-
Triết Học Đại Thừa Phật Giáo
Giảng Viên
Thích Lệ Thọ
I. Định nghĩa:
Đại chúng bộ (zh.
大眾部,
sa. mahāsāṅghika)
là thuật ngữ chỉ phái “đại chúng”, phần lớn, đa số của Tăng-già,
là một trong hai trường phái Tiểu thừa, được tách ra trong Đại hội kiết
tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai tại Tỳ-xá-ly. Trong hội nghị
này, Đại chúng bộ có năm quan điểm riêng về tính chất của một A-la-hán
và mười điều bị coi là trái với giới luật. Theo một thuyết khác
thì Đại hội kiết tập kinh điển Phật giáo lần thứ ba tại Hoa Thị thành (sa.
pāṭaliputra)
mới là lần đánh dấu sự xuất hiện của Đại chúng bộ.
Các vị thuộc Đại chúng bộ xem đức Phật là con người
siêu thế, với thân tâm hoàn toàn thanh tịnh. Đó là khái niệm đầu tiên
dẫn đến quan điểm “Phật siêu việt” sau này của Đại thừa
Phật giáo.
Đại chúng bộ xem đức Phật là sống vô tận, đã đạt Nhất thiết trí, toàn
năng, thể nhập đại định vĩnh cửu.
Và đoàn thể tăng già là ứng hóa thân của chư Phật nhằm đưa
tất cả chúng sinh đến giác ngộ.
II. Phát triển bộ phái:
Một trăm năm sau ngày Đức Phật Nhập Niết Bàn, kiết
tập kinh điển lần thứ 2 được diễn ra để thảo luận về giới luật vì có
những thay đổi về môi trường truyền giáo lúc này đã mở rộng ra và phụ
thuộc vào tập quán nơi các tỳ kheo trú ngụ và tu tập. Số các vị tỳ kheo
có uy tín và cao tuổi
cương quyết giữ lại mọi giới luật như cũ, trong khi các vị tỳ kheo ít
tuổi hơn lại yêu cầu thay đổi một số giới luật. Thuyết phục nhau không
thành, các vị tỳ kheo trẻ tuổi bỏ đại hội và thành lập một nhóm riêng là
Đại Chúng Bộ.
Trong 2 tác phẩm “A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa
luận” và “Dị Bộ Tông Luân luận” ghi rằng: “trong
một kỳ Bố tát, Đại Thiên công khai đưa ra 5 quan điểm của mình tạo thành
sự tranh cãi trong chúng tăng, dẫn đến một cuộc hội nghị rộng rãi để
quyết nghị 5 việc mà Đại Thiên đưa ra đúng hay sai. Kết quả hội nghị bất
thành, không thống nhất ý kiến, cuối cùng đã phân chia Phật giáo thành
hai bộ phái Thượng tọa bộ (Sthāvira)
và Đại chúng bộ (Mahāsamghika).
Đề cập đến sự kiện rạn nứt, phân chia Phật giáo thành
hai hệ phái Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ, trên thực tế có hai nguồn sử
liệu khác nhau cùng đề cập đến vấn đề này. Nguồn sử liệu của Phật giáo
Nam truyền thì cho rằng “mười điều phi pháp”
là vấn đề tranh cãi giữa hai phái, tạo thành sự chia rẽ của tăng đoàn.
Thế nhưng, theo nguồn tư liệu của Phật giáo Bắc truyền thì không lấy
mười điều phi pháp làm yếu tố phân chia Phật giáo, mà lại lấy “5
việc của Đại Thiên” (Mahādeva),
xem đó như là sự kiện chính yếu tạo nên sự đột biến trong Phật giáo.
Theo thời gian, Đại chúng bộ lại tách ra thêm tám bộ
nữa. Sau này khi người ta muốn đề cập đến tư tưởng phát triển của Phật
giáo thì lấy quan điểm của Đại chúng bộ làm tiêu biểu và mãi đến đầu thế
kỷ thứ I, các bộ phái của Đại chúng bộ được thăng hoa trong ngôn ngữ là
giáo pháp Đại thừa cho đến hiện nay:
1. Đại Chúng Bộ (Mahāsāṁghīka),
2. Nhứt Thuyết Bộ (Ekavyavahārikā),
3. Thuyết Xuất Thế Bộ
(Lokottaravādin),
4. Kê Dẫn Bộ (Kukkuæika),
5. Đa Văn Bộ (Bahuśrutya),
6. Thuyết Giả Bộ (Prajóātivādin),
7. Chế Đa Sơn Bộ (Caitika),
8. Tây Sơn Trụ Bộ (Aparaśaila),
9. Bắc Sơn Trụ Bộ (Uttaraśaila).
III.
