-
CHÙA XÁ LỢI
-
- Ngô
Hưng Đan
Chùa Xá Lợi
là một trong những danh lam ở thành phố Hồ Chí Minh. Kiến trúc ngôi chùa
kết hợp truyền thống và hiện đại. Chùa Xá Lợi có ngọc xá lợi từ Sri
Lanka chuyển sang cúng dường. Ngôi chùa này là trung tâm của phong trào
tranh đấu chống kỳ thị tôn giáo năm 1963. Nơi đây thường tiếp nhiều
nhân vật trọng yếu về tôn giáo và giới hữu quan.
Tương quan
hội Phật học Nam Việt và chùa Xá Lợi
Hội Phật Học Nam
Việt được giấy phép thành lập ngày 19-9-1950 tại Sài Gòn, là đoàn thể
nam nữ cư sĩ Phật học ở miền Nam Việt Nam tổ chức có hệ thống, có điều
lệ nội quy được chính quyền lúc đó công nhận về mặt pháp lý để hoạt động,
kết hợp bước đầu một số Phật tử, xuất gia lẫn tại gia nam nữ. Đến tháng
2 năm 1951, Hội Phật học Nam Việt chính thức hoạt động với mục đích
đoàn kết các Phật tử xuất gia và tại gia, sinh hoạt về hai mặt giáo lý
và từ thiện. Vị Hội trưởng đầu tiên là Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, có sự
cộng tác của các quý vị danh tăng : Quảng Minh, Quảng Liên, Thiện Hòa,
Huyền Dung, cùng cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền và một số cư sĩ có kiến
thức Phật học và đạo tâm khác. Hội tổ chức nhiều buổi diễn giảng Phật
pháp được hàng Phật tử hoan nghênh. Càng ngày, Phật tử ghi tên nhập Hội
càng đông (Theo Từ Quang số 37).
Ngày mùng 6
tháng 5 năm 1951, một Đại hội PG toàn quốc được triệu tập tại Huế để
thống nhất PG và thành lập một Hội lớn liên hiệp, gọi là “Tổng hội PG
Việt Nam” gồm có 6 tập đoàn : Giáo hội Tăng già Bắc Việt, Hội Việt Nam
PG Bắc Việt, Giáo hội Tăng già Trung Việt, Hội Việt Nam Phật học Trung
Việt, Giáo hội Tăng già Nam Việt và Hội Phật học Nam Việt. Thực ra thì ở
Nam Việt lúc bấy giờ khởi sự chỉ có một tổ chức Phật giáo là Hội Phật
học Nam Việt công khai đại diện cho cả chư vị xuất gia và tại gia, nhưng
vì Bắc Việt và Trung Việt đều có hai phái đoàn: một xuất gia và một tại
gia. Thành thử các vị Tăng sĩ ở Nam Việt phải tách ra thành lập “Giáo
hội Tăng già Nam Việt” để tham gia Đại hội PG toàn quốc lúc đó. Hội Phật
học Nam Việt từ đó chỉ gồm có các Phật tử cư sĩ tại gia mà thôi (Theo
Tống Hồ Cầm).
Với chủ trương
đạo và đời phải đi song song, phái xuất gia và tại gia đều là con Phật
nên phải đoàn kết với nhau, Hội Phật học Nam Việt có cung thỉnh một Ban
Chứng minh Đạo sư là chư tôn đức Tăng già tiêu biểu cho tinh thần tu
hành và uyên thâm giáo lý của đạo Phật. Trong Hội, thành viên của Ban
này phải được suy tôn trong hàng Hòa thượng, Thượng tọa lão thành, đạo
cao đức cả, giới luật nghiêm trì, tinh thông kinh điển. Nhiệm vụ của Ban
Chứng minh Đạo sư là chỉ đạo về tinh thần đạo giáo cho Ban Quản trị và
chủ trì các ngày đại lễ. Để làm tròn nhiệm vụ của phái tại gia cư sĩ đối
với phái xuất gia, Hội đã lập một Tiểu ban Hộ pháp, cúng dường chư Tăng
trong Ban Hoằng pháp, góp phần vật chất giúp chư Tăng chuyên tâm tu
hành, đào tạo Tăng tài, dịch sách, in kinh. Các vị xuất gia chủ yếu
chuyên trách về phần tinh thần, phát huy đạo pháp, đóng vai trò Như Lai
sứ giả.
