*
Thiền sư Ajahn Brahmavamso là vị
trụ trì tu viện Bodhinyana (Giác Minh), bang Tây Úc, Australia.
Ngài cũng là vị cố vấn tinh thần của Hội Phật giáo Tây Úc. Ngài
đã từng tu học tại Thái Lan, trong truyền thống Phật giáo Nguyên
thủy, dưới sự hướng dẫn của ngài Thiền sư Ajahn Chah. Sau đây là
vài đoạn trích dịch từ một bài phỏng vấn của bà Rachael Kohn,
phóng viên đài phát thanh Úc châu, vào tháng 3-2003.
* * *
Rachael Kohn (RK):
Tìm sự an bình trong một thế giới vui chơi ồn ào quả thật là một
điều hiếm có đối với một chàng trai trẻ. Sinh ra tại thủ đô
London của Anh quốc, tốt nghiệp thạc sĩ ngành Vật lý Lý thuyết
tại Đại học Cambridge, Ajahn Brahmavamso trở thành một tu sĩ
Phật giáo trong truyền thống Ẩn lâm của Thiền sư Ajahn Chah tại
Thái Lan. Ngày nay, ngài là vị trụ trì Tu viện Bodhinyana, huyện
Serpentine, bang Tây Úc, và là một giảng sư được nhiều nơi thỉnh
mời, và nổi tiếng về tài kể các mẫu chuyện ngắn rất ý nghĩa.
Mặc dù sống đơn giản là căn
bản của đời sống tu sĩ, nhất là trong khung cảnh núi rừng ở
huyện Serpentine, nhưng có lẽ điểm chính yếu của tuệ quán Phật
giáo là tìm thấy sự an bình trong thế giới loạn động. Và đó cũng
tương tự với sự kiện lần đầu tiên khi tôi gặp Sư Brahmavamso tại
Trung tâm Thiền Phật giáo Bodhikusuma tọa lạc trong khu nội thị
ồn ào của thành phố Sydney, với các đoàn xe tải di chuyển rầm rộ
ngay trước cửa.
Bạch Sư, ngài là tu sĩ từ
nhiều năm qua, hình như ngài đi tu lúc 23 tuổi?
Ajahn Bramavamso (AB):
Vâng, năm tôi 23 tuổi, tôi thấy đời sống thế tục không có gì hấp
dẫn, và quyết định trở thành tu sĩ. Trước đó, tôi đi dạy, sau
khi tốt nghiệp đại học. Trong thời gian làm giáo viên, tôi cảm
thấy trong tâm có một cảm xúc rất mạnh mẽ về đời sống tu sĩ, hay
một sự thôi thúc tâm linh nào đó. Hơn nữa, trong truyền thống
Phật giáo Thái Lan, người ta có thông lệ xuất gia tu gieo duyên,
nghĩa là đi tu chỉ trong một thời gian ngắn.
Vì thế, tôi quyết định xin nghỉ
việc tạm thời trong vài năm, du hành sang Thái Lan, xuất gia đi
tu, để thỏa mãn sự thôi thúc trong tâm, rồi sau đó, sẽ trở về
đời sống thế tục. Nhưng một khi tôi trở thành tu sĩ, có cái gì
đó đã xảy ra rất nhanh chóng làm cho tôi nhận thức được rằng đây
chính là điều tôi hằng mong ước, và tôi cảm thấy rất thoải mái
trong vai trò của một tu sĩ.
RK:
Xin Sư nói rõ hơn, về lý do thật sự đã làm cho Sư có một quyết
định thay đổi cuộc sống như thế?