Tư tưởng cơ bản của Đại chúng bộ:
1/ Chư Phật Thế Tôn đều là những bậc xuất thế gian,
các đức Như Lai không có pháp hữu lậu, những lời nói của Như Lai đều có
ý nghĩa chuyển pháp luân, Phật sử dụng một loại âm thanh để nói pháp,
lời Phật dạy không thể bàn cãi, sắc thân của Như Lai không có bờ mé, oai
lực của đấng Như Lai cũng không thể lường được, tuổi thọ của Phật không
thể cùng tận. Đức Phật giáo hóa loài hữu tình với mục đích làm cho chúng
sanh có lòng tịnh tín không thối tâm.
2/ Đức Phật khi ngủ không có mộng mị, đức Phật trả
lời câu hỏi không cần suy nghĩ, không cần tư duy vận dụng văn chương
(danh cú văn thân), vì Ngài lúc nào cũng ở trong chánh định…chỉ trong
khoảnh khắc của một sát na hiểu rõ tất cả các pháp, chỉ trong một sát na
tâm tương ưng với trí bát nhã (pra-jñāpāramitā)
liễu tri tất cả pháp. Lậu tận trí và vô sanh trí của Như Lai thường ở
trong bình đẳng, tùy tâm mà hành cho đến nhập vô dư Niết bàn (Nirvāna).
3/ Tất cả các vị Bồ tát nhập vào thai mẹ đều không bị
nhiễm những loại ô uế của người mẹ, tất cả những Bồ tát khi nhập thai mẹ
đều lấy hình thức con voi trắng chui vào bụng, khi các vị Bồ tát sanh ra
đều từ hông phải của người mẹ, vì tất cả Bồ tát vào thai không phải vì
dục tưởng, sân tưởng và hoại tưởng, chỉ vì mục đích làm lợi lạc cho các
loài hữu tình mà nguyện sanh vào cõi ác này, cho nên sự kiện nhập thai
hay xuất thai Bồ tát tùy ý quyết định…
IV. Giáo lý Đại Thừa:
1.
Bốn quả Thanh văn:
a) Tu đà hoàn.
b) Tư đà hàm.
c) A na hàm.
d) A la hán.
2. Năm
uẩn:
Năm uẩn theo cách dịch của Ðại sư Tăng Già Ðề Bà (đời Ðông
Tấn): Sắc ấm, Giác ấm (Thọ), Tưởng ấm, Tư ấm (Hành), Thức ấm.
3.
Tám chánh đạo:
Tám chánh đạo theo hai dịch giả kinh Trường A Hàm là
Phật Ðà Da Xá và Trúc Phật Niệm (dịch vào đời Hậu Tần 384-417) gồm:
Chánh kiến; Chánh trí; Chánh ngữ; Chánh nghiệp; Chánh mạng; Chánh phương
tiện; Chánh niệm; Chánh định.
4.
Mười hai Nhân duyên:
12 nhân duyên theo cách dịch của Sa môn Bạch Pháp Tổ
(Tây Tấn) gồm: 1- Si (vô minh), 2- Hành (hành), 3- Thức (thức), 4- Tự
sắc (danh sắc), ), 5- Lục nhập (lục nhập), 6- Tài (xúc), 7- Thống (thọ),
8- Ái (ái), 9- Cầu (thủ), 10- Hữu (hữu), 11- Sinh (sinh), 12- Tử (lão
tử).
5.
Tam Pháp Ấn:
5.1. Pháp ấn thứ nhất: Vô thường.
5.2. Pháp ấn thứ hai: Khổ.
5.3. Pháp ấn thứ ba: Vô ngã.
Tuy nhiên theo Phật học tự điển của Cụ Đoàn Trung
Còn, quyển 3, trang 10, có giải thích Tam pháp ấn là:
1. Chư hành vô thường ấn.
2. Chư pháp vô ngã ấn.
3. Niết Bàn tịch tĩnh ấn.
Tam pháp Ấn dùng để ấn chứng kinh sách được xem.
Người học Phật phải ghi khắc sâu vào Tâm để đối chiếu những lời pháp có
đúng là Pháp Phật không.
V.
Hệ thống kinh điển thuộc Hán tạng:
Ðại Tạng Kinh Ðại Chánh Tân Tu, đã dùng khái niệm bộ
chỉ cho sự tập hợp các kinh cùng loại làm đơn vị để phân toàn bộ hệ
thống kinh điển của Hán tạng ra làm 10 bộ như sau:
1.
A Hàm bộ:
1.1 Trường A Hàm: số 1, 22 quyển với 30
kinh, do hai Ðại sư Phật Ðà Da Xá và Trúc Phật Niệm dịch vào khoảng đầu
thế kỷ 5 TL, đời Hậu Tần (384-417).
