Khởi đầu là những vần thơ. Những vần thơ nói về tình
người, về cuộc canh tân của một người nào đó, gốc nông dân biết chữ viết
nên. Sau đó là các cuộc viếng thăm bè bạn của đôi vợ chồng Mi Thân, họ
gặp nhau gần như hàng tuần sau những giờ dạy nhọc mệt ở một ngôi trường
xa mười km, đi xe đạp.
Khởi đầu là Ngôi Lời…Điều cần nói ra được nói ra nhiều trong
những cuộc gặp mặt thân tình, họ nói về chuyện dạy học, về những vần thơ
của một người nông dân. Về những giấc mơ trong tiềm thức, những ước mơ
không biết khi nào trở thành hiện thực. Cuộc canh tân do một người tên
là Tiền Duyên nào đó, nằm mơ hay được khải thị cũng vậy, viết khá rõ
ràng trong những tập thơ anh ta để sau bàn thờ. Những tập thơ lên đến
con số mười lăm? Hai mươi?, nét chữ khá đẹp. Mì chưa hề đọc lần nào, chỉ
nghe bác sĩ Phùng nhắc đến luôn đầu cửa miệng. Ông nói ông đi chơi tình
cờ gặp, rồi cơ duyên đưa ông đến nhà ông ta và đọc được những vần thơ.
Cho đến ngày, Dư, một người cháu họ của Thân, không hiểu trong những năm
qua làm những gì và ở đâu, một ngày giáp Tết bỗng như một sự tình cờ,
đến thăm Thân.
Làm như không có Dư thì không có cái khởi đầu ấy, nhưng anh
ta chính là cái khởi đầu đầy hư lẫn thực đó. Dạo ấy, giáo viên đến
trường bằng xe đạp, chỉ một số ít còn giữ lại chiếc Honda. Vợ chồng Mì
Thân cũng không thoát khỏi thông lệ. Họ dạy hai trường khác nhau, một
người gần núi, một kẻ đi về phía biển. Vậy mà cơ duyên nào lại đưa họ
gặp nhau một, gặp nhau chỉ một lần rồi sau đó… Lấy nhau rồi mới khám phá
nhiều điểm khác biệt và tương đồng.
Dư đến chơi khu vườn của họ thường xuyên, đến chơi rồi ở lại
làm phụ một số việc trong vườn, như cắm chói đậu, làm đất trồng rau, một
số việc mà do bận rộn hai vợ chồng không làm nổi. Hai đứa trẻ nhớ anh Dư
thích ăn ớt cay, kể chuyện có duyên, chúng cứ ngẩn người ra nghe rồi
cười khanh khách. Đó là những buổi ba anh em( Dư và hai đứa nhỏ con của
Mì ) ngồi ngoài hiên sau buổi cơm chiều. Sau những gìơ lao động nhọc mệt,
Thân còn ở dưới trường chưa lên, Mì nấu cho Dư ăn những bữa cơm có rau
đậu có cá. Mì hỏi Dư sao hay nói đến cuộc canh tân. Dư vừa và cơm vào
miệng vừa đáp, mợ không tin rồi sẽ tin. Khởi đầu là Ngôi Lời trong Kinh
Thánh, còn bên mình không nói đến Ngôi Lời mà là Giếng Trời. Cái gì? Hai
con bé, một lên ba, một lên sáu tuổi tròn mắt. Mì cười, ngạc nhiên nhưng
không hỏi thêm. Dư thường có lối nói chuyện như vậy, cũng như những vần
thơ của anh. Có bài hay, có bài thực tế. Trong nhiều lần gặp gỡ, nói
chuyện, Thân và Dư khá tương đắc, tuồng như cuộc canh tân đất nước và
con người đã có trước mặt. Tuy nhiên nỗi băn khoăn khắc khoải trong lòng
Mì nằm ở chỗ khác, chỉ mình Mì biết. Dư chính là Tiền Duyên, mấy năm sau
họ mới biết khi về nhà Dư thấy sau nhà thờ một chồng thơ. Chữ Dư viết
đẹp, rõ nét. Nội dung những tập thơ Mi không nhớ hết, chỉ nhớ các bài
nói về cách xử thế, về đạo hiếu ở đời, về đạo làm người. Những năm tháng
ấy qua đi, hai con nhỏ của họ vốn thích ngồi nghe anh Dư kể chuyện rồi
cười như nắc nẻ, chưa kịp lớn lên và trưởng thành, thì Dư qua đời. Anh
ta chết đột ngột vì chứng đột phá cơ tim.
