một sự cống hiến đặc
biệt, dù trong một phương thức khiêm tốn đi nữa. Một khi tổ
chức này bắt đầu hoạt động chúng tôi hy vọng có thể biểu lộ một
Tây Tạng tự do có thể ban tặng cho thế giới điều gì một khi thời
điểm của nó đến.
Thủ đô Oslo, Na Uy, ngày 10 tháng
Mười hai năm 1989.
--
Trích từ quyển
“The Dalai Lama, A Policy
of Kindness”
Và http://www.dalailama.com/page.119.htm
07-12-2009