Cành Mai Trước Sân
(vài chuyện trao đổi văn học, tưởng niệm bách nhật
văn/họa sĩ Võ Đình từ trần)
Vĩnh Hảo
Có một vài kỷ niệm với người anh trong làng văn, là
văn/họa sĩ Võ Đình, mất vào ngày 31 tháng 5, 2009 vừa qua. Những kỷ niệm
này có thể nói theo từ ngữ nhà Phật là “duyên.” Cái duyên này xoay chung
quanh một cành mai. Nhưng trước khi đi sâu vào câu chuyện với “yêng” Võ
Đình, tưởng cũng nên đi một vòng lan man về “một cành mai” này.
Mười lăm năm trước, 1994, tôi có xuất bản tác phẩm
“Sân Trước Cành Mai”. Trong tác phẩm này có bài “Đừng bảo xuân tàn hoa
rụng hết”, lại có bài thơ “Sân trước cành mai” dùng làm tựa đề chung cho
tác phẩm.
Sáu năm sau đó, năm 2000, nhà văn Nguyễn Tường Bách
bên Đức có tác phẩm “Đêm Qua Sân Trước Một Cành Mai.” Bốn năm sau nữa,
2004, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc trong nước xuất bản cuốn “Cành Mai Sân Trước.”
Rồi năm kế tiếp, 2005, nhà văn Trần Trung Đạo ở Massachusetts, Hoa Kỳ,
có bài tâm bút “Tối Qua Sân Trước Một Cành Mai.” Cũng trong năm đó, nhà
văn Võ Đình ở Florida, Hoa Kỳ, xuất bản cuốn “Một Cành Mai.”[1]
Đầu năm 2008, nhà văn Thái Kim Lan bên Pháp cũng có bài tùy bút “Một
Cành Mai.”
Sân trước cành mai, cành mai sân trước, cành mai
trước sân, đêm qua sân trước một cành mai, tối qua sân trước một cành
mai, nhất chi mai, một cành mai[2],
cành mai[3],
làng mai[4],
đình mai, mai…
Mai quả là một loài hoa sang quí, được nhiều văn thi
sĩ nhắc đến một cách trân trọng. Nhưng những nhóm từ được dùng làm tựa
sách, tựa bài, tựa nhạc phẩm, tên làng, tên người… nói trên, hầu như đều
được khơi nguồn hứng cảm từ bài thơ chữ Hán “Cáo Tật Thị Chúng” của
Thiền sư Mãn Giác thời Lý (1052 – 1096), trong đó có câu cuối là “Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai.” Chỉ có bảy chữ (trong bài thơ ngắn ba mươi
bốn chữ) này thôi mà biết bao đạo gia, văn thi nhân, nhạc sĩ, dùng tới
dùng lui không biết chán.
Một bài thơ ngắn trải qua gần một nghìn năm vẫn còn
ảnh hưởng đến tinh thần và xúc cảm của người đời sau ở trong nước, ngoài
nước, và ngay cả đối với người ngoại quốc, thì phải nói là bất hủ.
Xin trích lại lần nữa nơi đây để bạn đọc nào chưa
biết bài thơ ấy có cái nhìn tổng quát câu chuyện văn chương về một cành
mai mà tôi muốn nói ở sau.
“Xuân khứ, bách hoa lạc
Xuân đáo, bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
(Cáo Tật Thị Chúng, Thiền sư Mãn Giác, thời Lý)
Ngô Tất Tố dịch:
“Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mặt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.”
Võ Đình dịch:
“Xuân đi, trăm hoa rãi
Xuân đến, trăm hoa khai.
Xem chuyện đời trước mắt
Tóc trên đầu đã phai.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Tối qua, vườn trước một cành mai.”
Giáo
sư Nguyễn Ngọc Bích dịch sang Anh ngữ, đặt tựa là “Rebirth” (Tái Sinh)
như sau:
“Spring goes, and the hundred flowers.
