Vừa rồi, chúng tôi, những người bạn chí thân từ thời còn đi học ở Việt
Nam trước 1975, rủ nhau qua Canada thăm mấy ông bạn khác. Chúng tôi đến
thành phố Montreal vào mùa hè nên không lạnh lắm. Ở Mỹ hay Canada, nhà
cửa, cách sinh hoạt không khác nhau mấy. Và việc đi thăm bạn bè thì cũng
chẳng có gì đáng kể ra đây nếu không có một câu chuyện, mà nếu bạn nghe
được, chắc cũng sẽ ngạc nhiên, đặt nhiều câu hỏi.
Chuyện hơi dài dòng, xin bạn kiên nhẫn.
Chúng tôi gồm ba cặp vợ chồng, được gia đình người bạn tiếp đón rất thân
tình. Ông ta còn gọi các bạn khác ở gần đó, kéo đến, nên buổi họp mặt
thật đông vui.
Khi bữa cơm gia đình đã mãn, các bà lo dọn dẹp chén bát để pha trà và
các ông đang chuyện trò sôi nổi, thì ông bạn chủ nhà đổi đề tài: “Có một
chuyện thực, xảy ra ở Việt Nam, khoảng năm 1982. Một chuyện kỳ lạ mà bà
chị tôi vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng. Lúc còn ở Việt Nam,
chị tôi dấu kín vì sợ đến tai công an thì sẽ bị tra hỏi, có thể bị tù
cũng nên. Nay chị tôi đến xứ tự do, sẽ kể thoải mái. Trong câu chuyện,
có gì thắc mắc, xin cứ hỏi chị tôi”.
Người chị của chủ nhà, đang ngồi với các bà, được yêu cầu kể chuyện. Chị
ta xin phép vài phút để lên lầu, lát sau đi xuống, tay cầm một phong bì
đặt trước mặt và bắt đầu kể. Mọi người yên lặng, lắng nghe.
-
“Gia đình tôi, sau bảy lăm (1975), chỉ còn đàn bà vì đàn ông đều vô tù
cải tạo hết cả. Khoảng năm tám mươi (1980), chúng tôi được móc nối để
vượt biên nhưng vẫn phải chờ ít nhất một người đàn ông đi tù cải tạo về
mới quyết định được. Năm đó, cậu em tôi được thả về, chúng tôi báo cho
người tổ chức, họ bảo, có một chuyến, phải đi ngay. Từ Sài Gòn chúng tôi
đón xe về Cà Mau dự đám cưới. Đám cưới thật nhưng ăn cưới chỉ là cái cớ.
Dân địa phương thấy người lạ từ Sài Gòn về ăn cưới thì biết ngay, nhưng
rình bắt là công việc của công an. Thế nên, ai cũng chờ đợi màn thứ hai
là khuya nay, công an sẽ phục ở bãi đáp để tóm gọn quí vị quan khách nầy.
Trò nầy xảy ra thường xuyên, nhưng họ không biết rằng vụ vượt biên nầy
lại do chính công an địa phương đứng ra tổ chức, nên tối đó quí vị công
an với các viên chức xã ấp có nhiệm vụ phải nốc rượu cho thật say, để
sáng ra, ai cũng không biết gì cả!
Khuya đó, chúng tôi bị gọi dậy, cấp tốc lên đường. Từ nhà ra biển chỉ
vài cây số. Trời quá tối. Chúng tôi âm thầm theo người trước mặt, đi
vòng vèo trên các con đường đất. Trong bóng đêm tối đen, thỉnh thoảng,
bên đường lại có một toán chui ra nhập bọn, tôi đoán, cả đoàn chúng tôi,
ít ra cũng hơn trăm người. Mặc dù đã được dặn trước là khi xuống thuyền
phải tuyệt đối yên lặng và trật tự, không được chen lấn cãi cọ, nhưng
khi thấy mấy chiếc tắc xi (thuyền nhỏ đưa ra thuyền lớn), người ta ùa
nhau lội xuống nước, tranh nhau leo lên thuyền. Cậu em tôi đi trước, tay
bồng hai đứa con, vợ nó níu lưng đi sau, tôi níu áo cô ta để khỏi lạc
nhau. Chỗ bãi đó toàn sình, ngập đến đầu gối khiến ai nấy bì bõm mãi mà
chưa đến thuyền. Cậu em tôi phải kéo hai người đàn bà chúng tôi phía sau
nên càng vướng víu, chậm chạp. Mọi người như những bóng ma âm thầm, chen
nhau leo lên thuyền.