AB:
Điều làm tôi có một quyết định
rốt ráo như thế là vì tôi nhận thức được rằng đối với tôi lúc ấy,
có một cái gì đó trong đời sống thật sự quan trọng hơn là chỉ đi
làm việc hay dính mắc vào tình cảm yêu đương. Có lẽ một trong
những kinh nghiệm rung cảm nhất trong đời tôi là kinh nghiệm có
được khi tôi tham dự các khóa thiền khi còn là cư sĩ. Tôi đạt
được một mức độ an định rất thâm sâu, với nhiều hỷ lạc. Cảm giác
đó không bao giờ rời khỏi tôi, và tôi muốn tìm hiểu ý nghĩa thật
sự của nó, và vai trò của nó trong thế gian này. Sự an định
trong thiền là những gì làm thay đổi cái nhìn của tôi về ý nghĩa
của đời sống, và tôi muốn tìm hiểu sâu xa hơn về ý nghĩa đó.
Điều này chỉ thực hiện được trong đời sống xuất gia.
RK:
Thế nhưng qua những gì Sư đã
từng kể cho biết, đời sống tu hành của Sư cũng không thoải mái
lắm. Ý tôi muốn nói là Sư đã bỏ nhiều công sức xây dựng chùa
chiền trong suốt 20 năm, trong hoàn cảnh rất khó khăn...
AB:
Xây dựng tự viện quả thật rất
cực nhọc, nhưng cũng đầy thú vị nếu chúng ta làm việc trong niềm
hoan hỷ. Một trong những câu chuyện tôi thường kể là khi chúng
tôi xây dựng chánh điện tại tu viện của thầy tôi, ngài thiền sư
Ajahn Chah, ở Thái Lan. Một ngày nọ, ngài Ajahn Chah bảo chúng
tôi phải dời một đống đất lớn từ nơi này sang một nơi khác, vì
ngài cho rằng nếu để ở đây thì không đẹp mắt.
Chúng tôi làm việc cực khổ suốt
3 ngày, từ 9 giờ sáng đến 10 giờ đêm, không ngừng nghỉ, ngoại
trừ lúc ăn. Mỗi ngày, chúng tôi chỉ ăn một bữa cơm, và chúng tôi
làm việc trong thời tiết nóng bức của vùng nhiệt đới. Sau khi
hoàn tất, chúng tôi rất vui mừng, nhưng lúc đó, ngài Ajahn Chah
lại đi viếng một tu viện khác. Sáng hôm sau, vị sư phó trụ trì
đến gặp chúng tôi, bảo rằng chúng tôi đã đổ đống đất đó nhầm chỗ
và chúng tôi phải dời đống đất đi nơi khác. Thế là chúng tôi
phải làm việc thêm 3 ngày nữa, và dĩ nhiên tôi rất vui sướng khi
hoàn tất công việc ấy.
Tuy nhiên, ngày hôm sau, Ajahn
Chah trở về, ngài gọi chúng tôi đến và bảo: "Tại sao các sư lại
đem đổ đống đất ở chỗ đó? Tôi đã dặn các sư phải đổ đất tại chỗ
này mà?!" Thế là chúng tôi lại phải ra sức lao động di dời đống
đất thêm 3 ngày nữa. Dĩ nhiên là tôi phát cáu, nổi sân. Là người
Tây phương duy nhất trong một tu việc châu Á, tôi có thể lầm
bầm, càu nhàu bằng tiếng Anh, không sợ người khác biết. Nhưng
các vị sư khác vẫn hiểu được, vì họ có thể đoán qua cử chỉ của
tôi.
Và một sự kiện xảy ra làm tôi
luôn luôn ghi nhớ. Một vị sư đến gần tôi và dịu dàng nói: "Đẩy
xe cút kít rất dễ, nhưng càng suy nghĩ về nó lại càng tạo thêm
khó khăn!" Chỉ một câu nói đó đã thay đổi cái nhìn của tôi về
công việc tôi đang làm. Ngay khi tôi chấm dứt càu nhàu, than
phiền, công việc đẩy xe cút kít đổ đất trở nên dễ dàng và nhẹ
nhàng hơn. Đây là tôi đã học được một trong những bí quyết của
đời sống tu sĩ. Cho dù ta đang làm bất cứ việc gì, ngồi hành
thiền giờ này sang giờ khác trong tịnh thất hay phải lao động
xây cất chùa chiền, chính sự đắn đo than trách làm cho công việc
trở nên khó khăn, cực nhọc hơn.
