-
Triết học Jain
Giảng Viên
Thích Lệ Thọ
A. Đạo
Jain
I.
Bối cảnh và xuất xứ:
Theo dòng thời gian tư
tưởng triết học của người Ấn được phân chia theo: 1.500 TCN là giai đoạn
thống trị của Vệ Đà,
Áo nghĩa thư
và sau đó 1000 năm là thời kỳ phán giáo của các hệ thống triết học
chánh thống giáo nổi bậc là đạo Jaina, đạo Phật,
và học thuyết Bhagavad Gita
được phát triển cho đến ngày nay. Điều đó cho thấy dòng lịch sử của
người Ấn đã phát triển tư tưởng đến đỉnh cao, nhằm đáp ứng cho sự khát
vọng của con người muốn có một câu trả lời thỏa đáng là con người từ
đâu mà có và vũ trụ này hữu hạn hay vô hạn? Câu hỏi đó cho đến thời đại
chúng ta đang còn là một thách thức,
vậy chúng ta thử tìm đến cách giải quyết của Đạo Jain ra sao khi đã có
mặt từ thời cổ đại được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda, và trải qua 24
đời truyền thừa những vị ấy được gọi là các tirthankara-người
lội qua chỗ cạn. Sở dĩ có danh xưng ấy vì họ đã giúp cho các đệ
tử, những người đi theo đạo lý, vượt qua bến bờ đau khổ luân hồi của thế
gian và đạt đượt giác ngộ. Đỉnh điểm của học thuyết đó đã phát triển rực
rỡ cùng thời với đức Phật.
II.
Những nét tiêu biểu của Jainism:
Jainism- Kỳ-na giáo là một
tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Veda, mặc dù trong số
những vị mở đường ấy có Rsabha, Agitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở
thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda. Nhưng học thuyết
đó đã thoát thai và mang dáng dấp của nền Văn minh lưu vực Ấn hà. Kỳ-na
giáo phát triển như một hệ quả tất yếu bởi cái bóng quá lớn của Veda che
khuất mọi ý tưởng tự do của con người: từ chủ trương tế lễ, mọi sinh
hoạt đời sống và ngay cả tính thẩm quyền trong giáo lý của Veda.
Vì vậy, sự thay đổi của họ với nhận thức phát triển, tư duy phóng khoảng
của nền văn minh giúp họ tạo nên một lối đi mới là nhu cầu ắt có và đủ.
Sự khai phóng của họ mang chút dáng vẻ những kẻ phiêu lưu trong lĩnh vực
tư tưởng, chính bước đột phá đó đã được nhiều người ủng hộ với chủ
trương bất bạo động mọi hình thức, sống trong kham nhẫn tuyệt đối
trên cả hai phương diện lý thuyết và thực hành.
Vì vậy khi phân tích Thuật
ngữ chúng ta sẽ thấy chữ Jainism có thành tố là “ji” có
nghĩa là chinh phục được khát vọng, hay chinh phục những ràng buộc.
“Jina” có nghĩa là người chinh phục tất cả kẻ thù nội tại
và bất tịnh của tinh thần. Cho nên biểu tượng thành công của các
vị Thánh là những con người bình thường đã dùng nhiều phương pháp tu tập
để vượt qua khỏi sự ràng buộc của cuộc đời, khổ đau về thể xác và tinh
thân, để đạt được giải thoát. Vị thánh đầu tiên là Rishabha
truyền thừa đến 24 đời và vị cuối cùng được tôn kính nhất là Mahāvira
(Đại Hùng), ngài thuộc dòng họ Sát-đế-lợi ở Vaiśālī.
Trong nền tảng đạo lý lại phát sinh ra hai trường phái dường như mâu
thuẩn và đối lập, nhưng sự tương phản đó lại là sự hỗ trợ cho nhau cùng
tồn tại và phát triển. Trường phái śvetāmbaras cho phép tu sĩ mặc
y phục màu trắng (white-clothed). Thánh địa của trường phái nằm ở
Gujarat miền Tây bắc và miền Tây Rājputāna về sau đã phát triển đến miền
Trung và miền Bắc Ấn Độ.