Với mục đích là
tu học và thực hành đạo đức từ bi của đạo Phật, Hội đã tổ chức những
buổi diễn giảng giáo lý với những đề tài Phật học phổ thông vào mỗi buổi
sáng Chủ nhật sau buổi lễ Phật Tịnh độ công cộng, hợp với trình độ đại
chúng. Đối với hàng trí thức thì Hội có những buổi luận đạo tối thứ Năm,
học kinh Pháp Bảo Đàn là bộ kinh quý báu về Thiền tông cùng những bộ
kinh Đại thừa như Diệu Pháp Liên Hoa, Địa Tạng, Vô Lượng Thọ, Bát Nhã
Tâm Kinh... Mọi giới đều tùy căn cơ mà thọ lãnh và đều được thỏa thích.
Ban diễn giảng lúc đầu gồm có quý Thầy Quảng Minh, Quảng Liên, Thiện
Hòa, Huyền Dung, Thiện Hoa, sau này có quý đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ
Truyền, Võ Đình Dần, Nhuận Chưởng, Tống Hồ Cầm...
Chùa Xá Lợi cũng là nơi tổ chức lễ tiếp nhận và phát hành hai tập kinh
điển “Đại Tạng Kinh Việt Nam” vào ngày 31-8-1991. Từ năm 1981 cho đến
tháng 5 năm 1993, chùa đặt trụ sở Văn Phòng II Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam tại phía Nam. Kể từ rằm tháng Tư năm Quý Dậu (1993), Văn Phòng II
được dời về Thiền Viện Quảng Đức ở 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3. Do
lịch sử quan trọng và vị trí lớn lao của chùa, trong việc hoằng dương
chánh pháp, chùa Xá Lợi từng tiếp các vị khách quốc tế, cũng là nơi
thường xuyên có nhiều du khách, Phật tử tham quan. Dù ở vùng trung tâm
thành phố lớn, nhưng ngôi chùa này vẫn giữ phong cách trang nghiêm.
Chùa Xá
Lợi
Cũng như chùa Ấn
Quang, chùa Xá Lợi là một địa danh lịch sử Phật Giáo, gắn liền với cuộc
vận động tranh đấu của Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật Giáo chống chế độ
độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm năm 1963, trở thành ngôi chùa lịch
sử. Cả hai ngôi chùa còn là trung tâm giáo dục tăng ni, thuộc hội Phật
Học Nam Việt. Về xây cất thì hội Phật học Nam Việt đã kiến tạo chùa Xá
Lợi, một công trình kiến trúc mới mẻ và thích hợp với phong trào canh
tân PG.
Phải kể lại
từ tháng tư năm 1953, Đại đức Narada, tọa chủ chùa Vajirarama ở Sri
Lanka sang thăm Việt Nam, phụng thỉnh theo ba viên xá lợi của đức Phật
và ba cây bồ đề con trồng trong ba chậu nhỏ, định cúng cho ba nơi : Phật
Giáo Nguyên thủy (Kỳ Viên tự), Phật Giáo Đại thừa và Phật Giáo
Campuchia. Được ủy nhiệm, đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền cầm đầu một
phái đoàn hợp cùng phái đoàn của Ban cung nghinh do PG Nguyên thủy tổ
chức, lên tận phi trường nghinh tiếp ĐĐ và các bảo vật.
Đến năm 1956,
Hội Phật học Nam Việt quyết định xây chùa mới tại một vị trí khác, để có
nơi xứng đáng phụng thờ di bảo của đức Thế Tôn và đủ chỗ cho thiện tín
đến lễ bái. Một năm rưỡi sau, nghĩa là đến năm 1958, chùa mới hoàn
thành. Hội Phật học Nam Việt có kính nhờ Hòa Thượng Khánh Anh, lúc ấy là
Pháp chủ của Giáo hội Tăng già Nam Việt, đồng thời là Chứng minh Đại đạo
sư của Hội Phật học Nam Việt, đặt tên cho chùa, nơi có thờ ngọc xá lợi
Phật. Hòa Thượng dạy : “Công chúng thường gọi là chùa thờ Xá Lợi thì lấy
tên ấy cho hợp”. Trong lúc xây cất, Hội có cho cắm một tấm bảng cổ động
tại công trường về việc xây cất chùa thờ xá lợi. Thiện tín sau đó đã gọi
tắt là chùa Xá Lợi.