Năm tháng qua đi, hai bé con họ lớn dần lên, những
nỗi cơ cực bớt dần…Cái khoảng trống còn để lại sau khi Dư mất. Thời
gian. Những vần thơ họ đã đọc và một thời yêu mến nằm trong xó tủ. Cuộc
sống cứ thế tiếp tục, khi về hưu thời giờ rảnh nhiều hơn, Thân làm vườn
như một thú vui, thỉnh thoảng nhớ đến Dư với những vần thơ.
Con người vốn hay quên, tuồng như thời gian làm phôi
pha lần những kỉ niệm.
Chỉ có vợ chồng Mì vẫn nhớ đến Dư, tuy không phải lúc
nào cũng nhớ song tập thơ họ chép tay, chép lại những bài tâm đắc nhất
của Dư là kỉ niệm bất tử. Dư nói, rồi một ngày kia cô sẽ nhìn thấy giếng
trời. Để làm gì chứ? Gặp rồi biết thôi mà. Dư đáp.
Lời nói như điềm báo thế mà cũng hơn hai chục năm sau.
2. Hẹn nhau hàng chục lần mới đi được. Cho đến khi
đến được bến đò Tuần, trời tối sầm, mây đen nghịt. Họ vào cái quán trên
bến sông ngồi nghỉ chờ cơn mưa dứt. Mưa không dứt mà còn trút xuống dữ
hơn, bầu trời thấp hẳn xuống. Lạnh và co ro Mì mở túi xách lấy trái cây
bày lên bàn mời mọi người cùng ăn. Nhìn giòng sông mờ mờ cuộn sóng trong
mưa Mì thở dài. Mì nói có một lần đau nặng Mì cầu Phật và thấy Phật bà
hiện ra trong giấc mơ. Thầy Nguyên Thanh lạc quan:
-
Rứa là chị có căn tu đó.
Rồi cuối cùng, như lời nguyện - mưa tạnh. Mưa tạnh
vừa lúc Trúc Huệ chèo thuyền đến. Cái tên mãi khi xuống thuyền Mì mới
biết. Họ gây ấn tượng nơi Mì và mọi người ngay cái nhìn đầu tiên. Hai
người có cái tên thanh nhã ấy lại làm nghề sông nước. Trúc mặc bà ba
trắng, tóc để xõa đen mượt, nét mặt thanh tú. Huệ có dáng học sinh.
Nguyên Thông hỏi chùa ở mô. Trúc cười chỉ Nguyên Thanh đáp, thầy ni đi
rồi tề, xa lắm thầy à, quá đụn cát mới đến. Huệ còn hồn nhiên cười, lên
đây mà hỏi chùa hiếm lắm. Không mấy ai đi, xa quá. Chỉ riêng miền này
thôi( còn trên Huế thì khác. Chùa trên núi mà gần, đi Honda cũng tới, xe
đạp cũng tới.) Chùa ni nằm gần thượng nguồn nên ít người biết và không
phải ai cũng muốn đi cho biết. Đò chạy. Dọc đường, thấy đò ngược chiều
Nguyên Thông lại khum hai tay lại hét:” Chùa? Chùa?” Hụê cười còn Trúc
chỉ long lanh cặp mắt im lặng. Trời hửng nắng, cái nắng sau cơn mưa khá
rực rỡ. Dầu vậy Mì không bớt lạnh, gọi con gái lấy áo mưa ra mặc. Chị
lạnh à? Nguyên Thông hỏi. Vâng, Mì đáp. Hai bên bờ sông cây cối mọc um
tùm. Trúc tre không thiếu. Càng lên ngược giòng nước càng trong. Không
phải lần đầu Mì lên Lương Miêu. Đã đi qua một lần rồi. Đã chứng kiến
cảnh hoành tráng giữa hai nhánh sông vào chánh ngọ, con nước chảy cuốn
xoáy không ngừng; một cảnh đẹp huy hoàng giữa trời nước bao la. Bây giờ
cảm xúc ấy còn nguyên khi đi trở lại lần nữa. Đò không cập bến mà neo
gần bờ. Từ đó nhìn lên đã thấy doi đất dài trước khi đi thẳng lên núi.
