- Triết học
Cārvāka
Giảng Viên
Thích Lệ Thọ
A.
Nguồn gốc.
I. Nhận định về Vô Thần:
“Vô thần” mới xuất hiện ở châu Âu từ thế kỷ 16 tại
Pháp, các quan niệm mà ngày nay được ghi nhận là vô thần đã được ghi lại
từ thời cổ đại. Từ điển bách khoa Việt Nam viết:
“Ở Ấn Độ, có tư tưởng về vũ trụ vô thủy vô chung,
không do ai tạo ra. Ở Ai Cập, có tư tưởng hoài nghi về thế giới bên kia.
Ở Trung Quốc cổ đại, có quan niệm duy vật và vô thần về khí và về năm
nguyên tố hợp thành vũ trụ (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Ở Hi Lạp và La Mã
cổ đại, có tư tưởng cho rằng thế giới cấu tạo từ các nguyên tố vật chất
như nước, lửa, nguyên tử”.
Thuyết vô thần,
hay chủ nghĩa vô thần, là một quan điểm khẳng định rằng thần
thánh không tồn tại, hoặc phủ nhận “đức tin”
vào thần thánh. Từ “vô thần” còn được định nghĩa một cách rộng hơn là sự
không có đức tin vào thần thánh, đồng nghĩa với phi thần luận (nontheism).
Nhiều người tự nhận là vô thần
có thái độ hoài nghi với tất cả những gì siêu nhiên, với lý do là không
có bằng chứng thực nghiệm về sự tồn tại của thần thánh. Những người khác
lập luận ủng hộ thuyết vô thần trên cơ sở triết học, xã hội và lịch sử.
Nhưng trong tư tưởng đưa đến nhận thức nhằm đạt sự đồng thuận đối với
định nghĩa của các từ như “thần” hay “chúa” (deity và god)
vẫn còn một khoảng cách khá xa đối với lập luận hay biện chứng.
Về các hiện tượng bị phủ nhận, chủ nghĩa vô thần có
thể chống lại bất cứ thứ gì từ sự tồn tại của một vị chúa trời tới sự
tồn tại của bất cứ khái niệm tâm linh, siêu nhiên, hay siêu việt nào,
chẳng hạn như các khái niệm của Ấn Độ giáo và Phật giáo.
II. Khái quát về vô thần:
Cơ sở lý luận vô thần là phân biệt giữa vô thần thực
tiễn và vô thần lý thuyết. Mỗi hình thức khác nhau của vô thần lý thuyết
xuất phát từ một cơ sở lý luận hay luận cứ triết học cụ thể nào đó.
Ngược lại, vô thần thực tiễn không đòi hỏi một luận cứ cụ thể và có thể
bao gồm sự không quan tâm và không biết về ý niệm thần thánh.
1.
Vô thần lý thuyết:
Về khía cạnh lý thuyết, hoặc tu hành, chủ nghĩa vô
thần thừa nhận một cách tường minh các luận cứ chống lại sự tồn tại của
thánh thần, phản ứng lại các luận cứ hữu thần như luận cứ mục đích hoặc
thuyết đánh cược của Pascal (Pascal's Wager). Các lập luận lý
thuyết cho việc phủ nhận thần thánh dựa trên các dạng thức tâm lý học,
xã hội học, siêu hình học và nhận thức luận đa dạng.
2.
Vô thần thực tiễn:
Trong thuyết vô thần “thực tiễn”, hay “thực
dụng”, các cá nhân sống như thể không có thần thánh và họ giải thích
các hiện tượng tự nhiên mà không dùng đến những khái niệm có tính chất
thần thánh. Sự tồn tại của thần thánh không bị phủ nhận, nhưng có
thể được xem là không cần thiết hoặc vô ích; thần thánh không mang lại
mục đích sống, cũng không gây ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày.
Nói một cách khác khái niệm của họ khác với khoa học tự nhiên
phương pháp luận (methodological naturalism). Chủ nghĩa vô thần
thực tiễn có nhiều hình thức khác nhau:
2.1/ Thiếu động cơ tôn giáo để tạo nên đức tin vào
thần.
2.2/ Chủ động loại bỏ các vấn đề về thần thánh và tôn
giáo ra khỏi hoạt động tìm kiếm tri thức hay các hoạt động thực tiễn.
2.3/ Không quan tâm đến các vấn đề thần thánh và tôn
giáo.
2.4/ Không có bất cứ ý niệm nào về thần thánh.
III. Xác Định chủ nghĩa nhận thức:
1.