Chùa Xá Lợi xây
cất trên một thửa đất thuê của đô thành Sài Gòn, diện tích hơn 2.500 mét
vuông, tọa lạc ở góc đường Bà Huyện Thanh Quan và Lê Văn Thạnh (nay là
đường Sư Thiện Chiếu). Theo Nghị định số 216-HCSV/P2 ngày 19-1-1956 của
Chính phủ tại Nam Việt, Hội Phật học Nam Việt được phép lạc quyên khắp
21 tỉnh có Tỉnh hội và Chi hội thuộc hệ thống tổ chức của Hội Phật học
Nam Việt, lấy tiền xây chùa. Nhờ sự sốt sắng đóng góp của các Phật tử
hội viên, Hội đã thu được đủ tiền bạc để bắt tay vào việc khởi công đào
móng vào ngày 05-8-1956. Công trường được đặt dưới sự đôn đốc của hai kỹ
sư Dư Ngọc Ánh và Hà Tố Thuận, thi công theo họa đồ của hai kiến trúc sư
Trần Văn Đường và Đỗ Bá Vinh.
Cấu trúc ngôi
chùa này gồm có: chánh điện, giảng đường, thư viện, văn phòng, phòng hội
đồng, phòng họp, phòng khách, phòng tăng và vãn sinh đường. Chánh điện ở
lầu một, dài 31 mét, rộng 15 mét. Một pho tượng Phật bằng xi măng và
thạch cao được Giáo sư Trương Đình Ý đắp rất đẹp, nhưng vì quá lớn,
không thể đem lên chánh điện trên lầu được, nên phải nhờ trường Mỹ nghệ
Biên Hòa đắp pho tượng khác bằng bột đá màu hồng, giá lúc bấy giờ là
180.000 đồng, làm khuôn ngày 12-2-1958, tức là ngày 24 tháng Chạp năm
Đinh Dậu. Lễ khánh thành chùa Xá Lợi được cử hành trong 3 ngày 2, 3, 4
tháng 5 năm 1958, tức là 14, 15, 16 tháng 3 năm Mậu Tuất, trong niềm
hoan hỷ của mọi người.
Chùa Xá Lợi có
một cổng tam quan chính trông ra đường Bà Huyện Thanh Quan, một cổng tam
quan phụ trông ra đường Lê Văn Thạnh (nay là đường Sư Thiện Chiếu) và
một cổng phụ để xe cộ ra vào. Cổng tam quan chính có một tầng mái, cổng
tam quan phụ xây cất sau thì lớn hơn, có mái trùng thiềm, có những hàng
“công son” chồng đấu, trên mái cổng có gắn hình bánh xe pháp tượng trưng
cho sự truyền bá giáo lý nhà Phật. Hai cổng tam quan đều có những cánh
cửa bằng sắt hoa uốn theo hình hoa sen, cành lá cuốn quanh một bánh xe
pháp.
Chùa Xá Lợi chỉ
thờ một tượng Phật Thích Ca Mâu Ni lớn, chứ không thờ nhiều Phật như các
chùa xưa. Theo quan niệm của Hội Phật học Nam Việt thì khi lễ Phật cần
phải nhất tâm hướng về Phật, chí tâm chí thành trụ vào một nơi, đó là
đức Phật với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, nét mặt từ bi, dáng ngồi ngay
thẳng, lộ vẻ nghiêm trang đại hùng đại lực ; các Phật tử lễ Phật, niệm
Phật phải đặt hết tâm trí vào một chỗ thì mới phát huy được cái diệu
dụng của tâm, có thành tâm mới có cảm ứng.
Tượng Phật ở
chùa Xá Lợi là tượng đức Thích Ca Mâu Ni ngồi kiết già trên tòa sen, nét
mặt hoan hỷ mà oai nghiêm, vừa từ bi vừa hùng lực, dáng ngồi ngay thẳng,
thân hình khỏe mạnh, hiện thân của Chân Thiện Mỹ, biểu tượng của Pháp
thân bất diệt. Pho tượng Phật ở chùa Xá Lợi là một kiệt tác mỹ thuật,
dùng làm mẫu mực cho nhiều tượng Phật các chùa sau này.