-
Nhảy xuống, đò không vào được vì bến cạn. Nguyên Thanh nhắc. Trúc
nói:
-
Thầy cô xuống, hồi về em đợi ở đây nhé.
Mọi người đi lên doi đất, bước qua một cái cầu khỉ.
Ai cũng lội nước, chỉ Mì và Châu đi trên chiếc cầu ván lắc lư. Chiếc cầu
ngắn củn. Tiếp đó họ từng bước lên một dốc đựng có vạch từng nấc nhỏ
vừa đủ đặt bước chân. Hết cái thang dốc đựng là một bụi tre lớn. Từ đó
đi bộ một quãng ngắn nữa mới đến cổng tam quan chùa. Thông cho biết
trước đây là chùa Định Huệ do hòa thượng Mật Hiển và sư bà Diệu Không
khai sơn. Ai nấy thở phào. Chặng đường vào đầy sỏi đá, cây kiểng rất ít.
Ngôi chùa trước mặt đang xây dở, kiến trúc đơn giản. Một ni cô từ bên
trong bước ra tươi cười đón họ. Ni trưởng có vẻ quen mặt Nguyên Thanh.
-
Ồ, thầy lên chơi à.
-
Dạ, bữa ni mới rảnh lên được.
-
Chùa đang xây, mời quý thầy cô vào.
Ngôi chùa đặt móng trên một khuôn đất vuông vức khá
cao. Đi qua một chặng đường sông nước, đến một nơi hoang vắng, yên tĩnh
lạ lùng, sự yên lặng vô cùng khiến người ta tự hỏi làm sao Trúc Huệ có
thể chèo chống đến một cõi mênh mông nước và bao la trời thế này được.
Chừng như cô hiểu ý họ.
-
Chùa ni xa lắm nên ít có đạo tràng. Phật tử có người tới mà ít
thôi. Mỗi lần họ đi mất một ngày trời.
-
Thế mà xây được chùa, thầy Nguyên Thanh thốt lên.
-
Cũng nhờ mấy Phật tử, có khi là đạo tràng ở dưới đóng góp, chớ
quỹ tiền trên ni không là bao.
Đáp lại cái nhìn dò hỏi của Mì, sư trưởng tiếp:
-
Mỗi tháng nhà đò ghé đây một lần để chùa gởi mua lương thực.
Quanh đây tòan là sông, núi và rừng chứ có chợ mô.
Mọi người nhìn ni trưởng. Giọng nói diễn tả nội tâm
nhiều hơn khuôn mặt. Đôi mắt ánh lên vẻ mừng rỡ cho thấy một tâm hồn
bình dị chấc phác. Có vẻ chi thuần khiết trên khuôn mặt đó – nét thuần
khiết tự nhiên khiến ai nấy ngạc nhiên thầm.
-
Phật tử quanh đây hiếm lắm, chỗ ni thanh tịnh quen rồi.
-
Thế làm sao mà sư…Thành thận trọng, mùa đông lương thực thế nào?
-
Cũng có thiếu chút đỉnh, nhà đò mùa đông ít tới.
Nguyên Thanh cười- Nói chi nữa! Mùa mưa bão sợ lật
đò, ai mà lên đây.
Được một lát ni trưởng đề nghị:
- Ta đi thăm vườn trời đi.
Vượt qua một đọan đường vườn ngắn trồng cây lương
thực như vả, mít, bồ ngót, ớt…họ đến vườn trời. Trên một khoảng đất cao
chạy dài đến chân trời là rừng thông và bạch đàn. Rồi cỏ. Cỏ xanh như
thảm trải dài đến chân trời và rừng lau trắng bạt ngàn.. Mì vốn thích
cảnh, nhìn ngắm rừng nguyên sinh tha hồ.