1.2 Trung A Hàm: số 26, gồm 60 quyển
với 222 kinh, do Ðại sư Cù Ðàm Tăng Già Ðề Bà dịch vào năm 397-398 TL,
đời Ðông Tấn (317-419) [93].
1.3 Tạp A Hàm: số 99, gồm 50 quyển với
1.362 kinh ngắn, do Ðại sư Cầu Na Bạt Ðà La (394-468) dịch vào khoảng
sau năm 435 TL, đời Lưu Tống (420-478).
1.4 Tăng Nhất A Hàm: số 125, gồm 51
quyển, 52 phẩm với 471 kinh và phẩm Tự do Ðại sư Cù Ðàm Tăng Già Ðề Bà
dịch vào khoảng cuối thế kỷ 4 TL, đời Ðông Tấn.
2.
Bản Duyên bộ:
Một số kinh thuộc Bản Duyên bộ đã được dịch ra tiếng
Việt và ấn hành như:
2.1
Kinh Lục Ðộ tập, số 152, 8 quyển.
2.2
Kinh Ðại Phương Tiện Phật Báo Ân, số 156, 7 quyển.
2.3
Kinh Bi Hoa, số 157, 10 quyển.
2.4
Kinh Ðại Thừa Bản Sinh Tâm Ðịa Quán, số 159, 8 quyển.
2.5
Kinh Phương Quảng Ðại Trang Nghiêm, số 187, 12 quyển.
2.6
Kinh Hiền Ngu, số 202, 13 quyển.
2.7
Kinh Cựu Tạp Thí Dụ, số 206, 2 quyển.
2.8
Kinh Bách Dụ, số 209, 4 quyển.
2.9
Kinh Pháp Cú, số 210, 2 quyển.
2.10
Kinh Pháp Cú Thí Dụ, số 211, 4 quyển.
Ðó là chỉ kể số kinh đã được in ấn. Ngoài ra, còn có
khá nhiều kinh thuộc bộ này đã được dịch xong, trong tương lai sẽ được
ấn hành, có mặt trong Ðại tạng kinh Việt Nam.
3.
Bát Nhã bộ:
Kinh Ðại Bát Nhã Ba La Mật Ða 600 quyển, do Pháp sư
Huyền Tráng dịch từ tháng Giêng năm 660 đến tháng 10 năm 663 TL.
Một
số kinh thuộc Bát Nhã bộ đã được dịch ra tiếng Việt như:
- Kinh
Ma ha Bát Nhã Ba La Mật, 27 quyển.
- Kinh
Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển.
- Tâm
kinh Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển.
Riêng bộ kinh Ðại Bát Nhã Ba La Mật Ða gồm 600 quyển (số
220) đã được Hòa thượng Trí Nghiêm dịch ra Việt văn từ lâu, hiện đang
được biên tập, hiệu đính, đối chiếu một cách cẩn trọng, để tiến tới xuất
bản, góp phần hoàn thành Ðại tạng kinh Việt Nam.
4.
Pháp Hoa bộ:
Kinh Pháp Hoa: Hiện có 3 bản Hán dịch kinh Pháp Hoa,
theo thứ tự thời gian như sau:
4.1 Kinh Chánh Pháp Hoa, 10 quyển, 27
phẩm, do Pháp sư Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn. Ðây là bản Hán dịch
đầu tiên về kinh Pháp Hoa.
4.2 Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, 7 quyển,
28 phẩm, do Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào đời Hậu Tần. Ðây là định
bản: nhiều giới đọc tụng, nghiên cứu, sớ giải, bình luận… đều theo bản
dịch này.
4.3 Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa:
7 quyển, 27 phẩm, do hai Ðại sư Xà Na Quật Ða (523-600) và Ðạt Ma Cấp Ða
(?-619) dịch vào khoảng cuối thế kỷ VI TL, đời Tùy (580-618).
Về phương diện kế thừa và phát huy, kinh Pháp Hoa
được xem là nền tảng giáo pháp của tông Thiên Thai với những xiển dương
của Ðại sư Trí Khải. Kinh Pháp Hoa đã được dịch ra tiếng Việt khá sớm.
Hiện chúng ta có gần 10 bản Việt dịch, chú giải, giảng luận về kinh Pháp
Hoa.
5.
Hoa Nghiêm bộ:
Gọi đủ là kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
(Buddha àvatamà sakamahàvaipulya-sùtra), hiện có 3 bản Hán dịch:
5.1 Lục Thập Hoa Nghiêm: gồm 7 xứ,
8 hội, 34 phẩm, 60 quyển, do Ðại sư Phật Ðà Bạt Ðà La (Budddabhadra,
359-429) dịch vào năm 418, cuối đời Ðông Tấn (317-419).
