- Triết Học Bà-La-Môn
(BRAHMANISM)
Giảng Viên
Thích Lệ Thọ
Nhờ trang nhà Đạo Phật ngày
nay đăng
để sinh viên có tư liệu tham
khảo
“Chân
lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn
vật là muôn hình vạn trạng của Thượng đế…
Chúng
ta cần một tôn giáo tạo ra những con người cho ra con người”.
(Vivekananda)
Con người là mâu thuẫn lớn: là thực thể sinh vật – xã hội, nó phải thực
hiện bổn phận con người xã hội, là thực thể có đời sống tâm linh nó khát
khao vượt qua cái hạn hữu con người – xã hội để thoát mọi ràng buộc trở
về bản chất thần thánh. Ấn Độ giáo giải quyết vấn nạn này ra sao?
Từ ngàn xưa cho đến ngày nay,
con người luôn đi tìm nguồn gốc vũ trụ và mỗi cá thể.
Vì vậy, trong thâm tâm của
mỗi người luôn cố gắng tìm kiếm và vạch ra bản chất của thế giới, thực
chất bản tính của con người, sự tương đồng giữa nội tâm và ngoại tại,
tìm con đường giải thoát tâm linh…
Mỗi người tùy theo khả năng
của mình đã cố gắng vén mở bức màn bí ẩn cuộc đời. Vì vậy, biết bao
nhiêu nhà tư tưởng, tôn giáo, triết học ra đời với mục đích tìm cách
thỏa mãn những nhu cầu tri thức và chỉ đường dẫn lối cho con người đạt
tới hạnh phúc. Nhưng mỗi giáo phái lại có những quan điểm, tư tưởng khác
nhau. Ở đây, chúng ta khảo sát và tìm hiểu bản chất triết học của
Bà-la-môn giáo dưới cái nhìn trực quan sinh động của lương tri, không
thông qua tôn giáo của chung ta đang có và càng không áp đặt văn hóa hay
quốc gia của chúng ta vào một học thuyết. Vì mọi thứ qua lăng kính của
chúng ta dễ bị khúc xạ. Cho nên những nhà thần học như John Haught và
John Polkinghome khẳng định: “Khoa học và tôn giáo nhắm đến các
khía cạnh riêng rẽ của kinh nghiệm nhân loại. Nhiều nhà khoa học đã từng
viết những bài nghiên cứu hùng hồn về việc làm thế nào mà thuyết tiến
hóa sinh vật đã làm tăng thêm chứ không giảm đi đức tin tôn giáo của
mình”. Cho nên xúc cảm đẹp đẽ nhất
mà chúng ta có thể chứng nghiệm chính là sự bí ẩn. Đó là loại xúc cảm ở
ngay tại cái nôi của tất cả mọi nghệ thuật chân chính và khoa học.
Những vẽ đẹp đó chúng ta có thể tìm thấy ở nền triết học cổ vĩ đại của
người Ấn Độ.
Triết học là bộ phận quan
trọng đóng vai trò thiết yếu trong văn hoá truyền thống Ấn Độ. Triết học
Ấn Độ thống nhất trong đa dạng bởi chân lý chỉ có một nhưng chân lý đa
diện và tự mỗi người cũng có thể phát hiện ra chân lý từ góc độ của mình.
Vả lại triết học không có mục đích tự thân mà chỉ là phương tiện để
chuyển hoá nội tâm nhằm đạt đến sự giải thoát. Phương tiện này có thể có
nhiều. Với thái độ khoan dung trong không khí tự do tư tưởng các nhà
triết học Ấn Độ qua các thời đại đã không ngừng suy nghĩ làm sáng tỏ cội
nguồn và tìm kiếm những cách thức, những giải pháp thực hiện mục tiêu
duy nhất đó.
A.
Bối
cảnh lịch sử đất nước Ấn độ:
Lịch sử Ấn Độ
bắt đầu với thời kỳ
Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một nền văn minh phát triển hưng thịnh
tại phần Tây Bắc
tiểu lục địa Ấn Độ từ năm 3300 đến 1700 trước công nguyên. Nền văn
minh thời đại đồ đá này được nối tiếp bởi thời đại đồ sắt thuộc
thời kỳ Vệ Đà, thời kỳ đã chứng kiến sự nở rộ của những vương quốc
lớn được biết đến với cái tên
Mahajanapadas. Giữa hai giai đoạn này, vào thế kỷ thứ 6 trước công
nguyên,
Mahavira và
Thích-ca Mâu-ni ra đời.