- Đây nữa.
Giữa xung quanh cỏ lau trắng gần khuất lấp, một cái
giếng sâu, xung quanh đã xây thành với hệ thống múc nước bằng đòn bẩy.
Nước giếng khi nhìn xuống trong vắt. mọi người trầm trồ khen cái giếng
nước trong, giữa chốn hoang vu đồi núi nguồn nước vô cùng quý hóa, xuống
dưới bến sông thì xa quá. Riêng Mì cứ đứng ngây ra, không hiểu tại sao
mình lại có cảm giác quen thuộc quá. Ngắm giếng trời chán ni trưởng mời
ra bàn đá ngòai vườn dùng trà.
- Sau ngày thống nhất, sư đi bộ về chùa Từ Đàm – ni
sư chỉ ra phía ngọn núi trước mặt, đúng hơn là phía sau chùa. Sư vừa đi
vừa niệm Phật, đi bộ chứ hồi đó làm chi có đò như bây giờ; thành ra
không biết đói khát chi cả! Chất giọng là một âm điệu chưa mất nét trẻ
thơ trong sáng lạ lùng, nhất là với ni sư đã đứng tuổi khiến ai nấy cứ
căng tai lắng nghe; họ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Núi
sau lưng, mây trắng bạt ngàn, giếng trời trong vắt. Tại chốn non nước
hoang vu sao lại mọc lên một ngôi chùa với hai người phụ nữ. Vị ni
trưởng tuổi trung niên và nữ đệ tử tuổi chừng hai mươi mốt, hai hai,
xinh đẹp. Mì thầm hỏi, trên đỉnh non cao giữa mùa đông lạnh giá, điều
chi có thể làm ấm lòng người có phải là hồi chuông và những trang kinh?
Tiếng chuông ngân nga trong đêm dài, nửa khuya vắng, sáng sớm mai đưa
hồn người thóat tục. Đi hàng dặm đường sông nước mênh mông nghe văng
vẳng tiếng chuông của một ngôi chùa trên đỉnh núi đủ làm ấm lòng người.
Rồi cả tâm hồn Mì nữa. Luôn luôn canh cánh bên lòng một ngày kia, mình
có thể thênh thang rũ bỏ mọi gánh nặng trần thế, ở chùa…
- Giếng trời nước trong và mát lắm, mời dùng chén mì
chay với rau bồ ngót nhé.
- Cám ơn sư ạ. Nguyên Thanh cười.
- Trước kia chùa mới mở thức ăn đơn sơ lắm. Buổi
sáng có khi sư ăn vài trái sim chín, uống bát nước chè rồi ra lao động
trồng rau.
- Sư không mệt và đói sao? Lần này Mì kêu lên, giọng
to hơn hết.
- Trong sim chín có đường! Ni sư điềm nhiên.
-
?!
Mỗi lời sư trưởng nói cứ như mỗi nhát chạm khắc nhẹ
nhàng vào thực tại khiến người nghe ngỡ ngàng. Cứ như đây là một nơi
chốn thần tiên! Giếng trời, mây trắng ngoài lưng chừng đỉnh núi xa kia.
Còn gì nữa? Là ngôi chùa đang xây dở dang với một ni sư hồn hậu. Hồn hậu
vô cùng. Nhờ có Nguyên Thanh hướng dẫn họ được đến đây; đến đây họ làm
quen với cách trò chuyện lạ lùng, như một người xa cách phố thị lâu,
tuồng như bao cảm xúc dồn nén bây giờ mới bung ra. Chốn non cao cô tịch
được khuấy động lên chốc lát bởi những tình cảm chốn phồn hoa. Họ lắng
nghe chăm chú lời ni sư kể. Không quản đường xa vạn dặm, sư đến nơi này
tu tập, buị hồng trần để lại đằng sau.Tận chốn sơn cùng thủy tận, sao
lòng không cảm thấy dửng dưng mà còn ước chi có ngày ở lại! Trên đỉnh
non cao hẻo lánh sao có một trái tim thuần khiết! Thuần khiết trong ngần
như nước giếng, cái giếng nằm ẩn khuất trong vườn trời. Nguyên Thanh đọc
được ý nghĩ trong óc Mì. Thầy cười nói:
-
Hay là lên đây ở lại tu cho rồi.
