LTS:
Đây là tóm tắt vài nét tiểu sử về Ni sư Karma Lekshe Tsomo hiện
nay là Chủ tịch Hội phụ nữ Phật giáo quốc tế Sakyadhita về sự
hình thành và phát triển của Hội Phụ Nữ Phật giáo Quốc Tế
Sakyadhita đồng thời Ni sư cũng trình bày một quan điểm bình
đẳng giới hiện nay. Qua bài này đã khắc họa cho chúng ta về tổ
chức này,cũng nhận ra tâm niệm của Nữ giới Phật giáo khắp nơi
trên thế giới, mong muốn góp phần vào những công tác Phật sự
chung của Phật giáo toàn cầu trong xu thế mới của nhân loại. GNO
Ni sư
Karma Lekshe Tsomo là Phó giáo sư của phân khoa Tôn Giáo học và
Thần học tại Trường Đại học San Diego. Tại đây Ni sư còn chịu
trách nhiệm giảng dạy bộ môn Phật giáo và các Tôn giáo trên thế
giới. Ni sư đã nghiên cứu Phật pháp suốt 15 năm tại Dharamsala
và hoàn thành chương trình Tiến sĩ Triết học tại Trường Đại Học
Hawai với luận án nghiên cứu về sự chết và quan niệm về tái sanh
giữa văn hoá Trung Quốc và Tây Tạng. Ni sư chuyên nghiên cứu về
các hệ thống triết học Phật giáo, các đề tài so sánh trong tôn
giáo, các vấn đề giới tính trong Phật giáo, Phật giáo và Sinh
đạo đức học. Công việc của Ni sư gồm cả nghiên cứu, ấn bản nhiều
tác phẩm về các lãnh vực - phụ nữ và Phật giáo, sự chết và quan
niệm tái sanh, đời sống trong tự viện Phật giáo, đối thoại liên
tôn Thiên Chúa và Phật giáo, và sự thích nghi của Phật giáo tại
các nước Tây phương.
Ni sư Karma Lekshe Tsomo
Là một Ni sư người Mỹ tu học theo
truyền thống Phật giáo Tây Tạng, Ni sư Tsomo đã đóng góp và giữ
vai trò Chủ tịch Hội phụ nữ Phật giáo quốc tế Sakyadhita. Ni sư
đã hợp tác và giúp nhiều cuộc hội thảo trong nước cũng như quốc
tế về vấn đề nữ giới Phật giáo. Ni sư còn là Giám đốc của Tổ
chức Jamyang, bước đầu tạo điều kiện thuận lợi để hướng dẫn cho
phụ nữ ở các nước đang phát triển, cùng với 12 trường phái Ni
giới ở Himalaya - Ấn Độ và ba trường phái ở Bangladesh.
- Xin cho biết sự khởi đầu của Hội
Sakyadhita và thành viên sáng lập gồm những ai?
Năm 1986, tôi cùng một nhóm bạn nhận
thấy rằng phụ nữ Phật giáo thật sự rất cần ngồi lại với nhau để
thảo luận về việc thiếu sự ủng hộ dành cho phụ nữ Phật giáo. Một
số nữ Phật tử người Tây phương khi đó quyết định tổ chức hội
thảo quốc tế đầu tiên về phụ nữ Phật giáo ở Bodhgaya. Hoàn cảnh
bấy giờ rất thú vị, một buổi tối tôi đang ngồi trong ngôi lều
dựng bằng đất ở trong rừng Dharamsala thì nghe có tiếng người
kêu cứu. Tôi bước ra để xem người đó là ai. Hóa ra đó là một phụ
nữ người Mỹ, một nhà làm phim, bị lạc trong rừng,tôi đã đưa cô
ta về khách sạn nơi cô ở. Hôm sau, tôi gặp lại cô ta trong làng,
và cô cho biết cô đến Dharamsala để làm một cuốn phim về Phật
giáo. Tên cô là Elda Hartley, một đạo diễn và nhà sản
xuất phim của Hãng Hartley Film Foundation.
Khi nói chuyện, tôi đề cập đến hội
nghị mà chúng tôi đang dự định tổ chức. Cô hỏi chúng tôi đã có
bao nhiêu tiền cho hội nghị, tôi nói chưa có gì hết, cô ta bảo:
“Vậy thì tôi sẽ cho mượn 5.000 USD.” Tôi hỏi: “nhưng nếu hội
nghị không thành công và chúng tôi không có khả năng hoàn trả
thì sao?” Cô ta trả lời: “trong trường hợp đó, cứ coi như là tôi
cúng dường”, lúc đó cô ta hoàn toàn chưa biết gì về tôi!