5.2 Bát Thập Hoa Nghiêm: gồm 7 xứ, 9
hội, 39 phẩm, 80 quyển, do Ðại sư Thật Xoa Nan Ðà (Siksànanda, 652-710)
dịch vào năm 695-699, đời Ðường (Võ Tắc Thiên, 624-705). Ðây là bản dịch
đầy đủ nhất về kinh Hoa Nghiêm.
5.3 Tứ Thập Hoa Nghiêm: gồm 40 quyển,
do Ðại sư Bát Nhã (Prajnnà, 734-?) dịch vào năm 796-798) đời Ðường (vua
Ðường Ðức Tông), từ quyển 1-39 tương đương với phẩm 39 (phẩm Nhập Pháp
giới), quyển 40 tương đương với phẩm 36 (phẩm Phổ Hiền hạnh). Bản dịch
này có tính chất bổ sung cho 2 phẩm 39 và 36 của kinh Bát Thập Hoa
Nghiêm.
Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh vĩ đại của Phật giáo Bắc
truyền, xét về mặt số lượng, cách thế diễn đạt và tư tưởng. Giáo sư
D.T.Suzuki viết:
“Còn về kinh Hoa Nghiêm, đấy quả thực là một
toàn hảo của tư tưởng Phật giáo. Theo ý tôi, không có nền văn học tôn
giáo nào trên thế giới có thể sánh kịp với sự lớn lao về quan niệm, sự
sâu thẳm của cảm thụ và mức vĩ đại của việc biên soạn mà kinh này đạt
được. Ðấy là cái dòng suối vĩnh cửu của cuộc đời mà không tâm thức nào
có tính cách tôn giáo đến đó rồi quay về mà còn khao khát hay còn chưa
hoàn toàn thỏa mãn…”
6.
Bảo Tích bộ:
Kinh Ðại Bảo Tích (Mahà ratna kùta-sùtra) gồm 120
quyển, 49 hội, do Ðại sư Bồ Ðề Lưu Chí (562-727) Công việc này bắt đầu
từ năm 706 (đời Ðường) kéo dài trong 8 năm thì hoàn thành.
Bảo Tích có nghĩa là tích tập các pháp bảo, nên mỗi
hội có thể xem như một bộ kinh với chủ đề riêng và có một vài sự trùng
lặp với các bộ khác. Chẳng hạn:
6.1 “Kinh Thắng Man Sư Tử Hống nhất thừa Ðại
Phương Tiện Phương Quảng” Ðại sư Cầu Na Bạt Ðà La cũng là dịch
giả kinh Tạp A Hàm.
6.2 “Vô Lượng Thọ Như Lai hội”, gồm 2
quyển
6.3 “Văn Thù Thuyết Bát Nhã hội”, gồm
2 quyển do Ðại sư Mạn Ðà La Tiên dịch vào khoảng đầu thế kỷ VI TL đời
Lương (502-556)
6.4 “Bảo Kế Bồ tát hội”, gồm 2 quyển
117, 118 do Ðại sư Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn,
6.5 “Phật Thuyết Vô Lượng Thọ kinh”, 2
quyển, Ðại sư Khương Tăng Khải (Samghavarman) dịch vào khoảng hậu bán
thế kỷ 3 TL đời Tào Ngụy (220-265).
6.6 “Phật Thuyết Ðại A Di Ðà kinh”, 2
quyển, do cư sĩ Vương Nhật Hưu (?-1173) hiệu đính, biên tập vào khoảng
năm 1160-1162 đời Triệu Tống (960-1276).
6.7 “Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ kinh”,
1 quyển, do Ðại sư Cương Lương Da Xá (383-442) dịch vào khoảng năm 424,
đời Lưu Tống (420-478).
6.8 “Phật Thuyết A Di Ðà kinh”, 1
quyển, do Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào đời Hậu Tần.
7.
Niết Bàn bộ:
Kinh Ðại Bát Niết Bàn (Mahàparinirvàna-sùtra) cũng là
một bộ kinh lớn của Phật giáo Bắc truyền, thuyết minh về các giáo
nghĩa Như Lai thường trụ, Chúng sinh đều có Phật tánh, Xiển đề đều thành
Phật
. Kinh này có hai bản Hán dịch:
7.1 Bắc bản Ðại Bát Niết Bàn kinh: gồm
40 quyển, 13 phẩm, do Ðại sư Ðàm Vô Sấm (385-433) dịch vào khoảng năm
415-421 đời Bắc Lương (397-439).
7.2 Nam bản Ðại Bát Niết Bàn kinh: gồm
36 quyển, 25 phẩm, do các Ðại sư Huệ Nghiêm (363-443).