RK:
À, như thế có vẻ như một trong
các bí quyết của đời sống tu sĩ là phải biết tuân lệnh. Phải
chăng đó là một hình thức tra tấn, khổ nhục? Tuân lệnh làm một
việc nầy, rồi đảo ngược lại, rồi làm lại như trước?
AB:
Không hẳn thế. Cùng một sự kiện
qua một góc nhìn này, ta thấy thế này, nhưng qua một góc nhìn
kia, ta lại thấy khác. Ta có thể thấy việc gì cũng là một cực
hình khổ sở, việc ăn uống có thể là một cực hình, bị phỏng vấn
như thế này cũng là một cực hình, v.v. nhưng thái độ của ta đối
với các công việc ấy như thế nào mới là điều quan trọng. Và một
trong những bài học quý giá có được trong đời sống tu sĩ là cách
thức ta xử lý một vấn đề nào đó. Thông thường ta có được sự lựa
chọn. Nếu ta tiếp tục tuân theo đường lối ngu xuẩn quen thuộc để
nhìn cuộc đời, ta sẽ bị khổ não. Nhưng nếu ta thật sự thay đổi
cách nhìn của mình về đời sống, hay nói cách khác, khi ta có
thêm trí tuệ, ta sẽ thấy vấn đề đó không còn khó khăn, khổ sở
nữa.
RK:
Phải chăng lúc nào Sư cũng quan tâm đến thái độ của Sư đối với
mọi sự việc? Tôi có ý nói là dường như Sư lúc nào cũng là một
người tìm sự toàn bích, tìm kiếm cái hạnh phúc tuyệt đối... Bởi
vì đối với tôi, khi nghỉ đến hạnh phúc, tôi thường thấy thỏa mãn
với những cái hạnh phúc và không hạnh phúc, vì đó là tổng hợp
của những gì mà đời sống thường đem đến cho chúng ta. Nhưng Sư,
hình như Sư lại nỗ lực tìm kiếm một giải pháp huyền diệu nào đó
để thấy được hạnh phúc trong mọi sự việc.
AB:
Vâng, đúng thế. Tôi luôn luôn nghĩ rằng việc tầm cầu hạnh phúc
là động lực chính của cuộc sống. Trong cuộc sống, bất cứ việc gì
chúng ta làm trên thế gian này, luôn luôn là để tầm cầu một hạnh
phúc nào đó. Riêng tôi, một trong những kinh nghiệm ban đầu về
niềm hỷ lạc thâm sâu trong thiền định đã cho tôi thấy thế nào là
hạnh phúc xuất thế. Và khi ta thưởng thức được điều đó, ta càng
nỗ lực để tìm hiểu sâu xa hơn nữa về ý nghĩa đích thực của hạnh
phúc.
Ý nghĩa của hạnh phúc là ý nghĩa
của đời sống. Đó không phải chỉ đơn thuần là ý nghĩa hạnh phúc
trong thiền định, mà còn là ý nghĩa hạnh phúc của bất cứ công
việc nào ta đang thực hiện. Ngay cả khi thân thể của ta ra lệnh
cho ta: “Bây giờ bạn phải đi ngủ”, hay “Bây giờ bạn phải bị
bệnh”, hay “Bạn không thể làm được điều bạn mong muốn”. Không có
vấn đề chi, nếu có sự việc nào đó trong đời sống ngăn cản, không
cho chúng ta làm những gì chúng ta muốn làm. Cũng như thể đó là
các mệnh lệnh của đời sống, lúc ấy, ta có cơ hội để buông xả,
không bám víu vào đó, khi ta không thể làm gì khác hơn, và ta
nên có thái độ thỏa lòng với hoàn cảnh hiện tại. Và đó là một
trong những điều kỳ diệu mà tôi đã tìm thấy khi thực hành Phật
pháp. Ta có thể an vui, hạnh phúc, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
RK:
Tôi còn nhớ Sư đã từng kể một câu chuyện khi Sư đến thăm viếng
trại tù và thuyết giảng cho các tù nhân. Khi Sư nói cho họ biết
về đời sống tu sĩ, hình như họ rất ngạc nhiên, và họ nói: “Trời!