Khi cậu em tôi bỏ được hai đứa nhỏ lên thuyền, đẩy được vợ nó lên, đến
lượt tôi thì bỗng có tiếng súng, tiếng la hét:
-
“Tất cả đứng yên! Đưa hai tay lên. Ai bỏ chạy sẽ bị bắn bỏ”.
Tôi thấy ánh đèn pin loang loáng cách chỗ chúng tôi vài trăm thước. Chủ
thuyền vội đẩy thuyền ra. Cậu em tôi chỉ kịp níu lấy be thuyền, người
vẫn còn ở dưới nước. Tôi và khoảng vài chục người đành đứng nhìn mấy
chiếc thuyền lẫn vào bóng tối, mờ dần ngoài biển khơi. Lúc đó tiếng súng
và tiếng hô hoán “Đứng yên! Bỏ chạy bắn bỏ” càng như gần hơn khiến mọi
người vội chạy ngược về phía bờ. Như đã dặn trước:
-
“Khi bị bể, phải chạy tránh xa ánh đèn của công an, trốn cho kỹ, chờ vài
hôm, yên tĩnh mới tìm cách ra lộ đón xe về”.
Vậy là mạnh ai nấy chạy. Tôi bương đại lên bờ, chạy ngược hướng tiếng
súng. Vừa chạy vừa run, miệng niệm: “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu
Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát”. Cứ nhắm mắt, nhắm mũi chạy
đại, vấp mô đất hay gốc cây té xuống thì vùng dậy chạy tiếp. Lúc đầu
hình như có người cùng chạy với tôi, quay lại thì không thấy ai cả! Tôi
chạy độ nửa tiếng, thấy đã xa, vừa hoàn hồn thì hai chân rã rời, nhấc
không lên. Tôi ngồi đại xuống đất, thở dốc. Lúc đó khoảng một giờ sáng.
Tôi nhìn quanh. Một bên là biển đen sì, rì rào tiếng sóng, một bên là bờ
rừng, với hàng cây là những khối đen, cao hơn đầu người, trông như những
con ác thú đang chờ mồi. Tôi đoán, có lẽ công an rình bắt một vụ vượt
biên khác, cách chúng tôi vài ba trăm mét, chủ thuyền tưởng bị bể, nên
bỏ chạy, vì thế mọi người mới chạy thoát.
Từ lúc lên xe ở Sài Gòn đến khi về Cà Mau, tôi hoàn toàn không biết mình
đang ở đâu? Bây giờ ngồi bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, chung quanh
tối mù, tôi tự hỏi mình sẽ làm gì, hay phải ngồi như thế nầy cho đến
sáng? Lúc nãy, chạy, người toát mồ hôi, bây giờ, gió biển thổi vào, tôi
lạnh run cầm cập. Tôi thầm ước cho công an đến bắt mình, có người cùng
bị bắt với nhau cũng yên tâm, rồi sau đó muốn ra sao thì ra! Cái xách
nhỏ trên vai tôi vẫn còn. Tôi tìm chai nước lạnh, uống mấy ngụm. Trong
xách chỉ có vài chai nước lạnh, mấy viên thuốc say sóng, mấy hộp sữa
đặc, cái khăn nhỏ, một mớ đô la và vàng cùng quyển kinh Phật. Không hiểu
sao, trong lúc hoảng loạn mà tôi còn giữ được cái xách?
Đang ngồi rầu rĩ, bỗng nhiên, tôi thấy từ xa, có ánh đèn thấp thoáng, có
lẽ là đèn dầu hôi, loại thường thấy ở thôn quê, cách tôi hơn một cây
sốâ. Tôi mừng rỡ, quên cả mệt, đứng lên, nhắm ánh đèn mà đi. Tôi đi như
chạy, té lên, té xuống, mà không thấy đau, cứ nhắm ánh đèn bương tới, vì
sợ người ta tắt đèn thì không biết làm sao tìm đến. Độ nửa giờ sau, tôi
đến nơi. Đó là một nhà lá, cửa mở, một cây đèn bão, (loại đèn để đi
trong gió mà không sợ tắt) đặt trên một chiếc ghế nhỏ, để ngay trước
cửa, nhờ vậy mà từ hướng bên trái ngôi nhà, tôi vẫn thấy được.
Khi đến trước cửa, tôi kêu lên:
-
“Có ai trong nhà không? Cho tôi vào với”.
Có tiếng đàn ông nói lớn:
-
“Vào đi! Đừng sợ!”.