Tiểu lục địa được thống
nhất dưới thời
vương triều Maurya trong suốt thế kỷ thứ 4 và thứ 3 trước công
nguyên. Sau đó nó lại tan vỡ và rất nhiều phần bị thống trị bởi vô số
những vương quốc thời Trung Cổ trong hơn 10 thế kỷ tiếp theo. Những phần
phía Bắc được tái hợp một lần nữa vào thế kỷ thứ 4 sau công nguyên và
duy trì được sự thống nhất này trong hai thế kỷ tiếp theo, dưới thời của
vương triều Gupta. Đây được coi là thời kỳ hoàng kim của Ấn Độ.
Trong suốt giai đoạn cùng thời, và vài thế kỷ sau đó, Ấn Độ bị thống trị
bởi các
vương triều Chalukya,
Chola,
Pallava và
Pandya, và trải qua giai đoạn vàng son của mỗi thời kỳ. Cũng trong
thời điểm này,
đạo Hindu và
đạo Phật lan tỏa tới rất nhiều vùng tại Đông Nam Á.
Đạo Hồi du nhập vào đầu thế kỷ thứ 8 sau công nguyên cùng với sự xâm
lược
Baluchistan và
Sindh của
Muhammad bin Qasim. Những sự xâm lấn của đạo Hồi từ Trung Á giữa thế
kỷ thứ 10 và 15 sau công nguyên dẫn đến việc phần lớn Bắc Ấn Độ chịu sự
thống trị của
Vương quốc Hồi giáo Delhi giai đoạn đầu và sau đó là
đế quốc Môgôn. Sự thống trị của đế quốc Môgôn, đế chế đã mở ra giai
đoạn của thời kỳ thăng hoa và phát triển mạnh mẽ của
nghệ thuật và
kiến trúc, đã bao phủ phần lớn phía Bắc tiểu lục địa. Tuy nhiên, một
vài quốc gia độc lập, như
đế quốc Maratha và
đế quốc Vijayanagara, cũng phát triển hưng thịnh trong cùng giai
đoạn tại phía Tây và Bắc Ấn Độ. Mở đầu giai đoạn giữa thế kỷ 18 và hơn
một thế kỷ sau đó, Ấn Độ dần dần bị
công ty Đông Ấn Anh Quốc (British East India Company) thôn tính. Nỗi
bất mãn với sự cai trị của công ty này đã dấn đến cuộc nổi loạn Ấn Độ
1857, sau đó thì Ấn Độ được điều hành trực tiếp bởi
Hoàng Gia Anh Quốc (British Crown) cũng như chứng kiến thời kỳ phát
triển mạnh mẽ về cơ sở vật chất cũng như sự suy thoái về kinh tế.
Trong suốt nửa đầu thế kỷ
20, cuộc đấu tranh độc lập toàn quốc được khởi xướng bởi
đảng Quốc Đại Ấn Độ, sau đó được kết hợp bởi
đảng liên đoàn Hồi giáo. Tiểu lục địa giành được độc lập từ vương
quốc Anh năm 1947 sau khi bị chia cắt thành hai quốc gia Ấn Độ và
Pakistan. Cánh phía Đông của Pakistan sau đó trở thành quốc gia
Bangladesh năm 1971.
Trung Ấn chứng tỏ rằng Ấn
Độ đã có người định cư ít nhất từ thời trung kỷ
pleitoxen, độ khoảng 200.000 đến 500.000 năm trước.