Thế là khổ quá! Quý Sư hãy đến đây sống với chúng tôi, đời sống
ở đây dễ chịu hơn là đời sống tu sĩ!” Đó là một trong những câu
chuyện Sư thường kể để chuyển tải một thông điệp nào đó…
AJ:
Ta hiểu rõ đời sống qua các câu chuyện, hơn là qua các ý tưởng.
Các ý tưởng tựa hồ như thể một bản báo cáo xưa cũ về những gì
thật sự xảy ra trong cuộc sống. Nếu chúng ta kể các mẫu chuyện
về đời sống chung quanh ta và lồng trong đó các ý nghĩa mà ta
muốn truyền tải, người nghe sẽ dễ thông hiểu và hấp thu. Vì thế,
tôi thích kể các câu chuyện ý nhị đó.
Trở lại câu chuyện Bà vừa nêu
ra, đó là khi chúng tôi đến viếng một trại tù gần tu viện, và
một vị tu sĩ trong đoàn thuyết pháp cho các trại viên. Sau thời
pháp, một tù nhân có hỏi về đời sống của một tu viện Phật giáo ở
phương Tây. Chúng tôi cho ông ấy biết là tại tu viện, chúng tôi
thức dậy rất sớm, khoảng 3 giờ sáng, rồi cùng nhau tụ tập tại
ngôi chánh điện lạnh lẽo, ngồi xếp chân trên mặt đất, hành
thiền, và sau đó, tụng kinh công phu sáng. Đến khoảng 6.30 sáng,
chúng tôi uống trà hoặc cà phê, rồi làm các công việc lao động
bảo quản chùa, thường rất nặng nhọc trong 3-4 giờ, trước khi ăn
trưa. Bữa ăn trưa cũng không được chọn lựa, có chi ăn nấy, do sự
cúng dường của các cư sĩ, và các loại thức ăn được trộn lẫn lộn
với nhau trong một bình bát của mỗi tu sĩ. Như thế, hương vị
thức ăn cũng không có gì hấp dẫn. Sau khi nghỉ trưa, chúng tôi
lại phải chấp tác lao động nữa, vì lúc đó, tu việc có nhiều công
trình xây dựng. Chúng tôi không xem ti vi, vì chùa không có máy
ti vi mà cũng không có máy radio, nên không ai xem thể thao,
không ai được phép chơi thể thao, không được phép đánh đàn hay
nghe nhạc, v.v. Vào buổi chiều, chúng tôi không có xi nê phim
ảnh giải trí, mà cũng không được ăn buổi chiều. Chúng tôi lại tụ
tập nơi chánh điện, ngồi xếp chân hành thiền hằng giờ trên nền
đất buốt lạnh, và sau buổi thiền, mỗi tu sĩ trở về liêu cốc
riêng, sống một mình, và nằm ngủ trên nền đất, lạnh lẽo.
Khi nghe chúng tôi trình bày như
thế, các trại viên rất sửng sốt, ngạc nhiên, vì họ không ngờ
chúng tôi lại có một đời sống như thế. Cho nên, một trại viên,
có lẽ ông ta đã quên rằng ông đang sống trong tù, phát biểu:
“Ghê quá! Đời sống như thế là quá khắc khổ! Tại sao các Sư không
vào đây mà sống với chúng tôi, trong trại này, sung sướng hơn?!”