Cũng từ một học thuyết của
Kỳ-na-giáo nhưng trường phái Digambaras cấm không cho mặc y phục,
nên một số tôn giáo khác gọi tên biếm nhẽ là Phái lõa thể
(space-clothed) khi tiếp xúc với trường phái Digambaras. Trường phái này
cho phép người nữ xuất gia, nhưng chỉ được ở trong tu viện không được ra
ngoài khất thực như những nam tu.
III. Giáo điều của
Kỳ-na-giáo:
Những người nhận ra được
chân lý, muốn theo giáo đoàn làm tu sĩ phải thực hành 22 điều khổ hạnh
như: kềm chế cơn đói, khát, chịu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết nóng,
lạnh, chấp nhận môi trường thiên nhiên cho muỗi đốt, ruồi bu, đối với cơ
thể khống chế sự khát vọng về quyền lực, danh vọng, thù ghét, yêu thương
và chối bỏ hoàn toàn nhục dục … và với tư tưởng:
** Bất
hại là quan điểm giáo lý quan trọng của Kỳ-na giáo. Bất hại bắt nguồn từ
tư tưởng, sau đó được bày tỏ qua lời nói và cuối cùng là hành động cho
nên Tu sĩ phải luôn ghi nhớ về các qui định sau:
1/ Cẩn trọng trong ngôn từ.
2/ Cẩn trọng trong suy tư.
3/ Thận trọng khi đi đứng.
4/ Tập trung khi nâng vật lên hoặc để vật xuống.
5/ Khi ăn uống, phải quan sát thức ăn và nước uống.
6/ Từ
bỏ tất cả những sở hữu thế tục.
7/ Để cho ngũ giác quan thỏa mãn là một tội lỗi.
8/
Mỗi năm ẩn cư 3 tháng mùa mưa.
9/
Chấp nhận thức ăn từ sự hỷ cúng của thế gian.
10/
Mặc đồ khác biệt với xã hội.
11/ Ăn
chay tuyệt đối.
Những qui định cho người cho tại gia có 5 điều:
1/
Không tổn hại mạng sống hữu tình (ahiṃsa)
2/ Không nói dối (satya)
3/ Không trộm cắp (asteya)
4/ Không tà dâm (brahmacarya)
5/ Hạn chế tham đắm các sở hữu thế tục (aparigraha)
Lời khuyên thứ năm của giáo
điều còn mang thông điệp đến các tín đồ, không nên để thân xác và tâm lý
bị lôi cuốn, trói buộc vào thế giới vật dục, do giác quan mang lại những
khoái cảm thì cũng bị xem là tội lỗi.
B.
Triết học Jain
IV.
Tôn chỉ Kỳ-na giáo:
1/
Đạo đức học:
* Bất hại là giao lý trọng
tâm của quan điểm Kỳ-na giáo. Được nhận thức qua tư tưởng, sau đó được
bày tỏ qua lời nói và cuối cùng là hành động.
* Bác bỏ
các nghi lễ Bà la môn như là phương thế để thành tựu giải thoát, từ
việc cử hành chính xác các nghi lễ.
*
Phủ định sự hiện hữu của cảnh giới thiêng
liêng vĩnh cửu, ngài tin rằng linh
hồn của con người bị mắc kẹt trong thế giới vật chất, cần được giải
thoát nhằm thành tựu sự toàn mỹ.
*
Biến giới luật bất hại (ahimsa) thành tâm điểm tuyệt đối của triết
học và đạo đức học thực hành.
* Kỳ Na giáo mang tính
vô thần chủ nghĩa. Hoàn toàn khác với Ấn giáo, Kỳ Na giáo không có
những cái tuyệt đối, không có sự hiệp nhất sau cùng của Tiểu ngã Atman
vào Ðại ngã Brahman hằng cửu. Thay vào đó, Kỳ Na giáo cho rằng giải
thoát sau cùng là sự thừa nhận rằng tinh thần của ta mới là một thực tại
tối hậu.