Sự kiện “Niết bàn” đã được nói đến
trong kinh Trường A Hàm
và một số kinh thuộc hệ A Hàm như kinh Phật Bát Nê Hoàn, số 5, 2 quyển,
do Ðại sư Bạch Pháp Tổ dịch vào đời Tây Tấn. Chính vì thế mà sau khi
kinh Ðại Bát Niết Bàn (Bắc bản, Nam bản) được lưu hành, đã tạo nên một
ảnh hưởng rộng lớn trong giới Phật học Trung Hoa đương thời ở cả hai
miền Bắc Nam, dẫn đến việc thành lập tông Niết Bàn hưng thịnh một thời.
8.
Ðại Tập bộ:
Gọi đủ là Ðại Phương Quảng Ðại Tập kinh
(Mahàsamnipàta-Sùtra), 17 phẩm, 60 quyển, do các Ðại sư: Ðàm Vô Sấm
(385-433) dịch vào đời Bắc Lương (397-439.
Công việc tập hợp sắp xếp này là do Ðại sư Tăng Tựu
thực hiện vào đời Tùy. Nội dung kinh Ðại Tập thuyết minh về một số pháp
tu tập của hạnh Bồ tát như Tam học, 6 Ba la mật, các
pháp Tam muội, các pháp Tổng trì… cùng nhấn mạnh về sự nghiệp hộ pháp
của 8 bộ chúng.
Phần
còn lại của bộ Ðại Tập gồm các kinh ngắn, mang số hiệu từ số 398 đến
424, nhìn chung rất là dồi dào, phần nhiều là những bản dịch khác của
những kinh đã có nói kinh Ðại Phương Ðẳng Ðại Tập. Ngoài ra có hai kinh
đáng chú ý là:
8.1 Kinh Ðại Thừa Ðại Tập Ðịa Tạng Thập Luận,
10 quyển, do Pháp sư Huyền Tráng dịch.
8.2 Kinh Ðịa Tạng Bồ tát Bản Nguyện, 2
quyển, do Ðại sư Thật Xoa Nan Ðà (652-710) dịch vào đời Ðường (Ðại sư
cũng là người dịch kinh Hoa Nghiêm 80 quyển).
9.
Kinh Tập bộ:
Một số kinh trong Kinh Tập bộ với nội dung hàm chứa
những giá trị tiêu biểu, thiết thực nên đã được lần lượt dịch ra tiếng
Việt như:
9.1 Kinh Dược Sư: Kinh này hiện có 3
bản Hán dịch:
a) Bản dịch của Ðại sư Ðạt Ma Cấp Ða (?-619) dịch vào
đầu thế kỷ VII, đời nhà Tùy, mang tên: Phật Thuyết Dược Sư Như Lai
Bản Nguyện kinh, 1 quyển.
b) Bản dịch của Pháp sư Huyền Tráng, dịch vào đời
Ðường, mang tên “Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bản Nguyện Công Ðức
kinh”: 1 quyển
c) Bản dịch của Ðại sư Nghĩa Tịnh (635-713) dịch vào
khoảng cuối thế kỷ VII đầu thế kỷ VIII, đời Ðường, mang tên: “Dược Sư
Lưu Ly Quang Thất Phật Bản Nguyện Công Ðức kinh” 1 quyển.
9.2 Kinh Di Lặc Hạ Sinh: Cũng có 3 bản
Hán dịch:
a) Bản dịch của Pháp sư Trúc Pháp Hộ, dịch vào đời
Tây Tấn mang tên: “Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sinh kinh”, 1 quyển.
b) Bản dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập, dịch vào đầu
thế kỷ V, đời hậu Tần, mang tên: “Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sinh Thành
Phật kinh” 1 quyển.
c) Bản dịch của Ðại sư Nghĩa Tịnh, mang tên giống như
bản dịch của ngài La Thập.
9.3
Kinh Duy Ma: Kinh này hiện cũng có 3 bản Hán dịch:
a) Bản dịch của cư sĩ Chi Khiêm, đời Ðông Ngô
(224-280) mang tên: “Phật Thuyết Duy Ma Cật kinh”, 2 quyển.
b) Bản dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập, mang tên: “Duy
Ma Cật Sở Thuyết kinh”, 3 quyển.
c) Bản dịch của Pháp sư Huyền Tráng, nhan đề: “Thuyết
Vô Cấu Xưng kinh”, 6 quyển.
9.4
Kinh Thập Thiện: gọi đủ là kinh Thập Thiện Nghiệp Ðạo, 1
quyển, tập 15, do Ðại sư Thật Xoa Nan Ðà dịch vào cuối thế kỷ VII, đời
Ðường. Ngoài ra, còn có 2 bản Hán dịch khác:
a) Kinh Phật Thuyết Hải Long Vương, 4 quyển.
b) Kinh Phật Vị Sa Già La Long Vương Sở Thuyết Ðại
Thừa, 1 quyển.