Tường bao quanh
bái đường được trang trí bên trên bằng những bức tranh mô tả đời sống
đức Phật Thích Ca từ khi Đản sanh, Xuất gia, Thành đạo, Thuyết pháp đến
lúc nhập Niết bàn, do Giáo sư Nguyễn Văn Long thực hiện, tranh vẽ rất
linh động trông như phù điêu đắp nổi.
Sau chánh điện
là nơi thờ Tổ, bàn chính giữa thờ di ảnh của 4 vị cao tăng: Huệ Quang,
Tuyên Linh Lê Khánh Hòa, Khánh Anh và Quảng Đức. HT Huệ Quang là Phó Hội
chủ Tổng hội PG Việt Nam, Chứng minh Đại đạo sư Hội Phật học Nam Việt,
đã góp phần rất lớn trong việc xây dựng và phục hưng PG Việt Nam. Năm
1956, ngài đi dự Hội nghị PG Liên hữu Thế giới nhóm họp ở Nepal và đã
viên tịch ở Ấn Độ. HT Tuyên Linh Lê Khánh Hòa là một trong những vị sáng
lập Lưỡng Xuyên Phật học Hội, đề xướng phong trào tu học Phật pháp,
xương minh giáo lý Phật Đà. HT Khánh Anh là Pháp chủ Giáo hội Tăng già
Nam Việt, có công lớn trong việc đào tạo Tăng tài, in kinh dịch sách, để
truyền bá đạo Phật tại miền Nam. HT Quảng Đức là người đầu tiên đã vị
pháp thiêu thân ngày 20 tháng 4 nhuận âm lịch năm Quý Mão, tức là
11-6-1963 tại Sài Gòn, nguyện biến nhục thể thành ngọn đuốc soi đường
cho nhà cầm quyền độc tài gia đình trị họ Ngô thời bấy giờ hãy tỉnh ngộ,
sáng suốt tránh việc chia rẽ tôn giáo, đàn áp PG. HT có lúc là trụ trì
chùa Phước Hòa, trụ sở trước kia của Hội Phật học Nam Việt. Bốn vị cao
tăng này được Hội suy tôn là Tổ sư, mỗi năm đều làm lễ giỗ kỷ niệm long
trọng. Gần đây có thờ thêm di ảnh của HT Thích Thiện Hào là viện chủ, do
Ban Quản trị cung thỉnh về trụ xứ cùng Tăng chúng chùa Xá Lợi.
Tháp chuông xây
ngay gần hàng rào cạnh cổng tam quan chính cách xa chánh điện, làm trang
trí cho ngôi chùa. Tháp chuông được khánh thành ngày 23-12-1961, có 7
tầng, mỗi tầng thờ một vị Phật, có 4 mặt phẳng lớn và 4 mặt góc nhỏ, tạo
thành một hình bát giác, có mái che cong cong bước lên hình đầu đao, đó
là nét kiến trúc đặc biệt của mỹ thuật PG Việt Nam. Các dãy nhà của chùa
kiến trúc theo chiều ngang rộng, cho ta cảm giác vững vàng yên ổn trong
một khung cảnh yên tịnh thư thái, thì cây tháp lại vọt cao để điều hòa
bằng luật tương phản, cây tháp cũng tự điều hòa chiều cao của mình bằng
nhiều tầng mái; hình dáng cao vọt của tháp vượt khỏi vòm cây lên nền
trời xanh tiêu biểu cho một mục đích cao xa, một ý chí vươn lên, một tư
tưởng siêu trần, một chủ nghĩa thoát tục.
Chánh điện có
nhiều cửa sổ cho thoáng khí, mỗi cửa sổ được gắn những kiếng màu xếp đặt
thành màu cờ PG.
Ở tầng trệt, từ
cổng tam quan chính đi thẳng vào là giảng đường, ngay đằng trước có treo
một bức hoành phi cổ, trên viết bốn chữ Nho “Đông thùy pháp vũ”, tương
truyền là thủ bút của Từ Hy Thái hậu. Bức hoành phi cổ này vừa được thay
thế bằng một tấm bảng có ghi chữ “Giảng đường Chánh Trí”, để tưởng niệm
công đức của cụ Hội trưởng khai sáng Hội Phật học Nam Việt, đã suốt 21
năm. Cụ quy tịch ngày Rằm tháng Ba năm Quý Sửu (17-4-1973).