Thời kỳ đồ đá giữa tại tiểu lục địa Ấn Độ bao phủ một khoảng thời gian
độ 250.000, bắt đầu khoảng 300.000 năm trước. Con người hiện đại có vẻ
đã định cư ở tiểu lục địa trước giao đoạn cuối của
kỷ Băng Hà cuối cùng, khoảng chừng 12.000 năm trước. Những sự định
cư lâu dài đầu tiên được xác nhận xuất hiện 9.000 năm trước tại hang đá
Bhimbetka, thuộc tỉnh
Madhya Pradesh ngày nay. Sự khám phá ra
Mehrgarh (7000 năm trước công nguyên trở về trước) là biểu tưởng của
văn hóa thời đầu đồ đá mới, nó thuộc tỉnh
Balochistan của
Pakistan ngày nay. Những dấu tích của văn hóa của một thời kỳ đồ đá
mới đã được tìm thấy dưới
vịnh Khambat, khảo sát niên đại bằng Carbon xác định vào khoảng năm
7500 trước công nguyên.
Văn hóa cuối thời kỳ đồ đá mới xuất hiện ở vùng lưu vực sông Ấn giữa
giai đoạn năm 6000 và 2000 trước công nguyên và tại vùng Nam Ấn giữa
giai đoạn năm 2800 và 1200 trước công nguyên.
I. Đạo
Bà La Môn:
a.
Định
nghĩa:
Bà-la-môn
(zh.
婆羅門, sa., pi.
brāhmaṇa)
là danh từ chỉ một đẳng cấp, một hạng người tại
Ấn Độ. Thuộc về đẳng cấp Bà-la-môn là các
tu sĩ,
triết gia,
học giả và các vị lĩnh đạo tôn giáo. Dân chúng Ấn Độ rất tôn
trọng đẳng cấp này.
b.
Đạo Bà La Môn:
Đạo Bà La-Môn (Brahmanism) cũng gọi Ấn giáo hay Ấn Độ giáo (Hinduism),
là đạo bản địa của người Ấn (Hindus), hình thành ở Ấn Độ khoảng năm
1.500 trước Công nguyên hoặc sớm hơn nữa, tức là có trước Phật giáo ít
lắm cũng khoảng 10 thế kỷ. Không xác định ai là giáo chủ hay người mở
đạo. Bậc chân sư đắc đạo hướng dẫn tâm linh cho tín đồ được gọi là guru.
Tôn giáo này chủ trương đa
thần (polytheism). Trời hay Thượng đế của Ấn giáo là một Trimurti (tam
vị nhất thể) gồm ba ngôi: Brahma (đấng sáng tạo), Vishnu (đấng bảo tồn),
và Shiva (đấng hủy diệt).
Các bộ kinh chính viết bằng tiếng Sanskrit: Vedas (Phệ đà), Upanishads
(Áo nghĩa thư), Bhagavad Gita (Chí tôn ca)…
Vũ trụ quan. Thực tại tuyệt
đối sinh thành và bảo tồn vũ trụ, vạn vật được gọi là Brahman, có thể
xem như tương đồng với khái niệm Đạo của Trung Hoa, hay Logos của Hy Lạp
cổ đại vào thế kỷ 5 trước Công nguyên.
Nhân sinh quan. Con người bị ràng buộc trong vòng vô minh (ngu dốt) và
huyễn ảo nhưng lại có khả năng thoát khỏi chúng.
Đời người có 4 mục đích:
dharma (hoàn thành các nghĩa vụ luân lý, luật pháp và tôn giáo); artha
(mưu sinh và thành đạt trong xã hội); kama (thỏa mãn các ham muốn nhưng
biết tiết chế và điều độ); moksa (giải thoát khỏi vòng luân hồi) bằng
cách giải trừ hết các nghiệp (karma) vì khi chết mà vẫn còn nghiệp thì
phải chịu tái sinh vào kiếp sau ở thế gian, tức là luân hồi (samsara).
Đời người phải trải qua
4 giai đoạn:
brahmacharga
(học tập);
grhastha
(lập gia đình, tạo sự nghiệp);
vanaprastha
(hướng về tâm linh);
sanrgasu
(thoát ly xã hội để tu hành).
Luân lý. Con người chịu 3
trọng ân: ơn trời, ơn thầy, ơn tổ tiên. Phải tu tập theo 3 con đường:
karmamarga (phụng sự); jnanamarga (trí tuệ hay minh triết); bhaktimarga
(sùng tín trời).