Spring comes, and the hundred flowers.
My eyes watch things passing,
My head fills with years.
But when spring has gone not all the flowers follow.
Last night a plum branch blossomed by my door.”
Vào năm 1995, tôi có viết “Về một bài thơ thiền mùa
xuân,” phân tích khá kỹ bài Cáo Tật Thị Chúng rồi, nhưng sau đó, vẫn
thấy là chưa nói hết ý. Trong bài viết ấy, tôi có dùng hai bản dịch của
Ngô Tất Tố và Võ Đình để đối chiếu, phân tích. Cái duyên với nhà văn Võ
Đình là từ đây, dù rằng anh vốn là người rất thân với gia đình tôi từ
lâu.
Trong đoạn nói về hai câu “Xem chuyện đời trước mắt /
Tóc trên đầu đã phai” do anh Võ Đình dịch, tôi viết: “Người
phương Tây quen với văn chương hiện thực hẳn phải chịu họa sĩ Võ Đình ở
chỗ đó. Thiền sư không nói chuyện tóc bạc, tóc phai, tóc muối tiêu, tóc
pha sương gì hết. Chỉ nói sự già (hay tuổi già) kéo đến trên đầu. Một
lối nói khéo của người Đông phương. Họa sĩ Võ Đình không chịu sự úp mở
đó, hoặc anh muốn nói huỵch toẹt, nói thẳng thừng thực tế tóc bạc là tóc
bạc cho người đọc, nhất là các bạn phương Tây của mình dễ lĩnh hội hơn.
Tóc trên đầu đã phai… Nhưng anh ác quá,
anh nói thực quá! Anh nhập vai thiền sư, quan sát cuộc đời trước mắt,
nhưng diễn lại bài thi kệ ấy theo hoàn cảnh của anh; vì vậy, anh quên
một điều còn thực tế hơn, rằng thiền sư không có tóc (có chăng cũng chưa
dài khỏi một phân tây). Dù một tháng không cạo lại, tóc thiền sư cũng
chỉ lúp xúp đâu chừng nửa phân. Ngắn củn như vậy nên dù còn tóc trên
đầu, người ta vẫn nói rằng các nhà sư không có tóc. Không có tóc nên
thiền sư không thể diễn tả tóc bạc, tóc phai; chỉ nói cái già kéo đến
trên đầu, vừa khéo, vừa đúng với hoàn cảnh nhà sư của mình. Họa sĩ Võ
Đình là một nghệ sĩ ẩn cư (như một đạo sĩ) trên một ngọn đồi ở xứ lạnh
Maryland nên lười hớt tóc (dù có lúc họa sĩ rất muốn cạo tóc làm sư).
Họa sĩ thường để tóc dài, có khi muốn chấm vai, nên đâu có quên nhìn
thấy tóc mình phai hàng ngày. Họa sĩ nói thẳng chuyện tóc phai đó là
phải rồi. (Nhưng nếu họa sĩ nói với mọi người rằng thiền sư đã nói
chuyện tóc phai thì chẳng khác gì anh đùa ghẹo—tiếng Huế gọi là
ngẳng —với các nhà sư đấy nhé!).”[5]
Khi bài viết của tôi được phổ biến, một vài người bạn
hỏi tôi: “Viết như vậy có đụng chạm anh Võ Đình không?” Tôi cười, đáp:
“Cái tâm của anh ấy như hư không, không biết là đụng chạm chỗ nào hỉ?
Không sao đâu, tôi có gửi cho anh ấy đọc trước rồi. Anh ấy còn khen và
gửi tặng tấm hình có cành hoa mai trước hiên nhà cho tôi nữa mà!” Quả là
vậy. Anh Võ Đình là một người anh lớn thật đáng quí mến. Cả nhà tôi đều
dành cho anh tình cảm đó. Anh không giận tôi vì bài viết đó, chỉ nói vài
chữ để bảo vệ hai chữ “tóc phai” của anh, gửi bằng postcard đến tôi: “Vả
lại, dù cạo đầu, tóc của thầy Minh Châu hay thầy Từ Mẫn đều bạc trắng
thấy rõ kia mà!”