Thật là điên rồ và khôi hài, vì ông ta đã quên rằng ông đang bị
giam trong tù! Điểm quan trọng trong câu chuyện này là: lý do
chính mà các vị tu sĩ và các vị cư sĩ thiền sinh khi đến viếng
tu viện đều muốn ở lại đó, vì họ cảm thấy an lạc, thỏa mãn. Họ
không xem tu viện như là tù giam, bởi vì họ tự nguyện, thật lòng
muốn đến tu học tại đó, cho dù cuộc sống có phần khắc khổ. Trong
khi ấy, các trại viên tội nhân bị chính quyền giam vào một nơi
mà họ không muốn ở, cho nên đối với họ, nơi đó là một nhà tù.
RK:
Bạch Sư, như thế, đó là sự tự do, phải không? Đó là quan kiến
của chúng ta về sự tự do, về những gì tạo ra tự do. Tôi có ý
muốn nói về những gì tạo ra sự tự do là sự lựa chọn, không gò
bó, không trói buộc. Còn ý của ngài thì sao?
AB:
Thật ra, chúng ta có hai loại tự do: tự do ham muốn và tự do
khỏi ham muốn. Đa số người ta trên thế gian này chỉ biết đến
loại tự do của ham muốn, tự do của chọn lựa. Trong đạo Phật,
nhất là trong hành thiền, chúng tôi nhắm đến loại tự do thứ hai,
đó là tự do khi thoát khỏi sự ham muốn, tự do khi thoát khỏi sự
chọn lựa.
Cho nên, khi ta bằng lòng ngay
trong hiện tại, khi tâm ta an bình, các sự ham muốn sẽ không xảy
ra. Ta được tự do, thoát khỏi áp lực của những sự ham muốn vốn
có khuynh hướng áp đảo chúng ta và sai khiến ta phải làm theo
mệnh lệnh của chúng. Đó là những mệnh lệnh trong nội tâm của mỗi
người chúng ta, ra lệnh chúng ta phải làm sao cho vượt trội hơn
người khác, phải làm sao để xua đuổi cơn đau, phải làm sao để
đạt được một mục đích nào đó, cho dù chúng ta cũng không biết
tại sao cần phải làm như thế, … Khi hành thiền, dần dần chúng ta
sẽ đạt được sự tự do thoát khỏi các mệnh lệnh đó.
RK:
Có phải chăng Sư lúc nào cũng biết được lý do để đạt mục đích là
trở thành một tu sĩ Phật giáo, và một vị trụ trì tu viện?
AB:
Không hẳn thế. Trở thành vị trụ trì chỉ là vì hoàn cảnh đưa đẩy.
Còn trở thành một tu sĩ Phật giáo là điều tôi mơ ước từ khi còn
trẻ. Lúc ấy, chung quanh tôi, tôi thấy có nhiều người có rất
nhiều của cải tài sản và danh vọng. Hình như họ có cơ hội để
sống với ước mơ của họ, nhưng sự mong muốn của họ không bao giờ
ngưng. Họ không bao giờ thoát khỏi lòng mong muốn, lúc nào cũng
nỗ lực để thoả mãn sự mong muốn, thèm khát điều này, rồi lại
điều kia, như là những người đói khát, thật là khổ tâm. Đôi khi
chúng ta cũng thế, chúng ta muốn chấm dứt cảm giác đói khát
trong nội tâm, muốn được thỏa mãn vĩnh viễn, nhưng hình như điều
đó không bao giờ đạt được… Có rất nhiều người giàu có và thành
công trên đời này, được nhiều người ca tụng và bắt chước, nhưng
nếu ta hỏi họ: “Ông Bà có thật sự tự do không?” Nếu họ thành
thật, có lẽ ta sẽ nhận được các câu trả lời rất lý thú!
