Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

 

...... ... .  . .  .  .
CHÙA VÀNG, CHÙA BẠC MIẾN ĐIỆN
 
Kiêm Đạt

 

 Gọi là “chùa vàng, chùa bạc” của Phật Giáo Miến Điện để chỉ toàn bộ những điện đài đa phần trang trí bằng vàng khối, bạc khối ở hai trung tâm nổi tiếng: Pagan thời cổ và Rangoon thời mới. Những điện đài nầy được kế tục kiến tạo từ thế kỷ XI  dưới triều vua Anoratha, một trong ba vị anh hùng của Miến Điện, người chấn hưng PG.  Miến Điện dịch theo từ Burma, hay Union Myanmar, còn gọi tắt là Myanmar, hay gọi chung là Burmese Myanmar  (B. M) một trong những quốc gia Phật Giáo nổi tiếng vùng Đông Nam Á. Một lối định danh theo nghĩa ban đầu là Pyidaungzu Myanmar Naingngandaw (thế kỷ IV TL), mang ý nghĩa là  “xứ sở nằm dọc theo bờ Đông Tây của vịnh Bengal và biển Andaman”.

 

 

 

Theo thống kê năm 2006, Miến Điện có dân số 46 triệu người trên một diện tích 677.000 kí lô mét vuông bao gồm nhiều sắc tộc cùng chung sống từ nhiều thế kỷ: 65% là người Miến Điện, 11% người Chan, 6% người Karen, và 4% gồm người Rakhine, Chin, Kachin, Mon, Chinese, Indian, Assam và một số bộ tộc thiểu số ít ỏi.  Ở những vùng khác nhau trên đất nước nầy, các ngôn ngữ thường được sử dụng phải kể đến: tiếng Burmese, Karen, Chin, Shan và Kachin. Miến Điện là quốc gia Phật giáo theo truyền thống Theravada, theo thống kê thì: tỷ lệ 87% dân số theo Phật giáo, 5% theo Thiên chúa giáo, 4% là Hồi giáo, và 3% thuộc tín ngưỡng khác.  Một thời Hồi Giáo chủ đạo tôn giáo nước nầy.

 

Tính từ thế kỷ XI cho đến nay,  Miến Điện là xứ sở với số lượng đền đài chùa tháp đồ sộ và rộng lớn khắp nơi đầy tích cách thiêng liêng huyền bí. Như tháp Kyaktiyo, nơi đây có một khối đá to nằm chồng lên một hòn đá nhỏ hơn nhưng không hề dính sát nhau, có thể kéo một sợi dây xuyên qua dễ dàng, và khi khách hành hương đưa tay vào khoảng cách giữa hai khối đá, họ cảm nhận khối đá ấy đang lung lay. Truyền thuyết  và huyền thoại cho rằng: khi xưa có một vị tăng may mắn giữ được một sợi tóc xá lợi Phật, vị ấy vô cùng trân quý. Khi biết mình sắp mệnh chung, vị ấy lo sợ cho rằng: Trong trường hợp mình mất đi, thì không ai có thể chú tâm đến việc gìn giữ xá lợi quý báu ấy. Vị Đế Thích biết tâm vị ấy như vậy nên cho khối đá hiện ra và an trí xá lợi tóc vào đó để bảo vệ. Người dân ở đây vẫn tin vào luận thuyết đó! Ngày nay, khối đá ấy được phủ toàn vàng ròng vẫn an nhiên đứng trong trời đất như chứng tỏ sự linh thiêng huyền bí làm cho khách hành hương không khỏi ngạc nhiên và kính ngưỡng (theo Towards Pagan- Zimmer-1937).