* Chính nghiệp báo lèo
lái vũ trụ, chứ chẳng phải một thần linh nào cả. Thế giới không có
khởi đầu nhưng được xem là đang chuyển động qua các thời kỳ tiến hóa và
thoái hóa.
* Khi linh hồn được giải
thoát, ở đó chỉ còn lại niềm tin, tri thức, đức hạnh và mọi trạng thái
chân chính hoàn hảo. Khi hết thảy các nghiệp báo ràng buộc đều bị
loại bỏ, linh hồn vút bay lên tới bến bờ không gian vũ trụ.
2/
Thánh điển:
2.1.
Bốn nguyên lý đưa đến tuệ giác:
a) Công đức của tôn giáo (dharma)
b) Thịnh vượng (artha)
c) An lạc (kāma)
d) Giải thoát (mokṣa)
2.2. Thất đế:
Muốn chế ngự bản thân, phải
có phương pháp tự kiềm chế các loại ham muốn và dục vọng. Phương pháp
tích cực thuộc về sự chỉ dẫn theo nguyên tắc mà các vị tổ đã trải qua,
có như vậy mới hướng được đạo tâm phát triển.
1/
Mạng
2/ phi
mạng (linh hồn và phi linh hồn)
3/ Lậu nhập (nghiệp vào linh hồn của con người)
4/ Lậu
hoặc (trói buộc ngăn không cho con người giải thoát)
5/ Chế ngự.
6 Tĩnh
tâm
7/
giải thoát
2.3. Tam bảo:
Một nguyên tắc khác cũng là
phần cốt lõi của người tu theo Kỳ Na giáo phải sống với “Tam bảo”,
tức là thực hiện đúng đắn ba nguyên tắc, để không đi quá xa với nền tảng
giáo lý:
1/
Niềm tin không thay đổi.
2/ Tri thức phải hiểu biết sâu sắc.
3/ Ðức hạnh phải rạng ngời.
IV.
KẾT LUẬN:
Những người được ca tụng và
thường là những kẻ phiêu lưu trong lĩnh vực tư tưởng không còn thỏa mãn
với những bài kinh Vệ đà thiêng liêng cũng như những việc thờ cúng của
đạo Bà la môn nữa. Giáo chủ Rishabha của Kỳ-na-giáo là một
trong những chủ trương đó. Họ đi tìm thứ kinh nghiệm huyền bí nằm ngoài
những hình thức cổ truyền. Tôn giáo Veda cổ được những người chủng tộc
Indo-Aryens đưa vào Ấn Độ từ hàng nghìn năm trước thật ra đã thoái hóa
và máy móc. Những tu sỹ Bà la môn giáo, phải mất tới ba chục năm để nhớ
thuộc lòng những bản kinh thiêng bằng một ngôn ngữ đã chết, từ đó tạo
nên một bức màng huyền bí thái quá trong những nghi lễ. Vì chỉ có một bộ
phận tăng lữ tiên tiến trong xã hội mới được tham gia. Từ nguyên nhân
sâu xa đó mọi giai cấp khác trong xã hội bắt đầu ở trạng thái ấp ủ tư
duy và giải tỏa những vướn mắc tự chính mình chứ không còn mong đợi từ
thánh điển Veda và tăng lữ. Trong thời điểm đó sự xuất hiện của Giáo chủ
Rishabha như có một luồn gió mới thổi vào tâm trí một học
thuyết mở được nhiều tầng lớp quan tâm:
* Đề cập chuyện tái sinh,
chủ trương linh hồn của cá thể vẫn tồn tại sau khi chết để tái sinh dưới
một dạng mới (người, súc vật, thần thánh hoặc ngạ quỷ) cho
tới khi đủ một số lần nhất định. Cái vòng luân hồi đó không thể xê dịch
và ai cũng phải tái sinh làm thân phận nghèo khổ hay xúc vật cho dù đó
vị là Bà-la-môn.