Rồi tôi gặp được vài vị tu sĩ
Phật giáo, và họ là những người an lạc nhất mà tôi đã từng thấy
trên đời này. Mặc dù sống trong tu viện với nhiều giới luật
nghiêm khắc, trong một đời sống rất đạm bạc và đơn giản, nhưng
ta có thể cảm nhận được sự an lạc, thảnh thơi, tự do của các vị
tu sĩ đó. Từ đó, ta mới hiểu được sự khác biệt của hai loại tự
do: tự do của ham muốn và tự do thoát khỏi ham muốn. Trong thế
giới ngày nay, chúng ta có quá nhiều phương tiện để theo đuổi và
thỏa mãn các ham muốn của chúng ta, hầu như ta có thể làm được
những gì ta muốn. Nhưng có mấy ai thật sự cảm thấy tự do?
RK:
Tất cả đều tùy thuộc chúng ta mong muốn gì từ cuộc sống. Tôi
biết thông điệp của Sư thông thường là về sự hạnh phúc, như thể
để chuyển tải câu: “Đừng lo âu. Hãy an vui”, liên quan đến việc
thay đổi thái độ của chúng ta, chứ không phải để thay đổi thế
gian. Thế nhưng, chắc Sư cũng biết, thái độ đó cũng có thể phát
sinh một thái độ thờ ơ đối với cuộc đời.
AB:
Không hẳn thế đâu. Tôi không nghĩ điều đó có liên hệ gì đến sự
thờ ơ lãnh đạm, bởi vì khi có nhiều người thay đổi thái độ sống
thì thế gian sẽ thay đổi theo.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nên ghi
nhận rằng ngày nay, thay vì phải giải quyết các vấn đề trong đời
sống với một thái độ an vui, người ta giải quyết chúng với một
tâm sân hận, giống như thái độ của một chuyên viên diệt trừ sâu
bọ. Thay vì cố gắng tìm hiểu và chung sống hòa hợp với thiên
nhiên, ta lúc nào cũng muốn khống chế và tiêu diệt tất cả những
gì đã và đang tạo ra vấn đề khó khăn cho chúng ta, và những thứ
đó có thể bao gồm cả những người thân hoặc một loại thù địch nào
đó mà ta xem như là sâu bọ. Nhưng ắt hẳn chúng ta cũng biết rằng
ta không thể nào diệt trừ tất cả các loài sâu bọ trên thế giới,
mà ta cũng không thể diệt trừ tất cả các sâu bọ trong thân thể
của chính mình, như ung thư và các loại bệnh tật khác. Đôi khi,
chúng ta phải dành thì giờ để học cách sống an bình và hài hòa
với thiên nhiên.
RK:
Đạo Phật có dạy chúng ta phải đối kháng những điều nguy hiểm,
xấu ác, quỷ quyệt không?
AB:
Vâng. Chúng tôi giảng dạy về sự đối kháng tâm sân hận, về sự đối
kháng tâm đố kỵ, về sự đối kháng tâm ngu si. Đó là những điều
chúng ta phải thật sự đối kháng, đó là những gì liên quan đến
lòng sân hận và cảm giác muốn trả thù, liên quan đến sự đau đớn
dằn vặt trong tâm, sự ưu sầu, cảm giác tội lỗi, v.v, tất cả
những cảm tính tiêu cực của đời sống. Đó là những gì chúng ta
muốn đối kháng, muốn hiểu rõ, để vượt qua, bằng cách buông xả.
Khi ấy, chúng không còn hiệu hữu nữa.
RK:
Tôi thích câu chuyện Sư thường kể về một vị giảng viên vào trong
lớp học và mang theo một lọ chứa đầy các viên sỏi… Ngài có thể
kể ra đây không?
AB:
Vâng. Thật ra, đó là một câu chuyện tôi học được từ một vị Phật
tử, có quảng bá trên Internet. Cho nên, có lẽ nhiều thính giả
của đài phát thanh đã từng biết qua, nhưng đó là một câu chuyện
hay.
