Ngày xưa,
ở miền Đông Nam Á có một vương quốc nọ. Vị vua trị vì vương quốc ấy rất
đặc biệt, ông ta luôn có tham vọng trở thành người giàu nhất thế gian.
Vì vậy dân chúng sống không được hạnh phúc lắm dưới sự cai trị của ông.
Nhưng dù sao cũng còn may mắn vì bên cạnh ông, có một vị cận thần rất
giỏi và nhiều tình thương. Luôn cố vấn cho ông xử lý mọi quyết định cấp
bách cho dân chúng theo hướng hiểu biết và thương yêu. Chính nhờ sự từ
bi và trí tuệ của vị cận thần này mà vua đã tránh được rất nhiều lỗi lầm.
Những lỗi lầm do tham vọng muốn giàu nhất thế gian đem lại. Tuy nhiên,
tham vọng muốn là người giàu nhất thế gian vẫn chưa nguôi. Một hôm vua
họp mặt tất cả những cận thần lại, và hỏi:
-
“Này các
khanh. Các khanh hãy nói cho trẫm biết trong vương quốc này ai là người
giàu nhất.”
Các cận
thần của vua cùng đáp:
-
“Thưa hoàng
thượng! trong vương quốc này, dưới sự trị vì của hoàng thượng, hoàng
thượng là người giàu nhất.”
Vua cảm
thấy rất thỏa mãn khi nghe các cận thận tâu lên như vậy. Nhưng sau đó
vài giây, sắc mặt vua thay đổi. Vua nói:
-
“Nhưng ta
nghe nói, ở làng Tỉnh Thức có một vị khất sĩ, và mọi người đồn rằng,
trên thế gian này không ai giàu bằng vị khất sĩ đó cả.”
Một cận
thần khác của vua, tên Hướng Thượng, bước ra và nói:
-
“Tâu bệ hạ!
vì công việc của quốc gia, hạ thần đã có lần đi ngang qua, và ở lại làng
Tỉnh Thức một tuần, quả thật thần thấy dân trong làng sống với nhau rất
hạnh phúc. Không những vậy họ còn sống hài hòa với muôn thú xung quanh
rừng, đặc biệt là họ không bao giờ ăn thịt của động vật sống trên cạn,
bay trên trời, cũng như động vật sống dưới nước. Thức ăn chính của họ là
rau quả và ngũ cốc. Đời sống của họ thật giản dị thưa bệ hạ…”
Nói
đoạn, viên quan Hướng Thượng im lặng một lúc vì xúc động, rồi ông nói
tiếp:
-
“Tâu bệ hạ,
hạ thần có cơ hội được gặp vị khất sĩ mà bệ hạ vừa nói. Và hạ thần đã vô
cùng xúc động khi nhìn thấy ông ta. Ở ông ta có một cái gì đó đã cuốn
hút hạ thần, đã làm cho hạ thần quy phục và kính nể như hạ thần quy phục
và kính nể bệ hạ vậy. Thưa bệ hạ, khi hạ thần đến đó, hạ thần đã thấy
một khung cảnh, mà đến bây giờ hạ thần còn kinh ngạc và xúc động. Đó là
hình ảnh các trẻ con trong làng chơi với những chú nai con trong sự hồn
nhiên và đầy bình an. Đứa thì ôm bụng nai thọt lét, đứa thì chạy vui đùa
với những chú nai khác, còn đứa thì cỡi lên lưng nai bố đang đứng bên
cạnh… Dường như khoảng cách giữa con người và muôn thú ở đây không còn
nữa. Nhìn cảnh ấy mà nước mắt hạ thần cứ chảy dài. Lúc đó hạ thần có
mong ước là, tất cả người dân trong nước này đều được hưởng cảnh an bình
như vậy.”
Vua đã
rất ngạc nhiên khi biết ở trong nước của người lại có một con người, và
một ngôi làng đặc biệt và kỳ lạ như vậy. Sự hiếu kỳ trong vua trỗi dậy.
Vua nói với quan Hướng Thượng:
-
“Trẫm nghe
khanh nói, mà lòng cũng cảm thấy vui lây, trẫm mừng cho nước nhà đang có
bậc kỳ tài. Bảy ngày tới là ngày trăng tròn, trẫm muốn cùng khanh và tùy
tùng sẽ xuất cung đi tới đó. Trẫm cũng muốn tận mắt chứng kiến thực hư
như thế nào. Và trẫm cũng muốn biết vì sao nhiều người nói vị khất sĩ
kia là bậc giàu có nhất thế gian này.”
