Cơn mưa chiều vừa dứt, khách vãng lai viếng chùa trú mưa cũng lục tục
ra về gần hết. Lúc này thầy Nhật Minh mới có thể lui về phòng để nghỉ
ngơi. Thoáng chốc căn phòng toả đầy mùi trầm hương thơm ngát. Một ấm trà
nóng được pha lên cũng đủ làm dịu bớt cái se lạnh trong cơn mưa tầm tã
suốt mấy ngày liền.
Thường ngày …thầy vẫn đốt trầm và pha trà uống vào buổi
sáng. Còn hôm nay mãi bận rộn cho buổi lễ đại tường của sư đệ Nhật
Phương, nên lúc này dù mỏi mệt, thầy vẫn thích được ngồi đối ẩm một mình
trong căn phòng tràn đầy kỷ niệm. Một cơn gió thổi hắt vào làm thầy khẻ
rùng mình. Tuổi già dường như làm cho người ta e sợ trước mọi thay đổi
bất thường của thời tiết. Hai năm trước thầy Nhật Phương đã xả bỏ xác
thân nơi cõi hồng trần này cũng vào một đêm trời nổi cơn dông bão. Nước
mưa hoà quyện theo dòng nước mắt thương tiếc của hàng ngàn tăng Ni phật
tử càng làm cho bầu trời hôm ấy trở nên trầm lắng hơn mọi ngày.
“ Người sẽ đến và người sẽ về,
còn lại chăng là tiếng cười khóc giữa cuộc đời”.
Ngày tháng thắm thoắt rồi cũng qua nhanh. Những gì mà người ở lại làm
được trong khoảng thời gian ấy là lo chu toàn trong ngày đại lễ …để gọi
là tưởng nhớ đến công đức của người đã vĩnh viễn đi vào chốn vĩnh hằng.
_Bạch thầy! Lúc nãy cơn gió mạnh quá đã làm gãy mất một nhánh bồ đề lớùn
rồi.
Thầy bước lại mở cánh cửa sổ nhìn ra sân, rồi bảo với chú thị giả :
_ À! Chú nói với mấy huynh đệ ra chặt bỏ nhánh đó đi. Nhớ dọn dẹp cho
sạch sẽ xung quanh gốc cây.
Thầy ngồi xuống rót trà ra hai tách nhỏ, rồi nhẹ nhàng đặt một chung
cạnh mép bàn bên kia như ngầm ý mời khi nhìn lên bức di ảnh của sư đệ
được phóng lớn treo ở trên tường. Mấy chục năm qua, hai huynh đệ vẫn
ngồi đây uống trà vào buổi sáng; Khi thì cùng trao đổi tâm tình về
chuyện thế đạo nhân tình; Khi thì chỉ ngồi yên hằng giờ bên tách trà đạo
mà thấu suốt tận cùng tâm tư nhau qua ánh mắt cảm thông chia xẻ. Từ ngày
sư đệ mất, thầy vẫn ngồi uống trà một mình…lặng lẽ trong gian phòng im
ắng. Chén trà đối diện cứ được châm thêm rồi nguội dần; thế nhưng thầy
vẫn cảm thấy lòng mình không hề đơn lẽ. Sư đệ vẫn đang cùng thầy thưởng
thức hương vị chén trà sen vào các buổi sáng sớm khi sương mai còn lãng
đãng, hay những đêm trăng thanh gió lặng cùng thao thức đàm đạo. Ánh mắt
trong khung ảnh vẫn luôn giữ nguyên nụ cười hiền từ bao dung hoà nhã. Nụ
cười ấy giờ đây đã thản nhiên ngoài vòng thế sự. Chung trà vẫn đầy ấp
hương vị thân tình của ngày xưa; hai năm qua cũng đủ cho hương vị kia
thắm sâu vào lòng đất, lòng người. Sau ngày lễ đại tường, dường như ai
cũng đã mãn nguyện trước những gì mình làm được để gọi là nêu cao công
trạng cho người ra đi. Còn Thầy Nhật Phương ắt cũng ấm lòng mà thanh
thản giữa chốn đi về. Những gì mà thầy Nhật Phương đã làm cho Đạo Pháp
Dân Tộc, cho sự nghiệp đào tạo tăng tài, cho công cuộc hoằng dương chánh
pháp đã trở thành một dấu ấn khó phai mờ trong tâm trí của những người
thời nay…và cả muôn thế hệ đời sau.