Khi bước vô cửa tôi mới nhận ra là có một người đàn ông đang ngồi hút
thuốc lào, cạnh một cái bàn để giữa nhà. Người đàn ông đứng lên, ra đem
cây đèn bão và chiếc ghế vào. Nghe giọng lơ lớ, với cách dùng chữ, tôi
đoán ông ta là người Bắc giả giọng Nam. Tôi bước vào nhà. Nhà không rộng
lắm nhưng đặt ba nơi ba chiếc giường rộng, có trải chiếu tươm tất. Ông
ta chỉ chiếc ghế:
-
“Ngồi đấy đi!”.
Tôi nói cám ơn, vì áo quần dính sình, không dám ngồi, sợ dơ ghế. Ông ta
bảo, giọng bình thản như việc nầy đã từng xảy ra nhiều lần:
-
“Thế thì đi tắm đi! Tôi có sẵn áo quần của bà xã tôi, thay tạm. Áo quần
bẩn thì giặt đi, phơi ra ngoài gió, sáng mai khô ngay, thay trả lại cho
tôi, rồi tôi sẽ đưa ra bến xe, đón xe về Sài Gòn”.
Nghe nói sáng mai đón xe về Sài Gòn, tôi mừng quính, không ngờ mình may
mắn gặp được cứu tinh. Tôi thấy có cảm tình với người đàn ông tử tế đó,
định nói lời cám ơn, nhưng nhìn thấy hai con mắt của ông ta, tôi rùng
mình khiếp sợ. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, mặt
sạm nắng, hai gò má cao, tóc ngắn, chân tay gân guốc ... nghĩa là ông ta
đúng là một nông dân, chỉ đôi mắt là khủng khiếp. Tuy đèn dầu tù mù
nhưng đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạnh lẽo, vừa uy quyền, tàn
nhẫn vừa như giễu cợt. Tôi sợ quá, cảm tưởng như mình là con chuột đã bị
con mèo chộp được trong móng vuốt nhưng vẫn giữ đấy chờ con mồi chết
khiếp mới từ từ thưởng thức. Thấy tôi đứng bất động vì sợ, ông ta cười,
giọng dịu dàng nhưng vẫn uy quyền, như ra lệnh:
-
“Tôi không hại cô đâu. Cô đừng sợ. Tôi nghe tiếng súng nổ là biết ngay
vượt biên bị bể nên thắp đèn lên để ai chạy thoát thì đến đây tá túc,
sáng mai tôi lấy thuyền đưa ra bến xe về nhà. Tôi đã cứu hàng mấy trăm
người rồi. Ai cũng về nhà an toàn. Đừng sợ. Để tôi lấy áo quần cho cô
thay tạm. Hôm nay vợ tôi ra chợ thăm đứa con gái, sáng mai, tôi đưa đi,
nhân tiện đón vợ tôi về. Đói bụng thì có cơm nguội trong nồi với con cá
khô trong bếp, lấy ra mà ăn”.
Ông ta nói nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng tôi vẫn sợ, răm rắp theo lệnh. Ông ta
vào buồng đem ra một bộ đồ đàn bà màu đen, trao cho tôi rồi thắp một cây
đèn cầy, chỉ lối đi ra sau chái nhà:
-
“Có cái phòng tắm sau kia. Sẵn nước với khăn lau. Tắm xong, mặc tạm, còn
bộ đồ bẩn thì giặt đi, phơi lên, sáng mai khô, mặc vào, trả lại bộ đồ
cho vợ tôi”.
Tôi riu ríu cầm áo quần và cây đèn cầy, ra nhà sau, vào phòng tắm, đóng
cửa lại, gắn cây đèn sáp lên bệ, xây lưng về phía đèn, cởi đồ ra, dội
nước. Tôi làm một cách vô thức, như bị thôi miên bởi cặp mắt của ông ta,
tôi đoán, đang nhìn tôi qua khe hở của vách phòng. Tôi tắm qua loa, mặc
áo quần vào. Còn nửa thùng nước, tôi đổ ra cái thau nhỏ sẵn đó, vò bộ đồ
dính sình rồi treo lên một sợi dây kẽm trong phòng tắm. Khi tôi lên nhà
trên thì ông ta chỉ cái giường, có giăng sẵn mùng:
-
“Cô ngủ trên giường nầy. Tôi ngủ trong phòng. Ngủ đi cho khỏe, đừng sợ
mà thao thức. Mai đi sớm”.
Tôi nói:
-
“Dạ. Cám ơn!” rồi chui vô mùng. Ông ta tắt đèn, đi vào buồng.