Ngày 01-7-1973,
lễ khai môn được cử hành hết sức trang nghiêm do ĐĐ Narada và quý Tăng
chúng trong Ban Trụ trì chùa Xá Lợi. Giảng đường rộng rãi, chứa được 400
chỗ ngồi ; trước đây vào mỗi sáng Chủ nhật, sau khóa lễ Tịnh độ đều có
buổi thuyết pháp thường xuyên do cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền phụ trách.
Giảng đường này đã hân hạnh đón tiếp nhiều giảng sư quốc tế nổi danh như
Quốc sư Diễn Bồi, ĐĐ Narada, Giáo sư Khantipalo... cũng như những giảng
sư có biệt tài trong nước thuộc Ban Hoằng pháp Giáo hội Tăng già Nam
Việt và Phật học đường Ấn Quang. Nhiều bộ kinh Phật quý báu đã được
giảng giải rành rẽ, sự lý viên dung, nhiều mật nghĩa được làm cho sáng
tỏ và dễ hiểu, hợp với trình độ hiểu biết cao siêu của hàng Phật tử trí
thức. Có thể nói, giảng đường là trọng tâm hoạt động của Hội Phật học
Nam Việt, là trái tim của chùa Xá Lợi, là nơi truyền bá chánh pháp của
Như Lai.
Về mặt kiến
trúc, thì chùa Xá Lợi là một kiến trúc theo lối mới, dùng những vật liệu
nặng như bê-tông, sắt, đá, gạch, ngói..., những nhà kiến trúc khéo léo
đã cố gắng tô điểm bằng những mái cong đầu đao, những “công sơn” chồng
đấu, những bánh xe pháp... khiến chùa vẫn còn vẻ thuần túy Á Đông, những
đề tài trang trí là những hình hoa sen có dây leo lá cuốn uốn vòng ,vẻ
sinh động, đẹp đẽ, mềm mại.
Chùa Xá Lợi qua nhũng biến chuyển lịch sử
Giai đoạn 1:
Năm 1963 chùa Xá Lợi trở thành nơi phát xuất cuộc tranh đấu chống đàn áp
PG.
Ngày 16. 5. 1963, phái đoàn Tổng hội Phật giáo Việt Nam mở cuộc họp báo
tại chùa Xá Lợi, công bố bản tuyên ngôn 5 nguyện vọng Phật giáo đồ ngày
10. 5. 1963 và các bản phụ đính, phụ trương, tố cáo những vụ đàn áp,
giam cầm mà Phật giáo phải chịu nhiều năm qua.
Ngày 21. 5. 1963, một cuộc lễ rước linh vị các nạn nhân bị chết do cuộc
đàn áp Phật giáo từ chùa Ấn Quang về chùa Xá Lợi. Một đoàn Tăng ni khác
gồm 350 vị xuất gia xuất phát từ chùa Xá Lợi bắt đầu một cuộc diễn hành
khác, hướng về trụ sở Quốc hội.
Ngày 25. 5. 1963, hôi nghị giữa các đoàn thể thuộc Tổng hội Phật giáo và
đại diện tông phái Phật giáo thảo luận về kế hoạch đấu tranh. Một Ủy ban
Liên phái Bảo vệ Phật giáo được thành lập tại chùa Xá Lợi để chỉ đạo cho
cuộc vận động.
Ngày 30. 5. 1963, các lực lượng cảnh sát, công an và mật vụ phong tỏa
các nẻo đường bao quanh chùa, trấn áp cuộc tuyệt thực của gần 400 Tăng
ni tại đây.
Giai đoạn 2:
Ngày 11. 6. 1963, một cuộc tuần hành xuất phát từ chùa Phật Bửu đi đến
ngả tư Lê Văn Duyệt- Phan Đình Phùng và dừng lại đây. Hòa thượng Thích
Quảng Đức đã tự thiêu thân, cầu nguyện đạo pháp trường tồn, chính quyền
nhà Ngô thức tỉnh. Nhục thân của Ngài được đưa trở về chùa Xá Lợi quàn
tại đây trước khi đưa đi hỏa táng. Quả tim bất diệt ấy được đưa về thờ
phụng tại chùa Xá Lợi trong suốt cuộc cuộc đấu tranh.
Ngày 15. 7. 1963, chư Tăng chùa Xá Lợi và các vị lãnh đạo phong trào
trong Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo bắt đầu một cuộc tuyệt thực mở
đầu giai đoạn đấu tranh đòi thực thi bản thông cáo chung mà chính quyền
ký với Phật giáo.