Trong giới văn bút, Võ Đình đã nổi tiếng từ lâu, là
một đàn anh đi trước tôi nhiều năm, và nói về kiến thức học thuật thì
đáng bậc thầy của tôi, nhưng anh rất khiêm cung, tế nhị, đôi lúc rất
thẳng thắn.
Một lần, anh viết thư mách tôi biết, và cũng là xin
phép, lấy một câu văn của tôi để đưa vào truyện ngắn nào đó của anh. Anh
viết: “Tôi chôm của chú một câu trong truyện dài Phương Trời
Cao Rộng, chỗ bà mẹ cầu thỉnh ông thầy cho đứa con trai của mình
xuất gia.” Câu văn mà anh nói là “chôm” đó, thực ra chỉ lấy ý thôi, chứ
không phải lấy nguyên văn (tôi quên mất nó nằm trong truyện ngắn nào
trong các tác phẩm của anh). Vậy mà anh vẫn “xin phép” đàng hoàng, cẩn
thận. Qua chuyện nhỏ ấy, tôi thật cảm kích cung cách làm “văn nghệ” rất
mực “quân tử” của anh.
Vài năm sau, anh liên lạc, nói là muốn trích đăng
nguyên một đoạn trong bài viết của tôi, chính cái bài mà tôi nói chuyện
“tóc phai” ở trên, để đưa vào lời tựa cho tác phẩm “Một Cành Mai” của
anh. Điều này càng chứng tỏ rõ hơn, rằng anh không hề có ý giận trách gì
cái “tội” dám phân tích bài dịch của anh. Tôi cho đó là một điều hân
hạnh nên vui vẻ đồng ý. Đoạn trích như sau: “Bài thơ xuân trong cửa
thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài ‘Cáo tật thị
chúng’ của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI, thời Lý,
cách đây gần một ngàn năm. Bài thơ ấy thực ra không phải là một bài thơ.
Không phải là thơ vì thiền sư, thực ra, đã không làm thơ. Chỉ có thể nói
được rằng vào một lúc tâm tư tịch lặng an nhiên nhất, khi những thăng
trầm của thế sự không còn là điều bận lòng với mình, khi những cánh hoa
tan tác rơi rụng không làm tâm hồn xao xuyến, hãi sợ nữa; và khi, chính
sự biến thiên của vạn hữu vô thường ấy lại ảnh hiện vẻ trường cửu bất
diệt của chân tâm, thiền sư bất chợt bật lên một tiếng kinh ngạc, hốt
nhiên giác ngộ tính cách bất nhị của bản thể và hiện tượng giới. Lẳng
lặng cảm nhận niềm an lạc và trí tuệ vô biên đó, thiền sư đóng cửa, cáo
bệnh, không bước ra khỏi phương trượng để sinh hoạt với đệ tử như mọi
khi. Các đệ tử chầu chực bên ngoài, lo âu, bồn chồn, như linh cảm rằng
thầy mình sắp từ giã cuộc đời. Đến chiều tối, để không phụ lòng các đệ
tử đang quan tâm đến mình, thiền sư mỉm cười thảo một bài kệ ngắn, gởi
ra ngoài cho đại chúng. Bài kệ ấy trở thành những lời dạy cuối cùng ân
cần, cảm động và siêu thoát nhất của thiền sư để lại cho đệ tử. Và ngôn
ngữ của một kẻ giác ngộ, đứng trên đỉnh cao chót vót của trí tuệ, dù
không đẽo gọt, uốn nắn, tìm chữ, sắp đặt ý lời, đã vô tình trở nên thơ.