* Bất cứ ai cũng có thể
tiếp cận việc tái sinh qua hai con đường:
1/ Làm người sống khổ hạnh
hoặc trở thành tu sỹ hành khất.
2/ Chấm dứt mọi sự ràng
buộc người tu sĩ phải hoàn toàn trần truồng, sống ẩn dật hoặc tập hợp
thành những nhóm nhỏ ở trong rừng.
Con đường khổ hạnh phải
chấp nhận mọi luật lệ hà khắc, thông qua sự hành xác, để đạt được một
quyền năng tâm linh huyền bí. Và con đường dẫn đến kết quả đó cần phải
có những yếu tố căn bản của nội tại và ngoại tại:
* Không chấp nhận hệ thống
giai cấp của Veda.
* Chủ trương bất hại, hoà bình.
* Chủ trương hoàn toàn vô
thần, khái niệm về thượng đế hoàn toàn không có chỗ đứng trong Kỳ-na
giáo.
* Trọng tâm giáo lý là kham
nhẫn tuyệt đối trên cả hai phương diện lý thuyết và thực hành.
* Khẳng định rằng nghiệp là
những vật chất vi tế (subtle material objects) gắn liền với linh hồn như
bóng với hình không thể tách rời nhau. Con người muốn thoát khỏi luân
hồi phải tu tập khổ hạnh và muốn hiểu rõ về vũ trụ thì không thể lấy cái
hiểu biết hữu hạn của trí não để nhật thức cái vô hạn mà chỉ có thiền
định mới đem lại ánh sáng hiểu biết đó.
27/10/2009
SÁCH THAM KHẢO
1/ Michael Jordan.-Dịch
giả: Phan Quang Định. Minh Triết Đông Phương. Nhà xuất
bản: Nxb Mỹ thuật, 2004.
2/ Lâm Thanh Huyền.
Triết Học Và Thiền Học Phương Đông - Giai Thoại Thiền Sư. Nxb
Lao động, 2007.
3/ Dan Ariely, Phi Lý
Trí - Khám Phá Những Động Lực Vô Hình Ẩn Sau Những Quyết Định Của Con
Người. Nxb Lao động Xã hội, 2009.
4/ Tony Buzan.-Dịch giả:
Nguyễn Thế Anh. Lập Bản Đồ Tư Duy - Công Cụ Tư Duy Tối Ưu Sẽ Làm
Thay Đổi Cuộc Sống Của Bạn. Nxb Lao động Xã hội. 2008.
5/ Trịnh Xuân Thuận.
Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 1. Nhà xuất bản: Nxb Trẻ. 2008.
6/
Nhiều người dịch. Albert Einstein Và Sự Tiến Triển Của Vật Lý Học Hiện
Đại. Nxb KHKT, 2006.
Trịnh Xuân Thuận. Cái
Vô Hạn Trong Lòng Bàn Tay (Từ Big Bang Đến Giác Ngộ) Nxb Trẻ.
2007.
7/NguyễnƯớc. Đại
Cương Triết Học Đông Phương. Xuất bản. 2009.
http://www.censusindia.gov.in/Census_Data_2001. truy cập ngày
26.10.2009.
8/
Doãn Chính, các trường phái triết học
Ấn Ðộ, NXB Ðại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002, dịch từ bản tiếng
Anh của J.L. Jaini, Sacred Books of the Jaina (Arrah, India: The Central
Jaina Publishing House, 1920).
9/
http://www.daophatngaynay.com (truy cập ngày 26.10.2009)
10/
http://www.thuvienhoasen.org. (truy cập ngày 27.10.2009)
· Rig
Veda: thi tụng cái biết, bao gồm gần mười quyển, với
1028 tụng ca mà bài cổ nhất có từ thế kỷ 15 trước Công nguyên và
những bài gần nhất cũng khoảng thế kỷ thứ 10 trước Công nguyên.