Tại lễ khai mạc có khoảng 1500 người
tham dự bởi vì Đức Dalai Lama đọc bài diễn văn chính. Suốt cả
tuần, mỗi ngày chúng tôi ngồi vòng tròn trên đất dưới lều để bàn
bạc những vấn đề về phụ nữ. Đây là một cuộc hội ngộ kỳ diệu của
chư Ni và phụ nữ đến từ nhiều nước và nhiều truyền thống trên
thế giới. Chủ đề chính của hội thảo là Ni giới Phật giáo và tầm
quan trọng của giáo dục đối với phụ nữ. Kết thúc hội thảo, toàn
bộ chi phí chỉ trong phạm vi ngân khoảng và chúng tôi đã hoàn
trả 5000 USD cho Elda Hartley.
Trong hội thảo lần đầu tiên, chúng
tôi quyết định thành lập tổ chức phụ nữ Phật giáo quốc tế. Chúng
tôi đã chọn tên gọi là Sakyadhita “Những người con gái của Đức
Phật.” Sự kiện này xảy ra vào tháng 2 năm 1987.
Một số thành viên tham dự hội thảo
đầu tiên đó là: Ayya Khema, một thiền sư người Đức nổi tiếng, Ni
sư Karuna Dharma, hiện nay là vị Tỳ-kheo-ni người Mỹ thâm niên
nhất, Sư cô Kusuma, vị Ni đầu tiên được thọ giới Tỳ-kheo-ni tại
Tích Lan sau hơn 1000 năm và Ranjani De Silva, người sáng lập
hội Sakyadhita của Tích lan. Sau hội thảo lần đầu tiên này, Ni
sư Karuna trở lại Los Angeles và xin gia nhập hội Sakyadhita,
một tổ chức vô vụ lợi.
- Kết quả của các cuộc hội thảo
Sakyadhita như thế nào?
Kết quả quan trọng nhất đó là sự phát
triển không ngừng trong ý thức cố gắng vươn lên của Ni giới và
tiềm năng đóng góp cho cộng đồng thật tuyệt vời của họ. Trong
các cuộc hội thảo, nữ cư sĩ và chư ni luôn được khuyến khích
nâng cao khả năng học hỏi, tu tập và giảng dạy Phật pháp. Sau
mỗi lần hội thảo, họ được khơi dậy khá nhiều dự án: trường học,
các trung tâm tu học, các hội hỗ trợ phụ nữ, nghiên cứu, dịch
thuật, xuất bản, v.v…
Tuy vậy, tôi cho rằng chúng ta có thể
làm được nhiều hơn thế. Chúng ta cần ngồi lại để nghiên cứu các
tài liệu về những thành tựu của Ni giới Việt Nam cũng như ở các
nước khác. Thường thì họ đứng phía sau trong các hoạt động tôn
giáo. Ở các tự viện, phụ nữ lo việc ẩm thực, sắp xếp, quét dọn,
họ không có mặt trong hình ảnh và tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta
hãy quan tâm họ.
- Phải chăng những người phụ nữ này
nghĩ không cần thiết phải hiện diện trong các hoạt động bên
ngoài,đó có phải là bản tính hy sinh của phụ nữ?
Dĩ nhiên, đức tính khiêm tốn là một
nguyên tắc đạo đức căn bản của Phật giáo – hy sinh những sở
thích riêng của mình cho lợi ích của mọi người, làm việc vì lợi
ích của người khác không mong đợi sự đền đáp, đó là hạnh Bồ-tát.
Đồng thời điều quan trọng là những đóng góp của Ni giới Phật
giáo cẩn phải được công nhận. Thường thì những gì người nữ làm
đều bị lãng quên, trong nhiều xã hội, công việc của nữ giới nặng
nề hơn nam giới. Theo thống kê của Tổ chức Liên Hiệp Quốc cho
thấy rằng phụ nữ trên thế giới làm hết 60 % công việc nhưng họ
chỉ sở hữu 20 % nguồn thu nhập bao gồm cả 1% đất đai.
Theo quan sát và kinh nghiệm của cá
nhân tôi, phụ nữ thường do dự đảm trách vai trò lãnh đạo,một
phần do bởi những trách nhiệm tiên quyết của họ trong đời sống,
ví dụ, họ phải lo cho con cái trước. Trong một số trường hợp
khác thì do vì phụ nữ thiếu sự tự tin về khả năng của mình,không
phải lúc nào họ cũng thiếu cơ hội để trở thành bậc lãnh đạo.
Thật tuyệt vời, người phụ nữ đã hy
sinh cho gia đình con cái,nhưng nhiều người cũng có năng lực
trong vai trò lãnh đạo và họ cần sự khuyến khích để làm việc đó.