9.5
Kinh Kim Quang Minh: Hiện có 3 bản Hán dịch:
a) Bản dịch của Ðại sư Ðàm Vô Sấm (385-433) dịch vào
đầu thế kỷ V, đời Bắc Lương (397-439) mang tên: “Kim Quang Minh kinh”,
4 quyển.
b) Bản của Ðại sư Bảo Quý san định vào cuối thế kỷ
VI, đời Tùy, mang tên: “Hợp Bộ Kim Quang Minh kinh”, 8 quyển.
c) Bản dịch của Ðại sư Nghĩa Tịnh, mang tên: “Kim
Quang Minh Tối Thắng Vương kinh”, 10 quyển.
9.6
Kinh Thắng Man: Kinh này có 2 bản Hán dịch:
a) Bản dịch của Ðại sư Cầu Na Bạt Ðà La (394-468)
dịch vào khoảng 435-443 đời Lưu Tống, mang tên: “Kinh Thắng Man Sư Tử
Hống Nhất Thừa Ðại Phương Tiện Phương Quảng”, 1 quyển (ÐTK/tập 12).
b) Bản dịch của Ðại sư Bồ Ðề Lưu Chi (562-727) dịch,
là hội 48 trong kinh Ðại Bảo Tích, mang tên “Thắng Man Phu Nhân hội”,
1 quyển (ÐTK/tập 11).
9.7
Kinh Lăng Già: Cũng hiện có 3 bản Hán dịch:
a) “Lăng Già A Bạt Ða La Bảo kinh”, 4 quyển,
dịch giả là Ðại sư Cầu Na Bạt Ðà La (394-468) đời Lưu Tống (420-478).
b) “Thập Lăng Già kinh”, 10 quyển, Bản dịch
của Ðại sư Bồ Ðề Lưu Chi (thế kỷ VI) đời Nguyên Ngụy (339-556
c) “Ðại Thừa Nhập Lăng Già kinh”, 7 quyển,
dịch giả là Ðại sư Thật Xoa Nan Ðà, đời Ðường.
9.8
Kinh Giải Thâm Mật: Hiện có 3 bản Hán dịch:
a) “Thâm Mật Giải Thoát kinh”, 5 quyển, 10
phẩm, Bản dịch của Ðại sư Bồ Ðề Lưu Chi.
b) “Phật Thuyết Giải Tiết kinh”, 1 quyển, Bản
dịch của Pháp sư Huyền Tráng đời Trần, (557-588),
c) “Tương Tục Giải Thoát Liễu Nghĩa kinh”, 2
quyển,
9.9
Kinh Vu Lan:
Gọi đủ là kinh Phật Thuyết Vu Lan Bồn, 1
quyển, dịch giả là Pháp sư Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn. Kinh Vu Lan còn
một bản Hán dịch nữa mang tên: “Phật Thuyết Báo Ân Phụng Bồn kinh”,
1 quyển, khuyết danh người dịch.
9.10
Kinh Bát Ðại Nhân Giác: 1 quyển, dịch giả là Ðại sư An Thế
Cao (Hậu Hán).
9.11
Kinh Tứ Thập Nhị Chương: 1 quyển, dịch giả là hai Ðại sư
Ca Diếp Ma Ðằng (?-73) và Trúc Pháp Lan, dịch vào năm 67, đời Hậu Hán,
được xem là bản kinh Hán dịch đầu tiên của Phật giáo Trung Quốc.
9.12
Kinh Hiền Nhân: Bản Hán dịch mang tên “Phật Thuyết Bột
Kinh Sao”, 1 quyển dịch giả là cư sĩ Chi Khiêm.
9.13
Kinh Viên Giác: Gọi đủ là “Ðại Phương Quảng Viên Giác
Tu Ða La Liễu Nghĩa kinh”, 1 quyển, dịch giả là Ðại sư Phật Ðà Ða
La, dịch vào đầu đời Ðường.
9.14
Kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi đủ là: Ðại Phật Ðảnh Như Lai
Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm kinh,
10 quyển, do Ðại sư Bát Thích Mật Ðế dịch vào khoảng đầu thế kỷ VIII đời
Ðường.
10. Mật Giáo bộ:
Mật giáo là giai đoạn phát triển thứ 3 của tư tưởng
Phật giáo Ðại thừa ở Ấn Ðộ.
Ðứng về phương diện tư tưởng, Mật giáo là một phản ứng đối với
khuynh hướng quá thiên trọng về trí thức và nghiên cứu của các hệ thống
Bát nhã và Duy thức.
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực
siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có
thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo! Những kinh điển làm
nền tảng cho Mật giáo là các kinh Ðại Nhật, kinh Kim Cương Ðỉnh.