Giữ 10 giới răn:
ahimsa (không giết chóc); satya (không nói dối); asteya (không trộm
cắp); brahmacharya (không buông thả theo ham muốn); aparigraha (không
tham lam); saucha (phải sạch sẽ, tinh khiết); santosha (biết bằng lòng);
tapas (kỷ luật với bản thân); svadhyaya (phải học tập); ishvara
pranidhana (vâng phục mệnh trời).
Nghi lễ. Có 5 thánh lễ
chính: Mahashivarati (giữa tháng 2), Holi (trong mùa xuân), Ramnavami
(cuối tháng 3), Dusserah (đầu tháng 11), và Diwali (giữa tháng 11). Tín
đồ hành lễ tại nhà riêng và trong đền thờ.
Đạo Bà La Môn có 900 triệu tín đồ (năm 2005).Có
khoảng 30 triệu người theo Ấn Độ giáo sống tại
hải ngoại. Văn
hóa Bà La Môn đã sớm ghi dấu ấn ở Sri Lanka và các nước Đông Nam Á
(Campuchia, Indonesia, Lào, Mã Lai, Myanmar, Philippines, Singapore,
Thái Lan, Việt Nam), hiện nay vẫn còn đền thờ và tín đồ ở các nước này.
Bà La Môn cũng có ở một số nước phương Tây (Anh, Mỹ…). Thức giả Âu Mỹ
đặc biệt kính trọng tư tưởng của các guru như Sri Ramakrishna
Paramahamsa (1836-1886) và đệ tử của ông là Swami Vivekananda
(1863-1902)…
II.
Giáo điển:
Kinh Vệ Đà (Veda) xem như
là cỗi gốc của Bà La Môn Giáo và là suối nguồn của nền văn minh Ấn.
Trong kinh có những bản thánh ca để ca tụng các vị thần, như thần lửa,
thần núi, thần sông ... Phần lớn ca tụng những vẻ đẹp huy hoàng, tưng
bừng và mầu nhiệm của cuộc sống trong vũ trụ. Toàn thể bộ kinh gồm bốn
tạng:
1. Rig Veda: thi
tụng cái biết.
2. Yajur Veda: nghi
thức tế tự.
3. Sama Veda: ca
vịnh thần chú.
4. Atharva Veda:
(triển khai ý nghĩa ba bộ kinh kia).
Tư tưởng chủ yếu của Vệ Đà
được biến đổi từ Đa thần qua Nhất thần, từ Nhất thần sang lãnh vực Triết
học ngang qua ba thời đại: Vệ Đà Thiên Thư (Veda), Phạm Thiên Thư
(Brahmana) và Áo Nghĩa Thư (Upanishad).
III. Tư tưởng Đạo Bà
La Môn:
Theo trình tự thời gian, tư
tưởng Vệ Đà đã đạt tới quan niệm một đấng Thượng Đế hữu ngã sáng tạo vũ
trụ và một bản thể tuyệt đối vô ngã làm cội nguồn chung cho vũ trụ. Tuy
nhiên, trên đại thể, kinh Vệ Đà vẫn thiên trọng về quan niệm một đấng
Thượng Đế hữu ngã hơn.
Thời Vệ Đà Thiên Thư, dân
chúng sùng bái cúng tế để cầu xin sự trợ giúp của các thần linh, hình
thức phần chính thuộc về Đa Thần giáo. Sang thời kỳ Phạm Thiên Thư, tín
đồ chán việc tế lễ và thờ tự nhiều Thần, nên tuyển lọc lại vài vị Thần
quan trọng để phụng thờ, sau thờ một Thần là đấng Phạm Thiên (Brahma),
vị thần tối cao toàn năng, siêu việt, sáng tạo ra vạn vật vũ trụ. Thế là
đối tượng tín ngưỡng của đa phần dân Ấn Độ chuyển từ Đa thần giáo sang
Nhất thần giáo. Qua đến thời kỳ Áo Nghĩa Thư không chỉ giới hạn trong
nghi thức tế tự, mà bao gồm môn triết học cao siêu.