Tư tưởng của người Ấn qua các thời
kỳ:
*
1500 TCN - Vệ Đà và Áo nghĩa thư
*
500 TCN - Jaina, Phật, Bhagavad Gita, Manu Smriti
*
300 TCN - sự phát triển của nền triết học Ấn giáo (Darshanas) chính
thống
*
200 SCN - Long Thọ và sự phát triển của trường phái Đại thừa
*
600 SCN - Shankaracharya và sự phát triển của Vedanta
*
900 SCN - sự phát triển của các trường phái: Visishtadvaita, Dvaita,
v.v...
2. Khái niệm Vô thần theo hai quan điểm:
Như vậy theo dòng thời gian, người Ấn đã thay đổi rất
nhiều về nhận thức khi cuộc sống trở nên phong phú, trái đất được thu
hẹp trong tầm tay thì khái niệm về vô thần cũng được phân chia ranh giới
trong khái niệm khá rõ:
a) Vô thần trong trạng thái chưa từng nghĩ đến niềm
tin vào thần thánh. Và mơ hồ với khái niệm vào thần thánh.
b) Vô thần có ý thức không xác định về đức tin thần
thánh. Và họ chủ động khẳng định rằng thần thánh không tồn tại.
Các nhà triết học như Ludwig Feuerbach
và Sigmund Freud lập luận rằng Chúa Trời và các đức tin tôn giáo khác là
các phát minh của con người, được tạo ra để thỏa mãn các nhu cầu hay ý
muốn đa dạng về tâm lý hoặc tình cảm. Đây cũng là quan điểm của nhiều
Phật tử.
Chịu ảnh hưởng từ các tác phẩm của Feuerbach, Karl Marx và Friedrich
Engels, lập luận rằng đức tin vào Chúa Trời và tôn giáo là các công cụ
xã hội mà những người có quyền lực sử dụng để áp bức giai cấp lao động.
Theo Mikhail Bakunin, “ý niệm về Chúa hàm ý sự từ bỏ lý tính và
công lý của con người; nó là sự phủ nhận kiên quyết nhất đối với quyền
tự do của con người, và nó dẫn đến kết quả tất yếu là sự nô lệ của loài
người về lý thuyết cũng như thực tế”. Đảo ngược câu cách ngôn
nổi tiếng của Voltaire “Nếu không có Chúa thì cần phải phát minh
ra Chúa”, Bakunin nói “Nếu quả là có Chúa thì cần phải bãi
bỏ ông ta”.
Dựa trên những tiêu chí của các chủ thuyết, chúng ta thấy, dù
cổ đại hay hiện đại thì những thắc mắc do tư duy hay tự nhiên không ý
thức đều có cùng chung quan điểm, nếu những học thuyết và chủ nghĩa hữu
thần hay vô thần chưa đưa được con người thoát khỏi cái vỏ kiến thức
định kiến thì vẫn mãi là học thuyết suông.
B.
Học thuyết.
1.
Trường phái triết học Cārvāka:
Trường phái triết học Cārvāka có tính chất
triệt để duy vật và phản thần đã bắt nguồn từ khoảng thế kỷ thứ 6 trước
CN. Và cũng là trường phái triết học vô thần rõ rệt nhất của Ấn
Độ. Nhánh triết học Ấn Độ này được coi là một hệ thống không
chính thống (heterodox) và dĩ nhiên không được xem là
một phần của 6 trường phái chính thống của Ấn Độ giáo.
Sẽ rất khó khi chúng ta tìm thấy một tài liệu có
hệ thống về chủ nghĩa duy vật, hay một trường phái có tổ chức nào tương
tự như kiểu các trường phái triết học, bởi hầu hết người dân Ấn theo đa
thần giáo, ngoài trừ người theo đạo Sikh
là nhất thần giáo”. Cho nên chúng ta chỉ
có thể dựa vào các tác phẩm của các trường phái khác khi đề cập quan
điểm duy vật và phủ nhận chúng. Kiến thức nghiên cứu của chúng ta về chủ
nghĩa duy vật Ấn Độ chỉ dựa chủ yếu vào những điều này.
2.Mang
tính đột phá và xây dựng ý thức:
Trường phái vô thần mang tính xây dựng trùng hợp với
học thuyết theo thuyết giá trị phủ nhận sự tồn tại của thần thánh để
nghiêng về một “giá trị tuyệt đối cao hơn” như đạo Phật
chẳng hạn, hoặc hướng về giá trị chân thiện mỹ của nhân loại! Hình thức
vô thần này coi nhân loại như là nguồn gốc tuyệt đối của luân lý và các
giá trị, và cho phép các cá nhân giải quyết mọi ngóc ngách của ý thức về
các vấn đề đạo đức mà không cần có sự hiện diện của thần thánh để niềm
hạnh phúc khộng bị hạn chế.