Bài kệ, hay bài thơ "Cáo tật thị chúng" (Cáo bệnh để dạy đệ tử) ấy, trở
thành bài thơ bất hủ của nhân loại…”
Cũng liên quan đến “một cành mai,” một lần khác, anh
viết email hỏi tôi: “Nè chú, tại sao Thiền sư Mãn Giác làm thơ bằng Hán
văn không viết là ‘nhất mai chi’ mà lại viết ‘nhất chi mai’.
Chẳng phải theo chữ Hán thì cành mai phải viết là ‘mai chi’ hay sao!?
Chú rành chữ Hán chú nói tôi nghe thử.” Tôi viết email trả lời: “Thưa
anh, em cũng chẳng rành chữ Hán lắm đâu, nhưng nếu anh hỏi thì em cũng
nói theo cảm nghĩ thôi, chứ không chắc là đúng, vì Hán văn vốn chẳng có
văn phạm gì cả - văn phạm là do người đời sau, hình như là Hồ Thích hay
Lâm Ngữ Đường hệ thống hóa mà đưa vào thôi! Theo em, nếu viết là
‘nhất mai chi’ thì chỉ là một cành của cây mai, cành mai đó chưa
chắc có hoa; còn viết ‘nhất chi mai’ thì đó là một cành mai nở
hoa. Chữ ‘mai’ đi sau này trở thành như một động từ: nở những hoa mai.
Vậy, ‘nhất chi mai’ là một cành nở đầy những hoa mai, hay một
cành mai nở đầy hoa.” Anh đọc xong thư, liền viết lại: “Chú trả lời như
rứa tôi rất chịu! Tôi cũng như chú, không dám nói là đúng. Vả lại (anh
thường dùng chữ này), văn học, hay văn phạm, cũng chẳng có chi gọi là
đúng hay sai. Nghệ thuật chỉ có cảm được hay không mà thôi.”
Sở dĩ phải dài dòng chuyện văn nghệ riêng tư giữa anh
và tôi ở đây, cũng như lại nhắc câu chuyện cành mai của Thiền sư Mãn
Giác (dù đã nói khá nhiều trong những bài viết khác rồi), là vì chẳng
hiểu sao, khi nhớ tới anh Võ Đình là tôi nghĩ tới một cành mai. Cảm giác
này cũng từng đến khi tôi nhớ về thầy bổn-sư của tôi (đã viên tịch từ
năm 1991). Có lẽ vì những vị này đều quí mai và thường nhắc đến mai
trong sáng tác của họ.
Riêng anh Võ Đình, còn có tên thật là Võ Đình Mai.
Đình Mai, rõ ràng là một cây mai trước sân. Hơn
thế, tác phẩm cuối cùng (?) của anh, chẳng phải là tác phẩm “Một Cành
Mai” đó sao!
Còn nhớ một đoạn trong The Rock Garden của
Nikos Kazantzakis, có câu này: “Hỡi cây mai trước sân nhà, ta không
về nữa đâu. Nhưng còn ngươi, khi xuân về xin đừng quên nở hoa.” (O
plum tree before my house / I shall never return / But you do not forget
to blossom / Again in the spring!)
[6] Theo Kazantzakis thì những lời này được
tìm thấy trên một giải lụa mềm giấu trong nón sắt, hoặc cuộn trong giây
thắt lưng của các samurais Nhật thời xưa. Lời nhắn trên thẻ bài nói lên
quyết tâm của người chiến sĩ khi ra trận, đồng thời cũng là lời nhắn gửi
thật tình cảm của người chiến sĩ ấy về với gia đình, làng xã. Cây mai
trước sân nhà. Một hình ảnh gần gũi, gắn liền với tâm tư của người
Nhật-bản. Cây mai được nói ở đây, plum tree, không phải cây mai
của người Việt chúng ta, mà là một cành anh đào. Nhưng nó cũng là loại
cây thường được trồng nơi sân trước.