Áo Nghĩa Thư là những bộ kinh luận được các giáo sĩ Bà La Môn trước tác
nhằm khai triển nền giáo lý Vệ Đà trên phương diện triết học. Trong khi
các kinh Vệ Đà chú trọng về nghi thức thờ phụng thì Áo Nghĩa Thư muốn
tìm hiểu thêm về tự ngã và tự thể của con người và mối liên hệ của chúng
với bản thể tuyệt đối của vũ trụ vạn vật. Nội dung căn bản của Áo Nghĩa
Thư cho rằng con người, cũng như mọi chúng sinh đều có một tự thể bất
sinh, bất diệt, thường tịch và vô trụ như Bản thể tuyệt đối, thường được
gọi là Atman hay Tiểu ngã (một linh hồn bất diệt). Khi tự ngã của con
người hay của chúng sinh chưa hoà nhập với Bản thể tuyệt đối (Brahman,
đấng Phạm Thiên hay Đại Ngã), thì Tự ngã của con người vẫn còn phải luân
hồi trong vòng sinh tử. Họ chủ trương “Brahma-Atman đồng nhất” và con
người giải thoát là con người hoà đồng vào bản thể của vũ trụ. Tiểu Ngã
hoà đồng với Đại Ngã vô biên trong một trạng thái hằng hữu vĩnh cửu.
Trên địa hạt xã hội, dân
chúng Ấn Độ hồi đó được phân chia thành bốn giai cấp:
1. Hàng Tăng lữ thuộc giai
cấp Bà La Môn (Brahman).
2. Vua chúa thuộc giai cấp
Sát Đế Lỵ, (Kshastriya).
3. Thương buôn, nông phu và
thợ thuyền (Vaisya).
4. Tiện dân bần cùng thuộc
giai cấp Thủ Đà La (Sùdra).
5. Ba-ri-a (Pariah) giống
người cùng khổ, bị coi như sống ngoài lề xã-hội loài người, bị các
giai-cấp trên đối-xử như thú-vật, vô cùng khổ nhục, tối tăm.
Hệ thống giai cấp này theo
chế độ cha truyền con nối, các người khác giai cấp không được cưới nhau,
không được cùng nhau hành lễ tế tự và không được ăn chung bàn. Giai cấp
Thủ Đà La là giai cấp cùng đinh bị khinh miệt và bị hành hạ, nên đời đời
làm nô lệ phục vụ cho ba giai cấp trên. Giai cấp này bị khinh bỉ đến nỗi
một người Thủ Đà La đến gần một giếng nước, thời giếng nước ấy xem như
đã trở thành dơ bẩn, không dùng được cho ba giai cấp trên và người Thủ
Đà La nào vi phạm tội ấy có thể bị ném đá cho đến chết. Chính sự kỳ thị
này đã gây ra một tổ chức xã hội cực kỳ bất công. Cho đến cuối thế kỷ
thứ 6 trước Tây lịch đẳng cấp Bà La Môn hoàn toàn ngự trị trên toàn thể
dân chúng Ấn, họ hợp nhất quyền lực chính trị vào quyền lực tôn giáo,
đặt thêm nhiều nghi lễ tế tự phiền toái để trói buộc dân chúng nhằm củng
cố giai cấp thống trị. Thời kỳ này có nhiều luận chấp về Tự Ngã và nảy
sinh nhiều phe phái, từ những luận chấp về quá khứ, về tương lai, cho
đến luận chấp về hiện tại Niết Bàn. Tất cả các luận chấp này đều dựa vào
sự xúc đối phân biệt của sáu giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý
thức).
IV. Tư tưởng Triết học
Đạo Bà La môn:
Vào thời kỳ đầu, với trình
độ nhận thức con người còn thấp kém, tư tưởng triết học Bà-la-môn giáo
chủ yếu dựa vào hình thức tế tự, mang tính chất đa thần. Vì họ tin tưởng
rằng, nhờ những nghi thức tế lễ mà người ta có thể thông cảm với thần
linh, được thần linh che chở và giúp đỡ cho giải thoát. Tới khi trình độ
nhận thức ngày càng cao, con người bắt đầu ý thức về sự tồn tại của
mình. Họ suy ngẫm về cuộc đời, số phận và đi tìm lẽ sống cho con người.