Tư ø thuở xuất gia còn để chỏm ở quê nhà, thầy và sư đệ được thầy gởi
lên thành phố học. Sau đó cùng hành đạo bên nhau suốt mấy mươi năm nơi
bổn viện này, tình nghĩa huynh đệ vẫn keo sơn gắn bó. Vị sư đệ tài hoa
xuất chúng đã ra đi sớm để lại biết bao nhiêu hoài bảo còn dang dở. Là
người thẳng thắn nhiệt tình, năng động trong mọi công việc, có tâm huyết
và đầy chí khí, sau khi rời khỏi chiếc ghế Tăng sinh, thầy tham gia vào
công việc Giáo Hội, đảm trách việc giảng dạy ở các trường Phật Học,
trường hạ. Công tác Phật sự đa đoan, sự khó khăn cũng không phải là ít.
Biết bao đêm Thầy thao thức trăn trở. Những lúc ngồi uống trà với Sư
huynh, thầy đã tỏ bày những nỗi ưu tư trong lòng :
_ Nhớ lại ngày xưa đời sống tu hành thật là kham khổ, nhưng tâm cầu đạo
thiết thành, chí xuất trần dõng mãnh. Người xả thân cầu đạo đã thực sự
buông bỏ hết mọi hư danh tranh chấp giữa đời thường, hạnh đức thanh cao
nên đâu dễ bị hoen mờ trước mọi cám dỗ của vật chất phù hoa. Bây giờ
trong bối cảnh xã hội nhân sinh phát triển, thì Phật Giáo cũng bước sang
một vai trò lịch sử mới. Tăng Ni Sinh ngày nay được sống trong môi
trường thoải mái về sinh hoạt, các phương tiện học tập cũng tương đối
đầy đủ. Bên cạnh sự tiện dụng đó, đời sống nội tâm ít nhiều bị chi phối,
đôi khi chúng ta làm mất đi giá trị và bổn nguyện của mình. Vì vậy mà đệ
ước mong sao những người có tâm chí vì Đạo pháp ngày mai thì nên cùng
nhau chung sức hoà hợp. Chúng ta sẽ đứng ra tổ chức chấn chỉnh lại những
ngôi trường phật học nội trú. Bên cạnh sự học tập nghiên tầm giáo điển,
cũng cần có những thời khoá tĩnh toạ riêng để mọi người trở về với cuộc
sống nội tâm, giúp tăng Ni sinh ý thức về việc học hạnh kiêm ưu, trao
dồi phẩm hạnh đạo đức của một bực mô phạm xuất thế gian. Môi trường bên
ngoài đầy dẫy những cám dỗ vật chất. Tăng Ni sinh chúng ta dù cắt ái ly
gia, nhưng để hướng đến mục đích cao hơn thì cần phải có sự sách tấn của
bao người đi trước.
Thầy Nhật Minh cũng đã từng thao thức về vấn đề này. Dù Thầy chỉ chuyên
tu ít nghĩ đến mọi biến động bên ngoài. Nhưng những lần lên lớp dạy luật
cho các trường cơ bản sơ cấp, thầy cũng đã nhận thấy Tăng Ni sinh bây
giờ chỉ lo hướng ngoại, tìm cầu mọi tiện nghi danh lợi cho cuộc sống
riêng tư, việc học việc tu đôi khi chỉ xem như là chuyện cưỡi ngựa xem
hoa. Nhưng muốn thực hiện những gì mà vị sư đệ đã nghĩ đã nói cần phải
có sự hoà hợp trợ lực từ mọi phía. Một người dù tâm hạnh có cao siêu
cũng không thể làm nổi chuyện vá trời lấp biển. Thầy Nhật Phương hiểu rõ
điều đó nên đã hết lòng vận động …..