Thời
gian mới đó mà đã tới ngày trăng tròn. Vua và viên quan Hướng Thượng
cùng một số cận thần cải trang làm thường dân đi về hướng làng Tỉnh
Thức. Phái đoàn của vua phải qua năm ngọn núi, ba con sông và tám khu
rừng mới đến được làng Tỉnh Thức. Lúc vua đi thì trăng tròn. Khi vua tới
làng Tỉnh Thức thì trăng đã không còn nữa. Bấy giờ là cuối tháng, như
vậy vua và phái đoàn đã đi khoảng mười lăm ngày.
Tới đầu
làng Tỉnh Thức, vua và phái đoàn đã cảm được một năng lượng bình an đến
lạ kỳ. Tiếng động của người, ngựa đã làm cho muôn thú trong rừng ngạc
nhiên ngơ ngác nhìn, nhưng dường như tiếng động đó không làm cho chúng
hoảng sợ. Có lẽ trong khu rừng này chưa hề xảy ra một cuộc đi săn nào.
-
“Thưa bệ hạ,
phía trước chỉ còn hai dặm nữa thôi là đến làng Tỉnh Thức. Viên quan
Hướng Thượng thưa.”
Vua dõi
mắt nhìn về phía trước mà lòng đầy niềm vui, những cảm giác này vua chưa
từng có trước đây. Tự nhiên trong đầu vua có một ý nghĩ rằng, vua sẽ có
được nhiều hơn những gì vua muốn khi vua gặp được vị khất sĩ.
Phía xa
xa, trên cánh đồng cỏ xanh ngát, có sáu đứa bé chơi với nhau, hai bé gái
và bốn bé trai. Chúng độ cỡ sáu tuổi đến tám tuổi. Bên cạnh những đứa
trẻ là bầy nai đang nhai từng lọn cỏ nhỏ, tươi. Những chú nai trông thật
hiền và dễ thương làm sao. Chúng đùa giỡn, cõng lên lưng nhau, đưa mõm
về phía các đứa trẻ, dường như muốn rủ bọn trẻ chơi một trò chơi gì đó.
Hàng trăm chú sáo nâu bay lên, lượn xuống ở cây cổ thụ gần đó như muốn
tham gia vào cuộc vui của bọn trẻ và các chú nai. Đây là lần đầu tiên
vua thấy một cảnh tượng như vậy. Vua cũng có vườn thượng uyển, cũng có
những công chúa và hoàng tử nhỏ, vua đã từng thấy công chúa và hoàng tử
chơi với nhau, nhưng vua chưa bao giờ có được cảm giác bình an và yên
như hôm nay khi nhìn những gì đang diễn ra trước mắt mình.
Vua và
đoàn tùy tùng cùng tiến đến bọn trẻ. Bọn trẻ dường như thấy vua và đoàn
tùy tùng đang đi tới phía mình. Tất cả đều dừng lại cuộc chơi, đứng lên
và khoanh hai tay, lễ phép chào vua và mọi người trong đoàn.
Vua tiến
đến gần và hỏi:
-
“Bác nghe nói
rằng tất cả mọi người dân trong làng đều không ăn thịt cá, chỉ ăn rau
quả và ngủ cốc, có đúng như vậy không ?”
-
“Thưa bác, dạ
phải.” Một bé gái dường như lớn nhất nhóm trả lời.
-
“Vì sao vậy?
có phải ai cấm các con không được ăn không? Hay là nếu như các con ăn
thịt, cá các con sẽ phạm tội.”
-
“Dạ không.
Chúng cháu không ăn là bởi vì chúng đều là bạn của chúng cháu ạ.” Tất cả
bọn trẻ đồng thanh trả lời.
Những
hình ảnh vua nhìn thấy cách đây không lâu khi mới tới làng, dường như là
lời giải thích hùng hồn cho câu trả lời của bọn trẻ. Vua mỉm cười và
tiếp tục đi vào trung tâm làng sau khi vẫy tay chào.
Vua cùng
phái đoàn vào cổng chính của làng, rồi dừng chân lại một quán trọ trong
làng để nghỉ ngơi. Sáng hôm sau vua cùng phái đoàn được mời dùng bữa
sáng chung với gia đình chủ quán. Gia đình chủ quán gồm sáu người - vợ
chồng chủ quán, hai người con, một trai một gái và hai người cùng làm
việc chung. Nhà vua rất đỗi ngạc nhiên khi thấy mọi người trong gia đình
chủ quán im lặng thưởng thức đồ ăn, nhìn nhau, mỉm cười mà không nói một
lời nào. Sau buổi ăn vua tò mò hỏi:
-
“Vì sao tôi
thấy quí vị trong khi ăn không nói lời nào, rất khác với cách sống của
dân làng tôi. Quí vị có thể giải thích cho tôi hiểu lý do được không?”