Để đáp ứng nhu cầu đó nên tư tưởng triết học Upanishad đã ra đời. Đây là
đỉnh cao của triết học Bà-la-môn giáo. Mọi tư tưởng của bất kỳ môn phái
nào sau này, chúng ta sẽ không biết gì đến nơi đến chốn nếu không tìm
hiểu cội nguồn của tất cả các hệ thống Upanishad. Vì vậy triết gia
Schopenhauer đã thốt lên rằng: “Khắp thế giới không có gì lợi ích nâng
cao tâm hồn con người bằng các Upanishad. Nó đã an ủi đời sống của tôi,
nó sẽ an ủi tôi khi tôi chết”. Sự xuất hiện của Upanishad đánh dấu bước
chuyển tiếp từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy triết học.
Tư tưởng đó được thể hiện trong các vấn đề chủ yếu sau:
1. Thực Tại Tối Cao Brahman:
“Cái gì là thực tại
đầu tiên, duy nhất, tối cao, là căn nguyên của tất cả, mà khi nhận thức
được nó người ta sẽ biết được mọi cái và có thể giải thoát được linh hồn
con người khỏi mọi lo âu khổ não của cuộc đời”. Upanishad đã cho
rằng:đó là “Tinh thần vũ trụ tối cao Brahman”. Brahman là
thực tại có trước nhất và là thực thể duy nhất, tuyệt đối, tối cao, vĩnh
viễn, vô danh vô sắc v.v… là bản thể của tất cả, ở ngoài mọi giới hạn
của thời gian và không gian… Brahman là thực tại siêu việt khách quan, ở
ngoài và ở trong con người. Chandogya Upanishad nói: “Toàn thể vũ
trụ là Brahman” và cũng nói “cái ngã tiềm ẩn trong lòng
ta, đó là Brahman”. Cả Mundak và Katha Upanishad đều xác nhận: “Tự
ngã không thể đạt được bởi học vấn, trí tuệ hay kiến thức. Ngài có thể
đạt được bởi người nào mà Ngài lựa chọn. Đối với người ấy Tự ngã tự thể
hiện bản tính của mình”. Taittiriya Upanishad có nhắc đến lời
dạy của đạo sĩ Varuna về Brahman cho con như sau:
“Cái ở đấy mọi sự vật
sinh ra, cái ở đấy mọi sự vật sống được và cái ở đấy mọi sự vật trở về
sau khi chết. Con hãy tự hiểu lấy, cái đó là Brahman”.
Như vậy, Brahman là nguyên
lý siêu việt, thường tại, vô thủy vô chung, là quỹ đạo chi phối vạn vật
theo một trật tự như là điều lý có sẵn. Trong khi đó, vạn vật là những
thực tại hữu thủy, hữu chung, được điều lý và định hướng trong Brahman.
Brahman là một thực tại
đồng nhất, vượt ngoài các ý niệm, các tổng số ý niệm; nhưng để lý giải
cho những người chưa có trình độ thực nghiệm tâm linh thì phải mượn
những ý niệm. Vì thế, Taittiriya Upanishad đã hình tượng hóa Brahman như
một cái tổ chim có ba con chim nhô cái đầu ra là Viraj, Hiranya Garbha
và Ishvara: “Khi tuyệt đối được quan niệm là độc lập, tự hữu thì
gọi là Brahman. Khi được coi là hiện thân thành vũ trụ thì gọi là
Hiranya garbha, khi được coi là thượng đế sáng tạo hữu ngã thì gọi là
Ishvara. Ishvara trở thành Brahman, Vishnu và Shiva khi ba chức phận của
Ngài được phân biệt”
Không thể miêu tả Brahamn,
nhưng Mundaka Upanishad đã lấy hình tượng con nhện giăng tơ để miêu tả
hành động sáng tạo và thu hồi của Brahamn như sau: “Cũng như con
nhện giăng tơ và rút tơ về, cũng như cỏ sinh trên mặt đất, cũng như lông
mộc trên thân người sống, thì nơi đây trong vũ trụ, phàm cái hữu tồn là
xuất tự Bất di bất dịch”.