Tôi nằm trên giường, mắt mở thao láo, không dám ngủ. Có chiếc mền mỏng,
tôi lấy quấn chặt quanh người rồi nằm lắng nghe, không biết chuyện gì sẽ
xảy ra? Tôi chỉ mong được ông ta tịch thu hết số đô la và vàng tôi mang
theo rồi tha cho tôi về nhà. Tôi cứ lẩm nhẩm niệm Quán Thế Âm, cầu Phật
Bà cứu khổ cứu nạn. Trong đêm tối, tất cả im lặng, chỉ có tiếng sóng
biển rì rầm nghe như tiếng xe chạy rất xa. Bấy giờ tôi mới thấy người rã
rời, vừa mỏi vừa đau ê ẩm khắp nơi, nhất là những chỗ bị mô đất hay gốc
cây đập mạnh vào khi tôi chạy bị ngã. Suy nghĩ miên man, tôi chìm vào
giấc ngủ lúc nào không hay.
Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Vừa xếp mùng, mền xong thì ông ta từ
trong buồng bước ra.
-
“Ngủ có được không?”.
-
“Dạ. Đi mệt quá nên ngủ say một giấc đến sáng”.
Tôi nói mà không dám nhìn ông ta, sợ thấy đôi mắt kinh khiếp đó.
-
“Cô thay đồ rồi chúng ta đi ngay. Tôi chở cô ra bến xe ngoài chợ, họ sẽ
đưa cô lên bến xe tỉnh, đón xe về Sài Gòn. Cô viết vào miếng giấy trên
bàn kia, tên họ địa chỉ của cô. Tôi cần biết về cô để sau nầy dễ xác
nhận”.
Tôi ra sau nhà, thay đồ, đem bộ đồ của vợ ông ta để trên giường, đến chỗ
cái bàn, viết tên họ, địa chỉ vào miếng giấy. Ông ta chỉ cái xách nhỏ
của tôi “Đừng quên cái xách tay”. Tôi thấy quyển kinh của tôi để ra
ngoài nhưng không dám lấy bỏ vào xách, mà làm như không thấy, chỉ vơ vội
cái xách, cầm đi theo ông ta. Ra ngoài sân, tôi mới biết, trước nhà là
một con sông rất rộng, có lẽ là cửa sông, còn biển thì nằm bên trái căn
nhà, cách một cây số. Nhà ông ta nằm giữa một vùng hoàn toàn hoang vắng,
chung quanh là sình lầy với cây đước, vẹt, sú gì đó mọc mênh mông, chạy
đến mút mắt. Tôi không hiểu vì sao vợ chồng ông ta lại đem nhau ra ở chỗ
nầy? Không ruộng vườn, không thuyền bè đánh cá, không có người chung
quanh, ngay đến con chim cũng không thấy bay qua. Có chăng là mấy con
cua còng gì đó nằm trên mặt sình dương mắt nhìn tôi. Con đường từ nhà ra
bến sông được đắp cao, có lẽ là lối duy nhất đưa ông ta ra chiếc thuyền,
đến với xã hội loài người.
Ông ta xuống thuyền, tôi bước theo. Nhờ mấy miếng bê tông làm thành tam
cấp nên tôi xuống thuyền không khó khăn lắm. Chiếc thuyền nhỏ, dài
khoảng sáu, bảy mét, rộng hơn hai mét, gắn máy đuôi tôm. Ông ta tháo dây
cột thuyền, giật máy, đưa thuyền ra giữa giòng sông.
Chiếc thuyền chạy giữa hai bờ rừng vắng vẻ, hoang vu. Một lúc thật lâu
thì xa xa thấp thoáng mấy mái nhà sau hàng dừa nước, rồi vài chiếc
thuyền xuất hiện, chạy ngược chiều. Thuyền ghé vào một bến đò, có nhà
cửa, quán ăn, một chợ thôn quê nhỏ và một bến xe lam (xe Lambretta, ba
bánh dùng chở khách). Ông ta cột chuyền, ra dấu cho tôi cùng lên bờ. Mọi
người thấy ông ta thì cúi đầu chào vẻ kính cẩn và sợ hãi. Ông ta không
thèm nhìn ai, đi thẳng đến chiếc xe lam, nói gì đấy với người chủ xe.
Người chủ xe khúm núm gật đầu, miệng dạ nhịp, rồi đến nói với tôi:
-
“Mời cô lên xe. Xe chạy ngay bây giờ”.