- Đang ở dưới núi, thầy đòi lên đây, rứa là vọng
động nghe chưa? Mì cũng cười và mọi người cười theo.
Họ về đến bến đò Tuần lúc 5g, chia tay Trúc Huệ với
ít nhiều luyến tiếc đôi bạn tình dễ thương. Mọi người hẹn nhau sẽ đi
Lương Miêu thế mà sau Tết mới thực hiện được.
Cái lạnh ẩm ướt qua rồi, tháng giêng là mùa đẹp nhất
ở Huế,. Tháng giêng vẫn còn rét độc, những cơn mưa bụi chỉ làm đầy thêm
niềm hi vọng. Tết trẻ em có nhiều thức ăn hơn, áo mới hơn, tiền lì xì
nhiều hơn.Người lớn có nhiều hi vọng một mùa xuân tốt lành hơn xuân
trước. Tháng giêng người ta đi chùa hái lộc.
Tháng giêng, mùa xuân có mưa bụi, hương vị lát mứt
gừng thơm đậm đà. Tháng giêng, hoa mai, hoa hải đường, hoa hướng dương,
hoa cúc, hoa hồng, vạn thọ…đua nhau nở khiến vạn vật sáng bừng lên dưới
cơn mưa. Mưa bụi ít ngày trời lại nắng. Tháng giêng, họ không bỏ một
cảnh sắc nào đẹp mà không đến. Sau một ngày lang thang qua núi đồi, vào
thắp hương ở các chùa, Mì nhớ vườn trời trên đỉnh non cao. Thân hiểu ý
vợ - anh biết cô nàng vẫn còn muốn lên Lương Miêu.
- Em muốn lên ở trên ấy?
- Sao không?
- Không sợ cuộc sống quá buồn tẻ à?
- Không. Ở đó có các thức thanh đạm đủ dùng. Canh mít
nấu với nấm rơm có thêm lá lốt trị bịnh thấp khớp, mít non trộn nấm có
thêm mè ăn đủ chất cho gan, mè tính bình, trái vả non luộc chín rồi xắt
nhỏ trộn với mè và phù chúc ăn chặt ruột. Rau bồ ngót nấu với mì gói có
nhiều vitaminA, su luộc vẫn còn C, trái khế ăn gém với chao hay nấu canh
ăn mát và hiền. Chưa kể tương đậu nành chấm rau khoai luộc có thể thế
đạm động vật, ngoài ra mình mang lên một cái xay trái cây làm sữa đậu
nành uống…Ni sư còn làm thêm chao ăn dần…Vả lại em còn học kinh, lao
động nữa chứ!
Thân thở dài. Không hiểu cơ duyên nào xui họ gặp nhau.
Mì khác hoàn toàn với những người anh trong gia đình cô.Thống nhất xong,
vô số người lên chức, vô số người bỏ nước ra đi. Mì không đi như bao
nhiêu người khác. Cô gặp anh giữa lúc tâm hồn nguội lạnh. Chuyện tình
yêu và hôn nhân là giấc mộng rồi, âm nhạc và thi ca gần như chết hẳn
trong cô. Thành làm sao biết được điều đó, nếu tự Mì không nói mà Mì thì
không nói bao giờ. Núi cao, hai người nữ tu trên đỉnh non cao cô quạnh;
nói ám ảnh thì không đúng, mà gây ấn tượng cho cô và cả Nguyên Thông.
Thầy Nguyên Thanh coi đó là thường, thầy chẳng ao ước muốn lên ở lại tu
đó sao?