Bất lực trong việc miêu tả
Brahman, Brihad Aranyaka Upanishad dùng toàn bộ những chữ “không” để
nói: “Brahman không lớn, không nhỏ, không ngắn, không dài, không
rực rỡ, không tối tăm, không mùi, không vị, không mắt, không tai, không
tiếng nói, không hơi thở, không trong, không ngoài, không tiêu hủy mà
cũng không bị tiêu hủy”.
Mặc dù không thể miêu tả
được Brahman là gì, nhưng Brahman vẫn có những tính thiết yếu là: Thực hữu (Chat),
Ý thức (Chit), An lạc (Ananda).
Brahman là thực hữu vì không phải là hư không, Brahman là ý thức vì là
nguồn gốc của mọi nhận biết, Brahman là an lạc vì đó là hạnh phúc vĩnh
hằng.
Mandukya Upanishad cho rằng
con người chỉ có thể cảm nhận Brahman bằng trực giác tâm linh (Turiya).
“Turiya là bản chất của ý thức về tự ngã duy nhất, nơi mà tất cả
muôn vật trong thế giới đều trở về, yên vui, thanh tịnh, không hai”.
2. Tự Ngã Atman:
Tự ngã Atman là một thực
thể nội tại trong mỗi cá nhân. Hơi thở là nguồn sống vật chất thì Atman là hơi thở siêu nhiên, là nguồn sống thiêng liêng. Atman là
thực thể làm cho con nguời vượt lên trên vạn vật. Có thể nói Atman là
thành phần của Brahman trong con người. Brahman là cái ngã vũ trụ
đại đồng, còn Atman là cái ngã cá nhân. Braman chỉ có một, Atman là số
nhiều, nhưng cái nhiều ấy chỉ là giả tưởng vì bản chất cả hai chỉ là
một. Cho rằng khi thân xác chết thì Tự ngã (Atman) lại trở về hợp nhất
với Đại ngã (Brahman).
Tự ngã Atman không phải là
lý trí, tình cảm và giác quan, nhưng Atman là nguồn cội của các sinh
hoạt tinh thần ấy. Không có Atman, tất cả sinh hoạt tinh thần và thể
chất đều chấm dứt. Nhưng ngay khi cả sinh hoạt tinh thần và thể chất
chấm dứt thì Atman vẫn tồn tại bất diệt. Với nhiều nỗ lực, nhưng
Upanishad cũng không thể nói rõ về Atman, cho nên luôn cảnh giác rằng tự
ngã không thể hiểu được, tự ngã phải cần được thực hiện. Katha Upanishad
nói: “Atman không thể nhận biết được bởi sức mạnh của trí óc, cũng
không thể nhận biết được bởi giác quan”.
3. Giải Thoát Và Thực
Trạng Giải Thoát:
Cứu cánh của mọi triết học,
tôn giáo chính là vấn đề giải thoát. Brihad Aranyaka Upanishad nói: “Bậc
chân tri sau khi chết sẽ vượt qua không gian lên tới cõi hạnh phúc vĩnh
hằng”. Cõi hạnh phúc vĩnh hằng là cảnh giới dành cho những người
đạt giải thoát thực sự. Còn những kẻ tội lỗi thì phải chịu sự chi phối
của định luật nghiệp báo, bị đọa đày khổ sở trong vòng luân hồi cho tới
khi dứt nghiệp và đạt được chân tri. Ngoài ra Chândogya Upanishad cũng
nói đến hai nẻo đường giải thoát: đường của tố phụ (Patri Yana) và đường
của thần linh (Deva Yana). Đường của tố phụ dành cho những người ra sức
hành thiện, những người ấy sau khi chết sẽ được vào cõi trời (thiên
đường). Nhưng khi hưởng hết phước báo trong một khoảng thời gian tương
ứng, họ sẽ trở lại trần gian. Chỉ khi nào con người đi vào nẽo đường của
thần linh, không bị nô lệ bởi vật chất, đồng nhất được Brahman với Atman
ngay tại chính mình, bấy giờ mới được giải thoát và được hưởng hạnh phúc
viên mãn vĩnh hằng.