Ông ân nhân không để ý đến lời cám ơn của tôi, cũng không nói với ai
tiếng nào, xuống thuyền, giật máy, quay thuyền ra giữa giòng. Khi ngồi
trong xe lam, tôi thấy mọi người đang tò mò nhìn tôi với vẻ sợ hãi rồi
thì thầm với nhau gì đấy. Ông xe lam nổ máy, chở một mình tôi, vòng vèo
trên đường đất trong xóm rồi đưa xe ra đường lớn, chạy vào thành phố.
Ông ta chạy thẳng đến bến xe khách, ngừng cạnh một xe đầy khách, mời tôi
xuống, đưa tôi đến ông tài xế, thì thầm với ông ta. Ông tài xế mời tôi
lên ngồi ghế trước. Tôi lục trong xách nhỏ, thấy gói đô la và vàng còn
nguyên, lấy ra một mớ tiền Việt đưa trả cho hai người, nhưng ai cũng
khoát tay.
-
“Anh Năm dặn rõ là ảnh sẽ trả tiền xe cho cô, chúng tôi đâu dám nhận”.
Chiều hôm đó, tôi về đến nhà.
Khoảng một tháng sau, người tổ chức đến gặp tôi, báo tin là mọi người
đến đảo an toàn, thân nhân sẽ gửi thư sau. Ông ta hỏi tôi rất tỉ mỉ về
vụ những người không kịp lên thuyền, tôi kể lại sự việc. Ông ta bảo
những người kẹt lại đã bị công an bắt, chỉ thiếu hai gia đình, gồm bốn
người, không có tin tức. Hai gia đình nầy thì tôi biết, họ là thương gia
xuất nhập cảng trước bảy lăm, rất giàu. Trước khi đi, họ đã bán nhà, vì
tin chắc sẽ đi lọt, như vậy, họ ôm của cải theo (vàng và đô la), phải
nhiều lắm.
Chuyến vượt biển lần đó khiến tôi sợ quá, không dám nghĩ đến, ai rủ đi
cũng lắc đầu.
Khoảng một năm sau, tôi nhận được một lá thư, tên người gửi lạ hoắc. Tôi
hoàn toàn không biết ai đã gửi đến.
Chị ta cầm lá thư đưa lên “Mấy năm sau, chồng tôi đi tù về. Chúng tôi
qua Mỹ theo diện HO. Vợ chồng tôi qua Canada ở chơi với gia đình cậu em.
Gần mười năm mà tôi vẫn còn giữ lá thư nầy. Để tôi đọc cho quí vị nghe:
-
“Gửi bà H. (là tên tôi). Bà còn nhớ, lần vượt biển ở Cà Mau, bị bể và bà
được tôi cho trọ qua đêm, hôm sau đưa ra bến xe, về thành phố Hồ Chí
Minh. Tôi biết bà thắc mắc. Tôi là ai? Tại sao lại ở nơi vắng vẻ? Tôi
sinh sống bằng cách nào?
Tôi cho bà rõ. Tôi là công an, có nhiệm vụ ở đó để đón lỏng những người
vượt biên bị bể chạy thoát được. Công an chúng tôi làm nhà cách nhau một
vài cây số, dọc bờ biển, nơi thường có bến bãi vượt biên, có thuyền con
đón ra thuyền lớn. Như vậy, khi công an đến bắt vượt biên, người nào
chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy, thấy đèn là tìm đến, thế là nộp
mạng cho chúng tôi. Tôi bảo rằng có vợ ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi
đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đã được bốn năm, khi nào ổn định
sẽ đưa gia đình vào thành phố Hồ Chí Minh, vì chẳng ai có thể ở nơi
hoang vắng nầy.
Mỗi công an chúng tôi đã chuẩn bị sẵn các tiện nghi, nước nôi, lương
thực, giường chiếu để đón những người vượt biên tìm đến nhờ cứu giúp.
Tôi cho ăn uống, ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói là chở
ra bến xe để họ về nhà, nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị
công an chận bắt. Tôi cũng bị bắt để không ai nghi ngờ.
Thông thường, nếu nhiều người tìm đến thì tôi bảo họ, có gì đem theo nên
kê rõ, nhất là tiền bạc, quí kim, để tránh chuyện lấy cắp của nhau. Nếu
chỉ một người thì tôi chờ lúc người đó đi tắm sẽ lục xách tay, kiểm tra
những gì đem theo. Tôi còn rình nhìn lúc họ đi tắm, cởi đồ ra, sẽ thấy
những gì họ lận theo người?