Nhiều phụ nữ dường như bằng lòng trong vai trò phụ giúp, hỗ trợ
nhưng các hội thảo của Sakyadhita đã giúp cho nhiều nữ cư sĩ
nhận ra được họ có khả năng rất tốt để làm nhiều công việc hơn
nữa. Một khi người nữ có sự tự tin và kinh nghiệm, họ có thể trở
thành những vị lãnh đạo giỏi trong các tổ chức Phật giáo để giúp
khắc phục nhanh chóng những vấn đề khó khăn của xã hội. Dần dần
họ có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc thăng bằng các công tác
Phật sự và gia đình.
- Một số người cho rằng việc áp đặt
các giá trị của phụ nữ phương Tây cho nữ cư sĩ ở các nước khác
là điều không thích hợp. Ví dụ, một số tu nữ ở Thái Lan dường
như bằng lòng khi giữ những vai trò phụ và không thấy nhu cầu để
làm hồi sinh việc thọ giới Tỳ-kheo-ni. Ni sư có suy nghĩ gì về
điều này?
Thái Lan là một trường hợp đặc biệt.
Khi nói về quan điểm nữ tu Thái Lan, chúng ta thấy rằng có rất
nhiều quan điểm khác nhau. Một số thích được thọ giới trở thành
Tỳ-kheo-ni nhưng một số thì không. Có nhiều nguyên nhân liên
quan đến việc thọ giới Tỳ-kheo-ni làm cho họ do dự.
Thứ nhất, trong nhiều trường hợp, các
nữ bạch y Thái Lan cảm thấy không xứng đáng để được thọ nhận
giới pháp cao hơn. Họ cảm thấy giữ 8 hoặc 9 giới là đủ rồi.
Trong một số trường hợp khác, các tu nữ có tư tưởng truyền
thống thọ giới Tỳ-kheo-ni đã không còn nữa. Mặc dù có hơn 30.000
Tỳ-kheo-ni hiện nay trên thế giới như ở Hàn quốc, Đài Loan, Việt
Nam và nhiều nơi khác, trong một xã hội, chư Tăng được tôn kính,
quan điểm của họ được xem có uy quyền ngay cả khi họ phạm lỗi.
Đây là sự thực ở nhiều nước.
Một nguyên nhân khác là phụ nữ tiếp
tục trở thành tu nữ theo truyền thống đã có từ xưa. Phải chăng
đã nhiều thế kỷ qua chư Tăng được đắp y vàng và thọ giới cụ túc
trong khi tu nữ chỉ khoác y trắng và thọ 8 hay 10 giới là một
quy cũ phải chấp nhận. Xa hơn nữa, nếu các vị cao Ni trong một
tự viện là nữ tu, những vị Ni trẻ có thể ngại trở thành
Tỳ-kheo-ni bởi vì họ không thể có vị trí cao hơn những vị thầy
của mình và điều này sẽ tạo ra một số thay đổi trong tự viện.
Truyền thống không chịu thay đổi, cộng với định kiến về giới
tính đã đi ngược lại sự bình của phụ nữ trong tôn giáo
Một vấn đề khác ở Thái Lan là liệu
chư Tỳ-kheo-ni Thái Lan có được đầy đủ sự hỗ trợ về vật chất hay
không. Một số người tin rằng việc cúng dường cho chư Tăng có
nhiều công đức hơn cúng dường chư Ni, nhưng quan niệm này đang
được thay đổi. Trong những ngày này, vị trí của chư Ni ở mọi nơi
đang được nâng lên. Ngày nay, ni giới được mời tham dự trong các
cuộc lễ và được Phật tử ủng hộ hết lòng. Cơ hội giáo dục cho cư
sĩ nữ cũng đang được mở mang và hy vọng việc thọ giới Tỳ-kheo-ni
sẽ được phục hồi ở các nước chưa có Tỳ-kheo-ni.
-Nếu việc thọ giới Tỳ-kheo-ni được
phục hồi ở Thái Lan và trong truyền thống Kim Cang Thừa, phải
chăng phong trào phụ nữ Phật giáo đã đến giai đoạn cần phải phát
huy,nếu điều đó được thực hiện liệu có một quốc nào tạo nên bình
đẳng giới hoàn toàn không?
Vấn đề bình đẳng giới hoàn toàn trên
thế giới dường như vẫn còn xa lắm. Ở một số nước, quần chúng chỉ
kính trọng khi vị Tăng vào nhà và thờ ơ, không quan tâm khi vị
Ni bước vào. Sự ứng xử khác biệt giữa Tăng Ni thật đáng ngạc
nhiên.