Đứng về một khía cạnh nào đó, chúng ta có thể nhận
thấy người vô thần là một người thực tế, duy lý trí, chỉ tin vào những
gì mắt thấy tai nghe hoặc những gì khoa học có thể chứng minh được. Đến
đây chúng ta có thể tạm chấp nhận vai trò học thuyết của Cārvāka là một
bước đi mới mà bản thân của những người ngoài tôn giáo không muốn mình
bị nô lệ kiến thức, hoặc quá lệ thuộc vào thần thánh.
Những năm gần đây, một số giáo phái đã thu nạp một số
tín đồ vô thần công khai, chẳng hạn như Do Thái giáo nhân văn (humanistic
Judaism) hay người Do Thái vô thần và những người vô thần Ki-tô giáo.
Như vậy, chưa hẳn là người vô thần, không theo một
chủ nghĩa nào hoặc học thuyết nào là họ không có niềm tin, người không
tôn giáo là không chính xác. Họ tin chính họ và phản bác các học thuyết
còn lại và họ trung thành với quan điểm hướng đến giá trị tốt hơn của
tôn giáo. Bởi mọi hình thức của tôn giáo cũng chỉ là gạch nối của mục
đích sau cùng của kiếp người. Hay họ tin vào những giá trị thành tựu của
khoa học thì đó cũng chính là “Tôn giáo khoa học”. Và
trong một chừng mực nào đó niềm tin vào tôn giáo khoa học, đôi lúc họ
còn mang tính cuồng tín và mãnh liệt hơn bất kỳ tín đồ của bất kỳ tôn
giáo nào!
Đó là một xu thế tất yếu của xã hội Ấn Độ đương thời,
nên sự có mặt của học thuyết Cārvāka như thêm một bông hoa trong vườn
hoa tâm linh, như một điểm son tạo nên nét chấm phá độc đáo cho bức
tranh đa tôn giáo đa học thuyết nói chung và sáu trường phái chính thống
nói riêng thêm gam màu tươi sáng cho dòng sử Ấn, và tạo nên một dấu ấn
thiên hùng ca đậm chất triết học của một đất nước đầy huyền bí từ ngàn
xưa cho đến ngày nay và mãi đến ngàn sau!
Người theo thuyết vô thần là người không tin có sự hiện hữu của
một hay nhiều thần hay thượng đế hay một đấng siêu nhân nào cả.
Thuyết Vô Thần đã có từ thời Xenophanes (570 - 470 trước Tây
Lịch), cách đây hơn 2,000 năm.
Ðây là một con đường dài. Vì ta sẽ phải đi suốt cuộc đời mới
hết. Ðường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ và tiếng
chim hót véo von. Ðó là những khi niềm tin dâng đầy.
VietCatholic News (21/08/2003)
Oxford American Dictionary định nghĩa “người vô thần” (atheist)
là “người không tin và sự tồn tại của Chúa Trời hay thần
thánh”. New York: Avon Press, 1980.
Walpola Rahula, What the Buddha Taught. Grove Press,
1974. Pages 51–52.
Logical Arguments for Atheism. Internet Infidels, The Secular
Web Library. truy nhập ngày 21.10.2009.
Drange, Theodore M. (1996). "The Arguments From Evil and
Nonbelief". Internet Infidels, Secular Web Library.
Retrieved 22.10.2009.
Joshi, L.R. (1966). “A New Interpretation of Indian Atheism”.
Philosophy East and West 16 (3/4): 189–206.
Trong tiếng puljab, “Sikh” có nghĩa là “học trò”, hoặc “môn đệ”,
còn những người Sikh là “học trò của các Guru”. Đạo Sikh dựa
trên những tín điều mà Guru Khải tổ Nanak và 9 vị Guru Thế tổ
khác truyền lại. Chỉ thờ duy nhất một vị thần, đó là Chúa Trời.
Chúa Trời tạo ra vũ trụ, sự tồn tại của vũ trụ phụ thuộc vào
ý chí của Chúa Trời. Chúa Trời đã, đang và sẽ tồn tại mãi. Chúa
Trời không có hình thù, không có giới tinh, chưa bao giờ và sẽ
không bao giờ mang hình dáng con người trên Trái đất.
Phạm Thiên sau quá trình thanh lọc tâm hồn, chứng đắc đến cõi
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ, nhưng vẫn còn bị luân hồi. Trường
Bộ Kinh, Phạm võng kinh (sa., pi. brahmajāla, nghĩa
là “tấm lưới của Phạm thiên”), nói về các quan điểm triết học và
siêu hình thời Phật giáo sơ khai.
Lyas, Colin (January 1970). “On the Coherence of Christian
Atheism”. Philosophy: The Journal of the Royal Institute of
Philosophy 45 (171): 1-19.
Click vào đây để download file word