Người bố
trong gia đình mỉm cười và trả lời với đức vua.
-
“Thưa ông,
với chúng tôi, những người dân sống trong ngôi làng này, điều trân quí
sự có mặt của nhau. Ăn cơm im lặng là cách mà chúng tôi thể hiện niềm
trân quí đó. Cũng nhờ ăn cơm im lặng mà chúng tôi có cơ hội tiếp xúc với
thức ăn một cách sâu sắc hơn. Và vì thế lòng biết ơn của chúng tôi cũng
được nuôi dưỡng và lớn lên sau mỗi buổi ăn.”
Dường
như vua cũng chưa hiểu rõ câu trả lời lắm, nhưng dù sao nó cũng thỏa mãn
cho vua một phần nào. Còn về vị quan Hướng Thượng thì biết tất cả những
truyền thống của làng, nhưng ông đã không nói trước hay giải thích cho
vua bất cứ điều gì, ông muốn vua phải tự mình khám phá từ từ.
Nếp
sống ở làng tỉnh thức thật bình yên và nhẹ nhàng. Vua muốn đi đến bờ
sông cạnh khu rừng, vì sau bữa ăn vua có nghe mọi người trong gia đình
chủ quán nói, hôm nay là ngày những chú khỉ đem trái cây đến cho dân
làng. Khi vua và phái đoàn tới bờ sông, cũng là lúc các chú khỉ đem trái
cây đến. Tiếng khẹc khẹc của đàn khỉ và tiếng cười nói của các thanh
niên thiếu nữ trong làng, những âm thanh đó đã làm cho nhà vua bật cười.
Cảnh tượng thật ngộ nghĩnh. Vua chưa hề thấy bao giờ. Những chú khỉ làm
đủ trò trong khi chuyển trái cây cho những người trẻ trong làng. Chú thì
bỏ những trái táo rừng vào đầy hai má. Chú thì dùng đuôi xâu lại một
tràng trái cây lạ. Thân loại trái cây này có màu hồng vàng, ở giữa có
một khoảng trống nhỏ. Chú thì hai tay ôm nải chuối. Có những chú khỉ
con, thì tay không cầm gì, nhưng lúc nào cũng bám lên lưng khỉ bố hoặc
mẹ… Sau khi truyền trái cây xong, các chú khỉ vui đùa ríu rít với nhau.
Chúng nhảy lên lưng, chúng đu trên vai những thanh niên, thiếu nữ của
làng. Những chú khỉ con vén tóc những người trong làng để bắt những con
rận, hệt như khỉ mẹ đã từng làm cho chúng. Nhìn những cảnh như vậy, vua
không khỏi ngạc nhiên. Trong cung, vua cũng đã từng xem rất nhiều chú
khỉ, chúng rất giỏi. Chúng có khả năng làm xiếc đủ trò. Nhưng vua thấy
trong ánh mắt chúng luôn có một nỗi buồn man mác. Có lẽ là những ánh mắt
mang một nỗi buồn nhớ rừng. Ánh mắt muốn có được sự tự do.
Ngày hôm
sau cũng là ngày vị khất sĩ đi khất thực, vua và đoàn tùy tùng đã chờ vị
khất sĩ ấy ngay gốc cây đa lớn. Cây đa này có thể đã hơn trăm tuổi, gốc
đa có nhiều tua xung quanh, thoạt nhìn trông giống như râu của những ông
tiên trong truyện cổ tích. Cây đa này là nơi nghỉ ngơi và dùng cơm của
vị khất sĩ.
-
“Thưa hoàng
thượng, hoàng thượng có thấy bóng người từ xa đang tiến lại gần không.
Bóng người ấy chính là người mà hoàng thượng đang mong đợi.” Viên quan
Hướng Thượng thưa.
Vua đưa
mắt nhìn về phía trước theo hướng tay của viên quan Hướng Thượng chỉ.