10.1 Kinh Ðại Nhật: Gọi đủ là “Ðại
Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì kinh”, 7 quyển, 36 phẩm,
do hai Ðại sư Thiện Vô Úy và Nhất Hành dịch vào khoảng năm 716-720, đời
Ðường.
10.2 Kinh Kim Cương Ðỉnh: Kinh này có
3 bản Hán dịch:
a) Bản dịch của Ðại sư Bất Không (705-774) mang tên:
“Kim Cương Ðỉnh Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Ðại Thừa Hiện
Chứng Ðại Giáo Vương kinh”. 3 quyển.
b) Kim Cương Ðỉnh Du Già Trung Lược Xuất Niệm Tụng
kinh. 4 quyển, Bản do Ðại sư Kim Cương Trí (671-741), dịch vào năm
723.
c) “Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp
Ðại Thừa Hiện Chứng Tam Muội Ðại Giáo Vương kinh”. 30 quyển, Bản do
Ðại sư Thi Hộ (thế kỷ X TL) dịch vào khoảng 980, đời Triệu Tống
(960-1279).
VI.
Kết luận:
Đọc kỹ tiến trình tư tưởng Phật giáo Đại thừa, chúng
ta sẽ thấy các vị Thánh đệ tử không vị nào là không muốn diễn đạt cho
thật sự trung thành giáo nghĩa nguyên thủy của Đức Phật. Dầu cho
sự diễn đạt đặt dưới nhiều quan điểm và khía cạnh sai khác, lồng vào
những bối cảnh có thể nói là mâu thuẫn, nhưng chúng ta vẫn
nhận thấy những sóng ngầm đồng nhất.
Trong mắt các vị thầy theo nguyên thủy Phật giáo hay
các học giả đương đại cố gắng trung thành với thánh điển Nikaya mà cho
rằng những gì ngoài ba Tạng Pali là ngụy tạo, thì sự cáo buộc đó hết sức
nguy hiểm, vì tạo thêm hố ngăn cách tư tưởng giữa hai truyền thống từ
mấy ngàn năm qua. Cách nhìn đó không phù hợp với xu thế hiện đại, bởi
phương tiện truyền thông, và những kỹ thuật khoa học ngày nay đã giúp
cho con người vượt mọi ranh giới lãnh thổ và khái niệm.
Ngày nay các nhà học giả Phật giáo phần lớn đều chấp
nhận một số tư tưởng Đại Thừa là những tư tưởng của đạo Phật phát triển
từ giáo lý Nguyên Thủy. Nếu chúng ta chịu khó so sánh bốn tập A Hàm
(Trung Hoa) với các tập Pali Nikaya tương đương, thì chúng ta sẽ thấy có
nhiều đoạn văn A Hàm Trung Hoa lại nguyên thủy hơn các đoạn văn Pali!
Thái độ của một số Phật tử Đại Thừa ngược lại xem
những gì Tiểu Thừa là thiển cận, nhỏ hẹp, không đáng học hỏi cũng là một
thái độ nguy hiểm, nông nổi, nếu không phải là ngây thơ, phản trí thức.
Nguy hiểm vì tự nhiên phủ nhận ba tạng Pali, bốn bộ A Hàm và các luật
tạng, những tinh hoa tốt đẹp nhất và nguyên thủy nhất của lời Phật dạy.
Thay cho lời kết, chúng tôi mượn lời của Hòa Thượng
Tiến sĩ W. Rahula:
“Tôi nghiên cứu đạo Phật Đại Thừa nhiều năm và
càng nghiên cứu tôi càng thấy hầu như không có bất cứ điều gì khác nhau
giữa đạo Phật Nguyên Thủy và đạo Phật Đại Thừa về mặt giáo lý căn bản:
* Cả hai đều chấp nhận Đức Phật Thích Ca là bậc
đạo sư.
* Tứ Thánh Đế cả hai trường phái thì giống nhau.
* Bát chánh đạo cả hai trường phái thì cũng tương
tự.
* Thập Nhị Nhân Duyên cả hai đều tương đương.
* Cả hai đều không chấp nhận tư tưởng về Thượng Đế
tạo ra thế gian này.
* Cả hai đều chấp nhận Tam tướng và Tam vô lậu
học, không có bất kỳ sự khác biệt nào.
* Đây là những giáo lý quan trọng nhất của Đức
Phật và cả hai trường phái đều công nhận”.