Giai đoạn 3:
Ngày 17. 7. 1963, khoảng 400 Tăng ni đến tập họp tại chùa Xá Lợi. Sau
khi lễ Phật và mặc niệm tại chánh điện, họ xếp hàng diễu hành đến chợ
Bến Thành, giương biểu ngữ yêu cầu chánh phủ thực thi bản thông cáo
chung. Đoàn diễu hành đã bị cảnh sát đàn áp chở đi giam giữ ở An Dưỡng
Địa Phú Lâm. Đến ngày 20.7 mới được thả ra trở về chùa Xá Lợi. Rất
nhiều vị bị trọng thương.
Ngày 23. 7. 1963, Ni sư Diệu Huệ mở cuộc họp báo tại chùa Xá Lợi cho
biết bà sẽ thiêu thân để chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo của chính
quyền Ngô Đình Diệm. Ni sư Diệu Huệ là thân mẫu của ông Bửu Hội, một nhà
Bác học hiện đang làm đại sứ cho chính quyền Diệm tại nhiều nước thuộc
Tây Phi Châu.
Ngày 1.8.1967. khoảng 300 anh em thương phế binh đã tự động tập họp tại
chùa Xá Lợi, làm lễ ở chính điện. Đại diện của họ gặp chư vị lãnh đạo ủy
ban liên phái phát nguyện ủng hộ cuộc đấu tranh. Cùng ngày này, Hòa
thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết đã gởi một điện văn cho Tổng thống Hoa
Kỳ J. F. Kennedy phản đối sự dối trá của đại sứ Mỹ F. Nolting khi tuyên
bố với hãng thông tấn UPI rằng không có chuyện kỳ thị tôn giáo và ngược
đãi Phật giáo đồ tại Việt Nam.
Ngày 5. 8. 1963, lễ kỳ siêu Thánh tử đạo Thích Nguyên Hương được tổ chức
tại chùa Xá Lợi, số lượng Tăng ni và các đoàn thể Phật tử tham dự lên
đến hai mươi ngàn người. Ngày 12. 8. 1963, Nữ sinh Mai Tuyết An đến chùa
Xá Lợi chặt bàn tay trái của mình để cảnh cáo chính quyền. Ngày 18. 8.
1963, lễ cầu siêu cho tất cả những vị đã thiêu thân vì bảo vệ Phật giáo
diễn ra tại chùa Xá Lợi, trên ba mươi ngàn người đã đến tham dự. Sau đó
là một cuộc tuyệt thực của mười ngàn người, thuộc các đoàn thể Sinh viên
PT, Học sinh PT và đoàn Thanh niên Bảo vệ Phật giáo. Ngày 20. 8. 1963,
chính quyền Diệm ra lệnh tấn công chùa Xá Lợi vào lúc nửa đêm rạng sáng
21. 8 . Khoảng 200 người thuộc lực lượng đặc biệt đã tấn công trong sự
chống cự quyết liệt của Tăng ni cố thủ bảo vệ những vị lãnh đạo tối cao
của Ủy ban Liên phái. Ngót 250 vị Tăng ni đã bị bắt tại chùa Xá Lợi.
Chùa Xá Lợi bị tàn phá tan hoang, tượng Phật Thích Ca tại chánh điện
cũng bị xâm phạm. Cuộc tấn công này xảy ra toàn diện khắp nơi, hơn 1.400
Tăng ni đã bị bắt. Sự kiện này đã dấy lên làn sóng phản đối quyết liệt
của tất cả các tầng lớp xã hội, biến thành cuộc phản kháng mạnh mẽ đưa
đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm trong cuộc chính biến ngày
1. 11. 1963.
Tài liệu:
Kiến trúc Phật Giáo Việt Nam - Nguyễn Bá Lăng
Danh lam nước Việt – Võ Văn Tường & Huỳnh Như Phương
Những ngôi chùa danh tiếng - Nguyễn Quảng Tuân
Những ngôi chùa ở thành phố Hồ Chí Minh - Nguyễn Quảng Tuân
Hội Phật Học Nam Việt và chùa Xá Lợi - Tống Hồ Cầm
Chùa Việt Nam – Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long
Việt Nam Phật Giáo Sử Luận - Cuốn 3 - Nguyễn Lang
http://www.buddhismtoday.com/viet/vh/chuaXaLoi.htm