Về cây cảnh, cây kiểng, người Á-đông thường đưa những
gì quí, đẹp khoe ra ở sân trước, những gì tập tàng tạp nhạp thì giấu ở
vườn sau. Cây mai đứng đầu trong bốn loài cây quí (tứ quí: mai,
lan, cúc, trúc), và nở hoa vào mùa đầu của bốn mùa (tứ thời:
xuân, hạ, thu, đông). Cho nên mai đứng ở trước sân (đình tiền mai,
hoặc viết gọn là đình mai).
Võ Đình rất là Huế, và rất là Tây. Chữ “quân tử” (thường
được hiểu là phong cách trượng phu theo kiểu Trung Hoa) không thích hợp
để gọi anh. Nhưng vẻ chân, thiện, mỹ toát ra từ biểu tượng một cành mai
trước sân thì đúng là phẩm cách văn nghệ tài hoa và trung thực của con
người ấy.
“Một Cành Mai,” tác phẩm
cuối đời của Võ Đình, vẽ những bức tranh thủy mặc, dịch và viết về những
bài thơ thiền Việt Nam, có lẽ là những gì anh muốn gửi lại cho đời, cô
đọng một đời làm và sống với nghệ thuật của anh. Một con người vừa trầm
mặc vừa xông xáo trong sáng tạo như anh thật hiếm có. Người ta gọi anh
là Võ Đình. Tôi muốn gọi anh là Đình Mai, cội mai già trước sân. Mai có
thể trải qua sống-chết, còn-mất, nở-tàn theo bốn mùa, nhưng cốt cách,
phong vận của nó thì còn mãi.
California, ngày 26 tháng 7 năm 2009.
Vĩnh Hảo
Một trong những bức tranh treo trong nhà anh Võ Đình,
do Nguyễn thị Lệ Liễu chụp vào năm 2007.
Ngôi nhà nhỏ có cội mai già trước sân.
(Source:
http://www.gio-o.com/NguyenThiLeLieuVoDinh2007.html
)
[1] Một Cành Mai,
tác phẩm của Võ Đình, hoàn tất trước đó nhiều năm nhưng đến năm
2005 mới được xuất bản.
[2] Một Cành Mai,
Đạo ca số 5 của nhạc sĩ Phạm Duy, phổ thơ của thi sĩ Phạm Thiên
Thư từ thập niên 1970s để tặng Nhất Chi Mai (tên thật là Phạm
thị Mai), người đã tự thiêu năm 1967 để nguyện cầu cho hòa bình
Việt Nam.
[3] Cành Mai, Plum
Branch, tên một album nhạc của ca sĩ Mỹ Carey Creed, lấy từ chữ
“chi mai” trong bài Cáo Tật Thị Chúng (Thiền sư Mãn Giác thời Lý).
Album này có 12 bản, bản thứ hai có tựa là “Rebirth” (Tái Sinh),
là bản dịch Anh ngữ của Gs. Nguyễn Ngọc Bích cho bài Cáo Tật Thị
Chúng, được Carey Creed phổ thành nhạc.
[4] Làng Mai, Plum
Village, Plum Tree Village, một trung tâm thiền của Thiền sư
Nhất Hạnh ở Tây Nam nước Pháp, thành lập từ năm 1982. Hiện nay
Làng Mai được người Việt nhắc đến như là một thiền phái của Việt
Nam được truyền bá tại hải ngoại rồi ảnh hưởng ngược về trong
nước.
[5] Con Đường Ngược Dòng,
Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản năm 1998, trang 30-31.
[6] The Rock Garden
của Nikos Kazantzakis, bản dịch Anh ngữ của Richard Howard,
Touchstone xuất bản năm 1963, trang 171. Theo bản dịch này, chữ
“before my house” có vẻ như không nói cây anh đào trồng trước
sân, mà là một cây anh đào đâu đó ngoài đường, trước nhà.
http://www.buddhismtoday.com/viet/vanhoc/canhmai.htm