Cho nên khi học tập và nghiên cứu, chúng ta cần phải
thoát ra khỏi những tượng đài quá lớn của các học giả có một bề dày
nghiên cứu, nhưng chưa có quá trình tu tập thì cần phải có sự độc lập
trong nhận thức, để tránh tình trạng nô lệ kiến thức. Bởi một con sư tử
được làm bằng vàng thì râu hay đuôi, cũng đều có giá trị như nhau trong
mắt của thợ kim hoàn. Chính vì vậy mà đức Phật từng khuyên chúng sinh: “hãy
tự mình thắp đuốc lên mà đi” Cho nên người ta còn bảo nhau, đạo Phật
là đạo đến để nắm bắt chứ không phải đến để chiêm ngưỡng!
11.11.2009
Sách tham khảo
1.
Đại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, KIMURA TAIKEN Việt dịch:
HT. Thích Quảng Độ Viện Đại Học Vạn Hạnh xuất bản 1969.
2. Nghiên
cứu kinh Lăng Già, Thích Chơn Thiện và Trần Tuấn Mẫn dịch, Ban
Giáo dục Tăng Ni xb, 1992.
3. Kinh
Pháp Hoa, HT.Trí Quang dịch, 1994,
4.
Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê, NXBVH, 1997.
5.
Phật học tinh hoa, Nguyễn Duy Cần, 1997,
6.
Kinh Trường Bộ, Tập 2, HT.Minh Châu dịch, 1991.
7.
Ðại cương triết học Phật giáo, Tưởng Duy Kiều. Thích Ðạo
Quang dịch, 1958.
8.
Các tông phái Phật giáo, Tuệ Sĩ dịch, 1973.
9.
Chư Kinh Tập Yếu, Thích Duy Lực dịch giải, 1997.
10.
Phật học phổ thông, HT.Thiện Hoa biên soạn, khóa 5, 1992.
11.
Phật Quang đại từ điển, 1988.
12.
Lục Ðộ Tập kinh và Lịch sử khởi nguyên dân tộc ta, Lê Mạnh
Thát, Tu thư Ðại học Vạn Hạnh, 1972
13. Kinh
Vu Lan, HT.Trí Quang, 1994.
14.
Kinh Kim Cương, HT. Trí Quang dịch, 1994
15. Ðạo
Phật ngày nay. Trần Tuấn Mẫn dịch, 1997
16.
Ðại cương triết học Đông Phương, Minh Chi; Hà Thúc Minh. 1993
17.
Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim, HT. Thích Trí Quang, 1994.
18.
Việt Nam Phật giáo sử luận I, Nguyễn Lang, 1974
19.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thời kỳ Lý Nam Đế.
Lê Mạnh Thát. Tập 1. Nxb Thuận Hóa 1999.
20.
Nghiên Cứu Phật Học. Biên Khảo Đại Tạng Kinh.
Ðào Nguyên (http://daitangkinhvietnam.org) truy
cập 11.11.2009.
Đại thừa (大乘,
sa. mahāyāna), tức là “cỗ xe lớn”. Tư tưởng của Đại thừa
mong muốn được giải thoát để cứu độ tất cả chúng sinh (sa.
sarvasattva). Hình tượng tiêu biểu của Đại thừa là
Bồ Tát (sa. bodhisattva) với đặc tính vượt trội
là lòng Từ bi. Sau cùng là đạt quả vị chánh đẳng
chánh giác.
Luận Bà Sa, quyển 99, Đại Tạng 27.
1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp,
2/ Tỳ kheo ăn xong,
nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn
hợp pháp,
3/ Tỳ kheo ăn xong,
rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp,
4/ Tỳ kheo ăn xong,
đi sang nơi khác ăn thêm vẫn hợp pháp,
5/ Tỳ kheo dùng sữa
đường hòa lại uống ngoài bữa ăn chính vẫn hợp pháp,
6/ Tỳ kheo uống nước
trái cây lên men tự chế vẫn hợp pháp,
7/ Tỳ kheo tùy ý làm
tọa cụ lớn hoặc nhỏ vừa với mình vẫn hợp pháp,
8/ Tỳ kheo có thể
làm những việc mà lúc còn cư sĩ đã làm vẫn hợp pháp, tất nhiên
có việc có thể làm được và có việc không thể làm được,
9/ Trong một trú xứ
có một nhóm Tỳ kheo làm pháp yết ma riêng, sau đó đến yêu cầu
chúng Tăng chấp nhận pháp yết ma ấy vẫn hợp pháp,
10/ Tỳ kheo có thể
thu nhận và cất giữ vàng bạc, tiền của vẫn hợp pháp.
1. A la
Hán có còn “mộng tinh”
không?
2. A la hán có còn “vô tri”
hay không?
3. A la hán có còn trạng thái “do dự”
không?
4. A la hán có cần “tha
linh nhập”
không?
5. Đạo nhân thinh cố khởi.
Luận Dị
Bộ,
Đại Tạng 49, số: 2031, trang 15b~c.
Click vào đây để download file word