Cùng với niềm tin nơi Mì, lần đi Lương Miêu về anh có
thay đổi. Có thể là vị sư trưởng. Có thể do Trúc Huệ. Điều trước chính
xác hơn. Đi bộ! Làm sao một phụ nữ yếu đuối lại có thể một mình băng
ngàn dặm đường rừng từ núi cao về ngôi chùa dưới chốn thị thành - để chỉ
về thọ Giới?! Đôi bạn tình tuổi đời còn quá trẻ kia, sống đời sông nước
thênh thang, liệu có khi nào nghĩ đến những hiểm nguy chờ đợi họ trong
mùa mưa, khi mà họ vẫn tự nguyện lên chùa đem theo lương thực ở miền
xuôi gởi đến? Điều ấy ám ảnh thật sự, nó khác quá với đời sống phồn
hoa. Như vậy dù chưa hiểu lắm về đạo Phật, sau những lần theo Mì lên
chùa con người này có nghĩ lại vấn đề này.
Lần thứ hai lên Lương Miêu Mì đi với gia đình GS Cao
và vợ chồng cô Qùy ở Pháp về. Thân bận việc, chỉ mình Mì đi không có con
gái đi theo. Chùa xa mà gần trong trái tim Mì, đời cát bụi phù du trước
mắt mà xa lắc lơ ngòai cảnh vườn. Trên chiếc thuyền rồng, ngoài gia
đình GS Cao, còn có một nữ doanh nhân nối tiếng. Cô Quỳ dọc đường cứ nói
sao trông em quen quá, như đã gặp ở đâu rồi. Có thể trong qúa khứ em học
Đồng Khánh? Cô hỏi, Mì gật đầu đáp dạ đúng. Họ đến lăng Gia Long trước
rồi mới ghé thăm Lương Miêu. Thấy Mì mặc áo len GS Cao hỏi, cô lạnh à?
Mì đáp. Vâng. Họ đem theo một số món ăn ngày tết. Mì cũng mang theo
bánh in mời mọi người. Là người Mỹ, ông Quỳ thản nhiên nói” bánh in” rồi
cầm bánh lên ăn ngon lành. Chỉ mình ông Quỳ đi trên chiếc cầu khỉ, lần
này một tấm ván rộng hơn thay hai cây tre lần trước Mì và con gái đi.
Mọi người vui vẻ lội dưới nước thì” rầm” tấm ván không chịu nổi đổ sụp.
Đang vui, Mì la lên:” Mr. Quỳ, tấm ván này bể vì ông”. Chẳng ngờ ông Quỳ
trả lời bằng tiếng Việt:” Người tây thì nặng.” Ai nấy cười vui vẻ.
Nguyên Thanh có gọi điện báo trước nên sư trưởng chạy ra đón họ. Làm sao
không vui được?! Đã nửa năm mà vị sư trưởng vẫn còn nhớ Mì. Một nơi hẻo
lánh thế này, quanh năm sự hiện diện của một người giống như tiếng chim
kêu trong rừng vắng. Mì gần như chạy bổ đến sư trưởng. Đôi mắt ni sư
sáng bừng lên. Nụ cười cùng vòng tay ôm chặt bao nhiêu mừng vui! Ai cũng
nhớ ni sư và nhớ chùa. Thầy Nguyên Thanh cười. Cảm giác như mình đang
trở về nhà là ý nghĩ của Mì mỗi lần đến chùa. Chùa đã làm xong, cây cối
mùa xuân xanh tươi, cây kiểng nhiều hơn. Mọi người xúm quanh cái bể
nước mới xây đặt giữa sân rửa chân. Mì lạnh nên chỉ múc nước rửa vừa
sạch. Sư trưởng nói:
- Cứ rửa thoải mái, chùa có máy bơm nước giếng rồi.
Thầy Nguyên Thanh dạ. Giòng nước ngọt lành được múc
lên từ giếng trời mát tận xương.
Lại hàn huyên một lúc trước khi mọi người theo thầy
Nguyên Thanh lên chùa lễ Phật. Mì ôm vai sư trưởng, nói:
- Sư trưởng! xin cho con lên làm công quả cho chùa.
Con không bận việc nhà mấy cả.
- Lên ở ba ngày cái đã, khi hoàng hôn xuống, nhìn
ráng chiều đỏ rực, nghe chim kêu vượn hú, coi có nhớ nhà không? Giọng ni
sư rất nhẹ, âm giọng như hát thoảng bên tai.
- Nói như sư là thực tế đó. G.S Cao xen vào. Chẳng
ngờ ông đứng gần đó nghe đượcmẫu đối thoại của họ. Một lát sau mọi
người lên chánh điện lễ Phật, thầy Nguyên Thanh thỉnh chuông.