Những vị thần được ca tụng nhiều nhất là Indra, Varuna và Agni.
·
Sama Veda: ca vịnh thần chú, gồm 585 khổ thơ, tương ứng
với các giai điệu được dùng trong những tụng ca hiến tế (hymmes
des sacrifices).
·
Yayur Veda: là một chuỗi các công thức hàm chứa những
nghi lễ khác nhau: dâng lễ trăng tròn, trăng mới, dâng cúng các
vong nhân, dâng thần lửa, dâng bốn mùa..
·
Atharva Veda: triển khai ý nghĩa ba bộ kinh kia - gồm
các bài thuyết giáo, có nội dung thiết thực và triết học. Các
bài thuyết giáo chứa đựng thông điệp tâm linh căn bản của Ấn Độ
giáo
Áo nghĩa thư (zh.
奧義書, sa.
upaniṣad),
“kinh điển với ý nghĩa uyên áo”, là một loại văn bản được
xem là thánh điển rất quan trọng của Ấn Độ giáo với nội dung
giải thích, diễn giảng bốn bộ Veda vốn ẩn chứa tính chất bí ẩn
nên upaniṣad
được xem đỉnh cao của trí tuệ.
Phật là chữ viết tắt của Phật-đà (zh.
佛陀), đây là
danh hiệu phiên âm từ tiếng Phạn hoặc Pali buddha (bo.
sangs rgyas
སངས་རྒྱས་)
sang Hán-Việt; dịch ý là Giác giả (zh.
覺者), tức “Người
tỉnh thức”. Một cách gọi khác là Bụt (đọc Nôm chữ
孛 hoặc
侼).
Bhagavad Gita là một văn bản cổ bằng tiếng Phạn bao gồm
700 câu của bộ trường ca Mahabharata. Những câu này, sử dụng
dạng thơ mỗi câu có năm âm tiết với nhiều so sánh và ẩn dụ, mang
nhiều tính thơ ca. Bhagavad Gita cũng được gọi là Gītopaniṣad,
ngụ ý là nó là một “Upanishad”. Về mặt học thuật nó được xem
kiến thức được tiết lộ (bởi Đấng tối cao).
Sự sống có thể tồn tại trên vệ tinh sao Mộc. Trong mấy
thập kỷ qua nhân loại chưa tìm ra bất kỳ bằng chứng
đáng thuyết phục nào chứng tỏ sự sống tồn tại bên
ngoài trái đất, song từ lâu giới khoa học đã coi Europa -
thiên thể bay quanh sao Mộc - là nơi lý tưởng để tìm kiếm
hoạt động sinh học. Bề mặt trẻ và rất mịn của Europa khiến
các nhà khoa học tin rằng có một đại dương ngầm nằm bên
dưới lớp ngoài cùng của nó. (truy cập ngày 26/10/2009)
http://vnexpress.net/GL/Khoa-hoc/2009/10/3BA14EC3/
1/ Thẩm quyền của các kinh Veda (sách thánh);
2/ Giá trị của các
lễ tế được cử hành đúng nghi thức và do bởi đẳng cấp tư tế Bà la
môn.
3/ Ðức tin của Ấn
giáo chính thống cũng đặt trên hai cơ sở:
4/ Thực tại hằng
cửu của Thượng đế (Brahman), có thể hiểu khái quát như là Ðại
ngã, trong các dạng thức muôn hình muôn vẻ của thực tại tối hậu
ấy;
5/ Linh hồn của con
người (Atman), có thể hiểu khái quát là Tiểu ngã, cái tối hậu sẽ
hòa nhập vào Ðại ngã.
Vị tổ thứ 24, Mahavira, là một nhân vật lịch sử, sống cùng thời
đại với Ðức Phật vào cuối thế kỷ 6 tới đầu thế kỷ 5 trước CN.
Click vào đây để download file word