Tôi không bao giờ lấy của ai bất cứ gì, nên khi giải giao họ (đưa lên
thuyền để bị công an chận bắt), công an chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy
rằng tôi rất trong sạch. Tôi từng được công an tỉnh và trung ương biểu
dương nhiều lần về thành tích chận bắt người vượt biên cũng như tinh
thần chí công vô tư, không tơ hào đến của cải, vật chất của người bị
bắt. Nhưng không ai biết rằng, hễ người nào đem nhiều đô la, vàng ngọc,
hột xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng. Tôi đào sẵn những cái hố,
muốn giết ai, khuya đó, tôi lận súng trong người, bảo họ đi theo tôi để
tôi chỉ đường mà đi ra đường chính đón xe về. Vào rừng, tôi bắn chết,
đạp xuống hố, hôm sau ra lấp đất lại. Không người nào thoát khỏi tay
tôi, vì chung quanh toàn sình lầy, có bỏ chạy một quãng là ngập người
dưới sình, tôi chỉ rọi đèn pin, đi tìm và bắn họ rất dễ dàng.
Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh
hoàng chứ chẳng ích lợi gì. Tất cả của cải cướp được, tôi đưa cho vợ tôi
đem về quê chôn giấu. Hột xoàn, đô la, vàng ngọc, châu báu ... Nghĩa là
vợ chồng tôi rất giàu. Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những công ty, mua
máy móc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội hay
thành phố Hồ Chí Minh cũng không hết của. Dĩ nhiên gia đình tôi ngoài
Bắc vẫn sống đạm bạc như bao nhiêu người khác, để tránh bị nghi ngờ.
Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm, kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra
khỏi ngành.
Tính ra, tôi ở đó đã được bốn năm, cho đến cái đêm bà tìm đến nạp mạng
cho tôi.
Như mọi khi, lúc bà đi tắm, tôi rình xem bà cởi đồ (để biết của cải lận
theo người) rồi lên kiểm tra xách tay của bà. Tôi thấy trong xách có
nhiều vàng và đô la. Như vậy, số phận của bà đã được tôi quyết định. Bà
sẽ bị tôi thủ tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một quyển
kinh, khổ lớn hơn những quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác
thường đem theo. Quyển kinh lớn đó khiến tôi tò mò. Theo thông lệ, tất
cả kinh Phật của những người vượt biên, tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh,
tôi tặng cho người bạn đang trụ trì một ngôi chùa lớn, gần chợ. Anh ta
là công an, đi tu là công tác, vẫn lãnh lương công an. Tôi tặng các
quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ chùa mà “thỉnh” những kinh đó thì
biết ngay, người đó sẽ vượt biên và chúng tôi theo dõi. Vì tò mò và vì
nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ đọc. Tôi
đọc một cách tình cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh. Chỉ một câu
thôi. Câu duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người vì kinh sợ. Tôi sợ đến
choáng váng, muốn té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối
đó, tôi không ngủ được .
Hiện nay tôi đã ra khỏi ngành công an. Tôi đã đi tu ở một vùng núi miền
Tây Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ
được cất bên góc núi. Rất xa, dưới chân núi, cách nơi tôi ở, thấp thoáng
những nhà sàn của những người thuộc sắc tộc thiểu số. Mỗi buổi sáng, tôi
lạy Phật, tụng kinh, rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn, rau quả.
Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ tôi
là tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng
lên tiếp tế lương thực mà thôi. Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang
giữ), tôi dặn, nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai bão lụt thì
đem cứu giúp người hoạn nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các
người già lão, bịnh tật, không nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các
trại cùi hủi ...
Tôi viết để bà rõ, nay tôi đã chọn con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất
trên thế gian, nhưng còn các con tôi? Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi
lo sợ cho chúng ...
Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho
tôi sớm tìm được con đường giải thoát.
Chúc bà sức khỏe.”.
Chị đàn bà giơ lá thư lên và nói:
-
“Thư chỉ viết thế thôi”.
Chúng tôi hỏi:
-
“Chị có nhớ mình mang theo quyển kinh Phật tên gì không?”.
-
“Đúng ra, lúc nào tôi cũng để sẵn quyển kinh “Quán Thế Âm Bồ Tát” trên
bàn thờ, hễ hô “đi!” là tôi chỉ việc bỏ vô xách tay và lên đường. Hôm
đó, cô em dâu tôi đây, lại lấy quyển kinh đó trước, tôi vội quá, mở tủ
kinh Phật của ba tôi để gần đó, vơ đại một quyển, nghĩ rằng “Phật nào
cũng là Phật, vị nào cũng phù hộ, độ trì cho chúng sinh tai qua nạn
khỏi”. Ba tôi, khi còn sinh thời, tu tại gia, nghiên cứu kinh Phật.