Bóng người ấy cũng dần hiện rõ. Vua chăm chú nhìn một con người nhỏ nhắn
đang tiến dần về phía mình mà không hề có lấy một cái chớp mắt. Từng
bước chân an lạc, từng bước chân thảnh thơi của con người ấy tỏa ra một
năng bình an vô bờ. Vua chưa từng thấy một người nào có dáng vẻ uy nghi
và thanh thản đến như vậy. Bóng người ấy tiến dần đến trước mặt vua nở
một nụ cười hồn hậu. Vua cũng đáp trả lại một nụ cười với lòng cung kính
và ngưỡng mộ mặt dù đây chỉ mới là lần gặp đầu tiên.
Vị khất
sĩ nhẹ nhàng đến bên cạnh gốc cây đa, rồi ngồi xuống trong tư thế vững
chãi nhất để dùng phần ăn của mình. Người ăn một cách chậm rãi, khoan
thai. Vua và đoàn tùy tùng quan sát vị khất sĩ ăn trong im lặng. Bữa ăn
cũng kết thúc, vị khất sĩ nhẹ nhàng đứng lên để chuẩn bị trở về lại tịnh
thất. Nhà vua cũng tranh thủ khi vị khất sĩ đứng lên thì tiến lại gần và
thưa:
-
“Thưa ngài,
có phải ngài là vị khất sĩ mà mọi người vẫn thường đồn là người giàu
nhất thế gian?” Vị khất sĩ chỉ đáp lại nhà vua bằng một nụ cười.
-
“Thú thật với
ngài tôi chính là quốc vương của vương quốc này. Đã từ lâu tôi nghe
tiếng của ngài, mà cho đến hôm nay tôi mới có cơ hội diện kiến. Sau khi
được gặp ngài, tôi thấy quả thật là không uổng công tôi lặn lội muôn dặm
xa đến đây” đức vua tiếp tục nói.
Khi biết
được người đứng trước mặt mình là một quốc vương và những người xung
quanh là những quan cận thần nhưng nét mặt của vị khất sĩ vẫn không hề
thay đổi. Người luôn bình thản và trang nghiêm.
Vị khất
sĩ cất giọng ôn tồn hỏi “thưa quốc vương, chẳng hay ngài đến làng Tỉnh
Thức này có việc gì?”
-
“Chỉ một lí
do đơn giản, tôi muốn tìm hiểu vì sao người ta nói ngài là người giàu
nhất thế gian mặc dù trên người ngài chẳng có một món báu vật nào.”
-
“Vậy theo
hoàng thượng một người như thế nào là người giàu nhất thế gian.”
-
“Người giàu
nhất thế gian là người không có thiếu bất cứ một món báu vật nào cả.”
-
“Thưa hoàng
thượng, khi nào người ta cần, người ta tìm cầu một cái gì đó thì người
đó mới thiếu phải không?”
-
“vâng.”
-
“Một người
không còn tìm cầu bất cứ một điều gì nữa thì người đó có còn cái gì để
mà thiếu nữa không?”
-
“Thưa ngài
không.”
-
“Vậy thưa
hoàng thượng có thể gọi người đó là người giàu nhất thế gian không?
Người mà đối với bản thân mình không thấy thiếu bất cứ một thứ gì?”
-
“Có phải ý
ngài muốn nói người biết đủ, người không còn tham dục với những của cải
trên thế gian này là người giàu không?” Với câu hỏi này của vua vị khất
sĩ chỉ im lặng mỉm cười. Và đức vua cũng hiểu ra rằng vì sao mọi người
nói vị khất sĩ này là người giàu nhất thế gian mà trên người không có
một thứ gì quí giá cả. Điều đức vua khám phá ra là người biết đủ thì
nghèo mà giàu, còn người không biết đủ thì giàu mà vẫn nghèo.
Sau khi
trở về lại hoàng cung hình ảnh an lạc thảnh thơi của vị khất sĩ ở làng
Tỉnh Thức luôn hiện lên trong tâm trí nhà vua. Nhà vua đã ra lệnh đem
phân phát tài sản cho những người dân nghèo trong cả nước. Luôn tham vấn
vị quan Hướng Thượng trước khi quyết định bất cứ một điều gì có liên
quan đến quốc gia. Vua cũng thực tập một đời sống đơn giản. Bây giờ đây
vua cũng cảm thấy mình là người giàu nhất. Cuộc sống của dân chúng nơi
nơi được ấm no. Những kết quả mà vua có được khi thăm vị khất sĩ ở làng
Tỉnh Thức đã hơn những gì vua mong muốn. Trước khi nhà vua bằng hà, nhà
vua đã nói đức vua kế nhiệm con trai mình khắc lên bia mộ vua hàng chữ:
Người Biết Đủ.
Hamburg, 2009
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/ailanguoigiaunhat.htm