- Tôi cảm thấy khác hơn và rất dễ
chịu với chư Ni bởi vì những vị tôi gặp vô tư, thoải mái, thân
thiện, hiền hậu, và từ ái. Có thể họ không quan tâm đến việc
được cung kính hay không?
Thật là một nhận xét dễ thương, nhưng
chúng ta phải cẩn trọng với cái nhìn quá phổ quát, cần thấy được
có những vị Tăng tâm từ bi bao la, rất dễ dàng trao đổi và có
những vị ni khó mà trình bày nói chuyệnvà gần gũi . Chúng ta
phải biết hoàn cảnh của mình, nếu đứng về phía nam giới hơn nữ
giới phải chú ý điều này.Phải thận trọng trong hành xử của mình
nhất là trong mọi tình huống, đối với thầy giáo hay cô giáo,
Tăng hay Ni, xuất gia hay tại gia. Nếu chúng ta ủng hộ họ, có
phải chúng ủng hộ thầy giáo nhiều hơn cô giáo không? Và nếu vậy
thì tại sao? Có phải chúng ta công nhận một cách tự nhiên vị ấy
tốt bụng và đáng được ủng hộ hơn chỉ vì vị ấy là nam?
- Như vậy phải chăng những vấn đề căn
bản trong bình đẳng giới là việc nhận ra khả năng của phụ nữ và
cơ hội giáo dục cho họ? Nếu những điều này được thực hiện thì ,
những vấn đề còn lại sẽ được sắp xếp ổn thoả?.
Tôi cho là vậy, hy vọng sẽ đến thời
điểm mà chúng ta không còn bận tâm về vấn đề giới tính trong
Phật giáo, khi thái độ của chúng ta thực sự bình đẳng. Chẳng hạn,
khi hội thảo được tổ chức ở Mỹ, các nhà tổ chức rất cẩn thận
trong việc chủ định mời số lượng khách cân đối giữa nam và nữ. Ở
Việt Nam, tôi biết tại các học viện Phật giáo số lượng Tăng Ni
sinh ngang nhau,nhiều nơi chư Ni nhiều hơn Tăng. Đây là những
dấu hiệu đáng mừng.
- Ni sư có dự kiến các hội thảo
Sakyadhita trong tương lai sẽ có số diễn giả nam nữ ngang nhau
không?
Điều này có thể sẽ xảy ra, nguyên
nhân chúng ta tổ chức Hội Sakyadhita là vì trong quá khứ, phụ nữ
không được mời phát biểu trong các hội thảo Phật giáo. Do vậy
chúng tôi thành lập Hội Sakyadhita như là một diễn đàn cho nữ
giới nói lên những điều họ đang quan tâm nhất và cho họ cơ hội
phát biểu.
Bên cạnh đó, các hội thảo Sakyadhita
dành cho tất cả, nam, nữ, Phật tử và chư Tăng, Ni. Chúng tôi
hoan nghênh quý vị đến tham dự, gởi thư đề nghị được tham luận.
Hội thảo Sakya tại Việt Nam lần này sẽ có một vài diễn giả là
nam, mặc dù chúng tôi chỉ nhận một vài trường hợp. Từ lúc hình
thành, Sakyadhita đã là một sự liên minh giữa Phật tử và chư Ni.
- Nam giới có suy nghĩ gì để góp phần
làm cho xã hội bình đẳng thật sự?
Ở nhiều cộng đồng, người ta tin rằng
từ khi mới sinh ra phụ nữ đã ở vị trí thấp kém hơn nam giới.
Trong ngôn ngữ Tây Tạng, hai chữ “phụ nữ” có nghĩa là “địa vị
thấp hơn” hay gyeme. Vì vậy khi một em gái nghe điều này,
cô bé nghĩ rằng từ khi sinh ra đời cô đã ở vị trí thấp kém và cô
lớn lên trong niềm tin ấy. Nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng
trong vòng luân hồi này chúng ta được sinh ra nhiều lần trong
thân nam cũng như thân nữ.
Đơn giản là nam giới cần nên tôn
trọng phụ nữ và khả năng vốn có của họ. Xem phụ nữ như những
người bạn đồng sẽ thấy dễ chịu hơn. Những tập tục áp đặt phụ nữ
xưa kia nên xoá đi và nam nữ hãy là những thiện tri thức của
nhau. Cả hai có thể cùng thực tập hạnh tuỳ hỷ (mudita),
hoan hỷ với những tánh tốt và những việc làm thiện lành của bạn
mình.
Nguồn: http://www.giacngo.vn/chude/hoinghinugioiphatgiaothegioi11/2009/12/29/5FC643/