Ngoài chữ Việt, ông cụ còn biết chữ Hán, chữ Nôm nên thỉnh rất nhiều
kinh về nghiên cứu. Thế nên, đến bây giờ tôi cũng không biết mình đã
mang theo quyển kinh nào khi vượt biên. Điều tôi tin chắc rằng. Chính
quyển kinh đó đã cứu mạng tôi và câu kinh trong đó, như một lời phán của
Đức Phật hoặc đấng Hộ Pháp, bảo thẳng với kẻ ác hãy ngừng tay lại. Lời
phán đó phải có uy lực mạnh mẽ đến nỗi một kẻ giết người phải khiếp
đảm”.
Trong bọn chúng tôi, chẳng ai là đệ tử nhà Phật mặc dầu, thỉnh thoảng có
đi chùa lạy Phật, tụng kinh trong những ngày lễ, tết. Chúng tôi hỏi nhau
rồi phán đoán đủ thứ. Câu “buông đao thành Phật” quá tầm thường, chẳng
làm ai động tâm. Muốn biết bí mật của câu kinh đó, chỉ còn cách đi hỏi
các nhà sư thì họa may.
Vì bị câu chuyện trên ám ảnh, nên trên đường từ Canada về lại miền Đông
Bắc nước Mỹ, chúng tôi quyết định, ghé vào một ngôi chùa của sư PT để
thăm và hỏi cho ra lẽ. Sư trạc tuổi chúng tôi, là chỗ quen biết nên rất
thân tình. Sư PT xuất gia từ lúc mười một tuổi tại chùa Diệu Đế ở Huế.
Vượt biên qua Mỹ, sư học và tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Tuy còn trẻ,
nhưng sư PT thông hiểu Phật pháp và có một cuộc sống rất đạo hạnh.
Trưa hôm đó, chúng tôi được sư khoản đãi cơm chay. Trong lúc thọ trai,
chúng tôi kể lại câu chuyện trên cho sư nghe và hỏi sư có biết câu kinh
nào đã khiến một người vô thần phải buông đao giết người và đi tu không?
Nhà sư suy nghĩ một lúc và nói:
-
“Nếu lý luận theo Phật pháp thuần túy ở đây thì không thích hợp với một
người cộng sản. Họ đã được dạy căm thù và được huấn luyện cách giết
người, nên dù có cả một bầy quỉ dữ từ địa ngục chui lên, hay hàng nghìn
Đức Phật hiện ra thuyết pháp, chưa chắc ông công an nầy phải sợ mà ngưng
tay. Ông ta chẳng thù hận gì những người vượt biên, nhưng giết họ để
cướp của, ông ta làm thản nhiên như người đồ tể giết heo, giết bò. Mục
đích là để có nhiều tiền của cho con cái được sung sướng. Cán bộ cộng
sản thường bảo nhau:
-
“Hi sinh đời bố, cũng cố đời con” là thế. Kinh Phật chỉ nói về cái
nghiệp và cái quả. Ai làm nấy chịu. Nhưng người Việt mình lại có câu
“Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Cha mẹ thương con cháu thì ăn ở
nhân đức, để phước cho chúng. Con cháu, nhớ ơn đó mà thờ phụng các vị
một cách thành tâm. Đó là “Đạo Thờ Ông Bà”. Ông công an cộng sản nầy thì
làm ngược lại, nên ông ta bị ám ảnh bởi việc ác của mình, “quả báo nhãn
tiền”, con cháu sẽ lãnh đủ. Có thể, con cái ông ta bị đâm chém hay bị
giết chóc sao đó, khiến ông ta nghĩ rằng “Mình giết người ta thì con
mình bị người ta giết” nên ông ta sợ. “Nhưng Phật đâu có dạy về chuyện
quả báo cho đời con cháu mà ông ta, khi đọc một câu nào đó trong kinh
Phật lại sợ hãi đến nỗi phải bỏ nghề, đi tu?”.