Một ngày nọ, một vị giảng viên
đại học đến lớp giảng, thay vì đọc và dạy những gì ghi trong
sách như thường lệ, ông ấy mang theo một lọ thủy tinh to, và đặt
nó trên bàn viết. Trong khi các sinh viên thắc mắc không biết
ông ấy có ý định gì, ông bắt đầu mở một cái túi và lấy ra các
viên sỏi to và bỏ từng viên vào lọ cho đến khi không còn bỏ thêm
được viên nào nữa. Ông hỏi cả lớp: “Lọ này đã đầy chưa?”, và mọi
người trả lời: “Vâng, đầy rồi”.
Ông mỉm cười, rồi lấy ra một túi
khác, chứa các viên sỏi nhỏ, và bỏ từng viên sỏi nhỏ vào lọ, vào
trong các khe giữa các viên sỏi lớn, đến khi không còn bỏ thêm
được viên nào. Rồi ông hỏi: “Đầy lọ chưa?”. Bây giờ, có lẽ đoán
được ý ông, cả lớp lắc đầu và trả lời: “Dạ, chưa đầy”. Họ cười
vang, thích thú theo dõi các động tác của ông. Ông mỉm cười, lấy
ra một túi khác chứa đầy cát mịn, từ từ đổ cát vào lọ, vừa đổ
vừa lắc lọ để các hạt cát mịn chảy vào các khe trống trong lọ,
cho đến khi không còn đổ cát thêm được nữa. Rồi ông lại hỏi: “Đã
đầy chưa?” và cả lớp trả lời: “Dạ chưa”. Lần này, ông nhờ sinh
viên mang đến một chai nước và từ từ đổ nước vào lọ cho đến khi
đầy tràn. Rồi ông hỏi cả lớp: “Những gì tôi làm hôm nay có ý
nghĩa gì?”
Đây là lớp học về quản lý kinh
doanh, cho nên, một sinh viên nhanh nhẩu đưa tay đứng lên phát
biểu: “Thưa Thầy, việc này có ý nghĩa là cho dù chúng ta có bận
rộn như thế nào, chúng ta vẫn có thể thu xếp để đảm nhận thêm
vài việc khác nữa”. Nhưng vị giáo viên nói: “Không hẳn thế. Đấy
không phải là ý nghĩa điều tôi muốn diễn tả. Điều mà tôi muốn
trình bày ở đây là nếu các em muốn bỏ vào lọ các viên sỏi to thì
các em phải bỏ chúng vào trước tiên. Đừng đợi đến lúc cuối, vì
như thế, các em sẽ không bao giờ bỏ chúng vào trong lọ được.”
Đây là một câu chuyện về thứ tự ưu tiên, về những gì ta phải
dành ưu tiên trong lịch làm việc của mình, của cuộc đời mình.
Cũng vậy, có những sự việc chúng
ta đều biết chúng quý giá như những viên đá quý, những viên sỏi
to của cuộc đời, như gia đình ta, như sự liên hệ giữa ta và
những người thân thương, như sự an bình trong tâm thức, v.v.,
nhưng nhiều khi, ta lại xếp chúng sang một bên, xếp vào thứ bậc
cuối cùng của lịch làm việc trong ngày, trong tuần, trong cuộc
đời của ta, để rồi sẽ không bao giờ có được cơ hội thực hiện
những điều ấy. Đó là một trong những lý do làm chúng ta không
tìm được hạnh phúc. Chúng ta không đặt đúng thứ tự ưu tiên những
gì cần phải thực hiện cho cuộc đời mình. Chúng ta phải luôn luôn
nhớ đến câu chuyện bỏ đá vào lọ của vị giảng viên đại học kia,
và thu xếp thực hiện những việc thật sự quan trọng nhất trong
cuộc đời chúng ta. Chúng ta vẫn luôn luôn có cơ hội để làm thêm
các việc khác, kém quan trọng hơn, về sau này.