Vậy mà…sự việc vẫn chưa tới đâu thì sư đệ đã vội vã ra đi chỉ sau một
cơn bạo bệnh. Mọi dự định vẫn còn nằm nguyên đó, như để thách thức với
bao người ở lại. Khi biết mình sắp đi xa, Thầy Nhật Phương đã đem hết
tâm nguyện cuối cùng nói hết với vị sư huynh đáng kính :
_ “ Em đi rồi…sư huynh sẽ gặp khó khăn trong các công việc Phật sự.
Nhưng người có tâm hộ trì Phật Pháp thì Chư Phật, Long Thiên sẽ gia hộ.
Tre già thì măng mọc. Những vị trẻ tuổi tài cao lại có tâm huyết vì đạo
ngày nay cũng không thiếu. Đạo pháp rồi đây sẽ vươn xa hơn những gì mà
em và sư huynh từng trông đợi.
Thầy Nhật Minh đưa mắt ra phía ao sen, nơi có gốc bồ đề to lớn mà mấy
mươi năm trước khi mới nhập chúng, thầy Nhật Phương tìm đâu được một cây
con đem về trồng. Khi ấy mấy huynh đệ đồng liêu sáng chiều cùng ra chăm
bón tưới tắm cho cây. Ai cũng mong cây bồ đề mau lớn che bóng mát cho
sân chùa. Hoà thượng trụ trì thấy vậy thì nói:
“_ Rễ bồ đề một khi đã ăn sâu vào lòng đất thì nó sẽ sống và phát triển
nhanh chóng. Các ông gieo trồng hạt giống bồ đề tâm cũng vậy. Cần lấy
giới định huệ để chăm bón nó. Nơi mảnh đất lành tâm bồ đề sẽ tăng trưởng.”
Thầy Nhật Phương luôn ghi nhớ lời dạy của Hoà Thượng. Về sau khi đi
giảng pháp, dạy học thầy đều nêu câu nói ấy ra để nhắc nhở học trò. Cây
Bồ đề ngày nào giờ đã cao to. Hạt giống thiện tâm thầy gieo trồng nơi
mảnh đất này được bao thế hệ người đi qua cùng vun đắp cho cây thêm
nhiều sức sống. Hoa tâm nở rộ trên khắp nẻo đường, mà người gieo mầm
không hề muốn lưu bóng lại. Người đã ra đi nhưng niềm tin vào chánh đạo
vẫn còn đó, ước vọng của người đi trước rồi đây sẽ hun đúc thêm chí
nguyện cho kẻ hậu sinh. Đó là điều mà mọi người đều kỳ vọng …rất kỳ vọng.
Bầu trời sau cơn mưa bỗng quang đãng hẳn lên. Vài tia nắng cuối ngày vẫn
toả nhẹ chút ánh vàng tươi lấp lánh. Nền trời trong xanh không gợn chút
mây mù, thầy Nhật Minh chợt nhìn thấy mọi sức sống mới đang không ngừng
vươn lên. Cảnh vật tưởng chừng như bình lặng vô vị, nhưng lại ẩn chứa
biết bao nhiêu sự diệu kỳ sâu xa. Bên góc sân chùa, cây bồ đề vẫn xanh
tươi soi bóng xuống lòng hồ, mặc cho mưa gió chập chùng, mặc cho dòng
thác cuộc đời cứ tuôn trào bất định.
Trải qua năm tháng, gốc bồ đề càng to lớn, cành lá càng sum suê …như để
khơi dậy bao niềm tin trong sáng luôn hiện hữu trong lòng người. Một
chứng tích bất sanh bất diệt ở ngay trong cảnh đời sanh diệt vô thường .