“Đa số những người vượt biên đều đem theo người là kinh A Di Đà hoặc
Bạch Y Thần Chú, coi như có Thần Phật hộ trì bên cạnh. Khi gặp chuyện
hiểm nguy thì niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm
Bồ Tát” chỉ đọc tới đọc lui câu đó thôi, coi như tiếng kêu cứu, các vị
Bồ Tát sẽ ra tay tế độ, giúp cho tai qua nạn khỏi. Những quyển kinh mà
ông ta tịch thu, không nhất thiết đều giống nhau. Có thể người đàn bà
kia đã mang một quyển kinh khác. Hơn nữa ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ,
không có gì giải trí ngoài việc đọc các quyển kinh Phật, quả thật, ông
ta đang bước về hướng của giải thoát. Chính cái ý niệm muốn giải thoát
khiến ông ta bỏ nghề, và câu kinh Phật kia chỉ như vật xúc tác, như cái
nút điện mà ông ta đang mò mẫm trong bóng tối, đã bật sáng, cho ông ta
thấy được con đường phải đi. Mỗi người là Phật chưa thành là vậy. Con
người dù độc ác, mê muội đến đâu, cũng còn le lói một chút ánh sáng của
lương tri. Đúng ra, phải gọi ông ta là “ông đạo” chứ không phải là “ông
sư”. Vì ngoài việc nghiên cứu, tụng niệm kinh Phật, sư, sãi phải có thầy
giảng giải, hướng dẫn trên đường tu tập. “Giả dụ như ông công an đó đến
xin thọ giáo với thầy. Thầy sẽ giảng những gì cho một người vô thần như
ông ta hiểu về Phật pháp?”.
Nhà sư cười:
-
“Thoát được “tham, sân, si” là tự giải thoát rồi.
Chính tôi phải học ông ta, làm cách nào đã bỏ được chữ “tham”? Chữ
“tham” đơn giản, thường tình thôi, không cần phải triết lý xa vời. Tiền
của vô tay dồi dào, dễ dàng như vậy mà lại bỏ hết, mấy ai làm được?
Còn hai chữ “sân, si”, bản thân tôi như đang nằm trong cái rọ, không
biết bao giờ mới thoát ra! Ông ta là thầy tôi mới đúng”.
-
“Thầy có thể đoán được câu kinh nào nằm trong quyển kinh nào, đã khiến
ông ta phải sợ mà đi tu không?”.
Nhà sư lắc đầu:
-
“Chỉ riêng ông ta biết được mà thôi. Có thể chỉ một câu tình cờ, bình
thường nào đó ông ta đọc được nhưng giải thích đúng những băn khoăn,
thắc mắc, sợ hãi bấy lâu của ông ta, nó đánh động lương tâm ông ta,
hướng dẫn ông ta tìm con đường giải thoát. Xưa kia, lục tổ Huệ năng chỉ
nghe một câu trong kinh Kim Cang liền ngộ được đạo”.
-
“Nhưng nhất định phải có một câu kinh nào đó. Thầy thử nhớ xem sao?”.
Nhà sư lắc đầu:
-
“Bị hỏi thình lình, tôi không nhớ ra ngay. Hay là thế nầy. Bây giờ mời
quí vị ra vườn sau chùa uống trà, ngắm hoa. Tôi xin được ít phút tập
trung tư tưởng, họa may sẽ nhớ được điều gì chăng? Mục đích không phải
tìm hiểu mà chỉ như trò chuyện cho vui vậy thôi. Tôi không đủ trình độ
để giải thích câu chuyện kỳ lạ nầy”.
Nhà sư lên chánh điện. Chúng tôi ra sau chùa, vừa chuyện trò vừa lang
thang ngắm hoa cảnh.
Có tiếng chuông ngân vang từ chánh điện, rồi tất cả yên lặng. Có lẽ nhà
sư đang lễ Phật và trầm tư ...
Độ một giờ sau, nhà sư xuất hiện ở ngưỡng cửa với nụ cười. Sư tiến đến,
ngồi xuống với chúng tôi ở một bàn nhỏ dưới gốc cây. Chúng tôi vội hỏi:
-
“Tìm được câu kinh nào chưa thầy?”.
Sư lắc đầu và cười:
-
“Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải đi tu cả!
Để nói về cái nghiệp báo thì kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng tôi
chỉ nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong
kinh Đề Bà Đạt Ma (Devadata-suta) có câu:
-
“Những việc ác mà ngươi đã phạm, không phải là tại cha ngươi, không phải
tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi. Chính một mình ngươi đã
phạm, và một mình ngươi phải chịu quả báo”.
Trong kinh Pháp Cú (Damma-pada) cũng có câu:
-
“Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm,
không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm về tội ác của ngươi”...
Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối.)
-
“Rất tiếc, vì sự vô minh của tôi mà câu kinh đó vẫn còn là một bí ẩn.
Xin lỗi đã làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự thống hối của ông ta
quá thành khẩn, đã cảm động đến đức Phật, và Ngài đã ra tay tế độ, đã
khai ngộ cho ông ta.
Nhưng phải là người thật thành khẩn thì đức Phật mới làm được việc đó”.
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/bimatmotcauniemPhat.htm