Nhưng, muốn được giải
thoát thì phải trải qua tiến trình tu tập. Phải toàn tâm kiên trì tu
luyện đạo đức (karma-yoga) và tu luyện tri thức (jnàna-yoga), nhằm diệt
mọi dục vọng, lo âu, phiền não, rũ bỏ hết mọi ràng buộc, lôi kéo bởi thế
giới vật dục biến ảo, vô thường của thế giới trần tục; dày công thiền
định (dhyàna) suy tư chiêm nghiệm nội tâm, “thực nghiệm tâm linh” bằng
trực giác; nhận cho ra chân bản tánh của mình, để đạt chân lý tối thượng
hòa nhập vào bản thể tuyệt đối. Đó chính là sự giải thoát, ý nghĩa tối
cao của cuộc sống. Nhưng nhận thức được sự đồng nhất đó với linh hồn bất
tử không phải là điều cảm giác hay trí tuệ thông thường có thể đạt được.
Nó có thể đạt được nhờ vào sự thực nghiệm tâm linh. Thực nghiệm tâm linh
là sự thực nghiệm ngay trong sâu thẳm tâm hồn mình. Phải trải qua mức
cảm nghiệm, nhưng trước hết là phải đưa nhận thức quay về chính mình.
Kinh Upanishad đã nói: “Atman chẳng có thể nhận biết được bởi học
vấn, bởi sức mạnh của trí óc. Atman chẳng thể nhận thức được bằng giác
quan. Tự ngã mở các giác quan ra ngoài, bởt thế người ta chỉ trông ra
thế giới bên ngoài mà không nhìn về bản ngã”. Có 3 con đường
chính để đạt đến giải thoát:
-
Con đường tri thức đòi hỏi tu hành khổ hạnh, chuyên tâm rèn
luyện, sẵn lòng thoát ly thế giới trần tục.
-
Con đường hành động theo nguyên tắc tâm linh vị tha, vì lợi ích
chung, vì cái thiện, vì đại ngã.
-
Con đường cuối cùng, rộng rãi nhất, dành cho mọi người đó là con
đường sùng tín, hết lòng tin yêu, tôn kính Đấng tối cao – Atman có thể
hoà nhập với Braman trong tình yêu và bằng tình yêu cao cả thiêng liêng.
Giải thoát là con người
không còn bị đau khổ nữa, bởi vì đau khổ là trạng thái con người bị giới
hạn. Ta không còn khao khát, ghét bỏ, mơ tưởng… con người ra khỏi thế
giới nhị nguyên tương đối, bước vào cảnh giới nhất nguyên tuyệt đối.
4.
Tự Ngã:
Upanishad thừa nhận một
Atman hiện hữu trong con người. Và cũng cho rằng có tự ngã bất biến,
cuộc sống con người như thế nào là do sự quyết định của đấng tối cao
Brahman. Sự mặc khải của đấng sáng tạo sẽ quyết định sự giải thoát của
một con người
Tóm lại, nói đến Ấn Độ là
nói đến một nền văn hóa với nhiều truyền thống tôn giáo. Nơi đây có
nhiều triết thuyết ra đời với nhiều tư tưởng khác nhau. Nhưng tất cả các
học thuyết sau này đều dựa vào tư tưởng triết học Upanishad; vì từ rất
sớm, nó đã chiếm một vị thế cực kỳ trọng yếu trong mọi khái niệm và xã
hội của con người cổ đại và cho đến hiện nay.
Tài liệu tham khảo:
1.
Will Durant: Lịch sử văn minh Ấn Độ. Nxb văn hoá – Thông tin, Hà
Nội, 2004.
2.
Lịch sử triết học, Nxb Tư tưởng – văn hoá, Hà Nội, 1991, tập 1,
tr. 126 – 168.
3.
Lương Duy Thứ, Phan Thu Hiền, Phan Nhật Chiêu: Đại cương văn hoá
phương Đông, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1996, tr. 129 – 229.
4.
Các tôn giáo, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2001, tr. 85 – 96.
5.
Triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 1, tr. 21 –
722.
6.
Hữu Ngọc, Lê Hữu Tầng, Dương Phú Hiệp: Từ điển triết học giản
yếu, Nxb. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, 1987.
7.
M. T. Stepaniannts: Triết học phương Đông, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2003.
8.
Nguyễn Đăng Thục: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Tp. Hồ Chí
Minh, 2001, tập 3.
Click vào đây để download file word