Buổi cơm trưa lạ miệng, ai cũng thích thú thưởng thức
món canh rau bồ ngót, món su luộc, chao…. Bàn ăn đông thực khách, không
những gia đình ông Cao mà còn hai người phụ nữ nữa. Câu chuyện nổ như
bắp rang. Ông Quỳ cầm đũa ăn như mọi người hỏi món soup( canh rau bồ
ngót) chi mà ăn thấy ngọt. Ông hỏi bằng tiếng Việt. GS Cao hỏi ni sư, ở
đây cái chi cần nhất. Lương thực, ni sư đáp. Lương thực rất cần, mọi
người đều biết vậy.
Xế chiều, họ từ giã ra về với ít nhiều luyến tiếc. Mì
cột lại giây giày, nói lầm bầm.” Nói đi, chân chưa đi mà ý niệm đi đã
đến trước rồi”. Tối hôm ấy, về nhà mệt lử. Mì ghi trong nhật kí:” Núi
cao, chùa rộng, tình thâm.” Cô biết mình sẽ trở lại chùa.
Mì lên chùa lần thứ ba thật, không có Nguyên Thanh
lẫn Nguyên Thông. Lần này Thân chở vợ, đúng là đi dọc đường gió bụi, đi
bên cạnh rừng núi bạt ngàn lau lách với một con đường lên núi đang được
làm. Tiếng chuông đang mời gọi mình trên đỉnh núi, trên rẻo cao kia có
một tâm hồn thuần phác tự nhiên trong chiếc áo lam đang chờ. Mì nghĩ thế,
mà quả như thế. Lần này ni sư và Mì gần như lao vào nhau trong khi Thân
đứng im lặng mỉm cười. Lần đầu tiên con người này vui lây cái vui của vợ,
lần đầu tiên anh hiểu thế nào là niềm tin. Còn Mì đang hạnh phúc, thật
sự hạnh phúc ngay đang lúc đứng giữa núi đồi thênh thang, lúc vào chùa
lế Phật. Không có thầy Nguyên Thanh, ni sư thỉnh chuông, Mì và Thân lạy,
cùng cảm thấy một niềm vui lâng lâng trong tâm hồn họ.” Mình đang trở về
nhà, trở về nhà với mẹ, về ngôi nhà của mình.”Mì thầm nghĩ. Cứ mối lúc
tới chùa Mì lại có cảm giác như trở về nhà của mình để được che chở,
được yêu thương. Rồi đột nhiên Mì chợt hiểu. Dư nói ngày nào cô sẽ nhìn
thấy giếng trời. Giếng trời. Đúng thế. Những ngôi nhà làm theo kiểu cách
tân hiện đại mà thiếu hẳn không gian, kiến trúc sư thường tạo kiểu lệch
tầng để hứng ánh nắng. Đó là Giếng trời theo nghĩa đen. Cái gọi là nghệ
thuật kiến trúc dành cho một không gian sống quá ít trong những căn phố
lầu hẹp do thiếu đất. Việc sau đó họ làm là đi ra vườn sau, với Thân là
đi thăm những cây sung cây vả, cây mít, xem sư trồng tươi tốt đến độ nào.
Với Mì là đi thăm vườn trời. Họ nhìn thấy vườn trời, ngút ngàn rừng
nguyên sinh bạt ngàn lau trắng và trước mặt họ là cái giếng trong, trong
như chưa khi nào có một nơi trong đến thế.
Bây giờ trong lúc ngồi với ni sư dưới mái hiên chùa,
Mì cứ ngẩn người ra. Bao nhiêu khắc khoải về một đấng Giác ngộ trong tâm
hồn chợt vỡ òa. Từ lâu Ngài đã ở trong ta sao ta không nhận ra. Hiện tại
chứ không phải quá khứ, cũng không phải tương lai, bởi từ lâu cô không
chia thì tương lai nữa giữa một cuộc đời qúa bấp bênh và hữu hạn.
Huế ngày 7/7 2007 – 12/2008
http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/giengcuatroi.htm