RJ:
Bạch Sư, có còn những gì khác mà Sư muốn đặt thêm vào lọ của Sư
không?
AB:
Bỏ vào lọ của tôi? Đó là sự an bình và hạnh phúc cho tôi và cho
người khác. Rốt cuộc, điều quan trọng nhất trong đời tôi là làm
thế nào để mang lại hạnh phúc cho tôi và cho người khác. Tuy
nhiên, sau nhiều năm trong đời tu sĩ, tôi thấy không thể nào
tách rời hạnh phúc của riêng tôi và hạnh phúc của người khác. Vì
thế, tôi sẵn sàng đi đây đi đó để phục vụ mọi người, càng nhiều
càng tốt, thuyết giảng, và kể nhiều câu chuyện vui nhưng có ý
nghĩa, để mọi người vui vẻ đón nhận và thông hiểu.
RK:
Bạch Sư, chúng ta đang ngồi đây, bên cạnh một bàn thờ rất truyền
thống, trên đó có một tượng Phật và chung quanh có các đóa hoa
sen. Câu hỏi cuối cùng của buổi phỏng vấn hôm nay là: các biểu
tượng này có ý nghĩa như thế nào?
AB:
Vâng. Chúng ta nhìn vào bàn thờ, bắt đầu từ vị trí cao nhất,
tượng Đức Phật trong tư thế hành thiền, mắt khép lại, miệng mỉm
cười, rõ ràng đó là biểu tượng của sự an bình. Khi ta nhìn những
hình ảnh như thế, lòng ta cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng, từ bi.
Hai bên tượng Phật là các cây nến, đó là biểu tượng của trí tuệ,
vì ta thắp nến là để mang ánh sáng, xua tan sự tối tăm, mê ám.
Qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, đó là biểu tượng cho sự giác
ngộ. Trí tuệ hiện hữu, không ai thật sự sở hữu trí tuệ, nhưng
chúng ta cần có cây nến để thắp sáng, để tự mình thấy rõ ràng
mọi sự việc.
Rồi ta thấy các đóa hoa sen trên
bàn thờ. Hoa sen là một biểu tương quan trọng trong đạo Phật.
Hoa sen có nhiều lá, và nhiều cánh hoa, hằng ngàn cánh hoa, và
đây là một trong những đề mục hành thiền ưa thích nhất của tôi.
Trong thiên nhiên, muốn mở các cánh hoa sen, mặt trời phải duy
trì đầy đủ các tia nắng ấm liên tục trên ngàn cánh hoa, từ cánh
hoa thứ nhất ở ngoài cùng cho đến cánh hoa thứ một ngàn nằm sâu
bên trong.
Phần trong cùng của hoa sen là
phần thơm ngát nhất, tế nhị nhất và mỹ lệ nhất. Nếu ta may mắn,
và nếu mặt trời vẫn duy trì được các tia nắng ấm trong suốt thời
gian nở hoa, lúc ấy, nụ sen sẽ mở ra, và ta sẽ thấy được phần
quan trọng nhất, được gọi là viên ngọc của hoa sen. Đây là biểu
tượng của hành thiền, vì chúng ta phải duy trì chánh niệm liên
tục, không ngừng nghỉ, không gián đoạn trong suốt thời gian lâu
dài, để mở ra cánh sen thứ một ngàn nằm sâu bên trong, như thế,
ta mới thấy được thật sự những gì ở bên trong, viên ngọc ở trong
tâm chúng ta.
RK:
Ngài Thiền sư Ajahn Brahm, chúng tôi kính tri ân Ngài đã tham dự
buổi phỏng vấn hôm nay.
AB:
Không có chi. Xin cám ơn Bà.
-
Bình Anson trích dịch,
-
Tây Úc, tháng 9-2007
-ooOoo-
http://www.buddhismtoday.com/viet/tintuc/phongvanAjahn_Brahm.htm
|