Khi nhận định về  những “chùa vàng, chùa bạc” Miến Điện, trong cuốn “2500 Year of Buddhism”, nhà sử học C. Sivaramamurti cho rằng: Trong nghệ thuật Phật Giáo Miến Điện, các ngôi tháp nguyên thủy đơn giản hơn và gắn liền với nguyên mẫu Ấn Độ của thể loại hình nầy. Chẳng hạn: Ngôi tháp Ngakye Nadaun kiến tạo vào  thế kỷ thứ X ở trung tâm Pagan thì giống với tháp Dhamekh ở Lộc Uyển. Chùa Đại Bồ Đề (Mahabodhi) ở Rangoon thì lại giống như chùa Đại Bồ Đề ở Gaya. Các ngôi tháp khác của Miến Điện vào thế kỷ XI và XII thường xây 1/3 trên một bệ vuông và có phần phức tạp hơn tháp Shwe-dagon hiện đại nhất ở Rangoon rất giống với một chóp đỉnh có đầu cắt cụt được đặt ngược. Trong ngôi đền Ananda ở Pagan thuốc cuối thế kỷ XI, những bản điêu khắc về cuộc đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà trong đó, thấy rõ ảnh hưởng của phong cách Pala và Kalinga ở Ấn. Cũng có thể dẫn thêm những mẫu truyện trích trong Túc Sanh Truyện (Jataka) tại ngôi chùa Petleik ở Pagan. Thậm chí đến kiểu chữ ghi chép lại chú thích Túc Sanh Truyện rất giống kiểu Vengi ở khu di tích Krishna ở Ấn. Rõ ràng là ảnh hưởng qua lại của hai quốc gia nầy rất chặt chẻ.

Miến Điện lại có thành phố cổ Pagan (hay Bagan) với hàng ngàn ngôi tháp đủ kiểu đủ dạng rất sắc xảo về nghệ thuật, có nhiều Chùa Tháp to lớn như: Chùa Shwe-dagon, tháp Manuha, tháp Thatbyinnyu… Nhưng bây giờ, thành phố nầy hoàn toàn hoang vắng vì không còn dân chúng cư ngụ nơi đó. Thỉnh thoảng vài đoàn hành hương đến thăm viếng vào ban ngày rồi lại ra đi. Thật ngạc nhiên với một thành phố đầy kiến trúc công phu như thế chắc chắn là đã trải qua một thời sung túc phồn thịnh mà ngày nay trở nên tuyệt nhiên vắng lặng không dân cư.

Lại có một nơi gần Mandalay, có một khu đất được an trí 9,000 tượng Phật ngồi dưới nhiều cội cây bồ đề. Ngoài ra còn một số tượng Phật to hơn so với những tượng bên trong được đặt thành một dãy dài hai bên trước khi vào cổng. Và ở vùng đồi Sagaing Hills có hơn 900 ngôi Chùa với hơn 9.000 Tăng Ni, nơi đây số lượng tu sĩ đông hơn so với dân chúng sống xung quanh.

Mặc dù  trong tình thế và bối cảnh hiện nay, Miến Điện rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị triền miên, tuy nhiên Phật Giáo vẫn thủ vai trò chủ đạo.

Thời kỳ Phật Giáo Miến hưng thịnh

Năm 1044, Anoratha người anh hùng dân tộc đã mở đầu một giai đoạn mới trong lịch sử Myanmar. Pagan trở thành ngọn nguồn của đất nước, để từ đây bắt đầu hình thành tinh thần và văn hóa dân tộc này.  Anoratha là vị vua rất sùng kính đạo Phật, nên ngay sau khi thống nhất đất nước, ông đã rất chú trọng đến việc phát triển Phật giáo Theravada. Do nhân duyên từ thời tuổi trẻ phải theo cha ẩn cư trong chùa. Ở đây, Anoratha bắt đầu tiếp thu tư tưởng Phật giáo dưới sự dẫn dắt của cao tăng Arhano, pháp danh Dhammadassi. Trưởng lão Arhano theo trường phái Phật giáo Theravada, có tài hùng biệt, tinh thông Tam tạng, có tâm huyết với sự phát triển Phật giáo và tinh thần quốc gia. Chính nhờ những giải thích rõ ràng của trưởng lão Arhano mà Anoratha am tường giáo lý Phật giáo và rất hiểu về tình hình sinh hoạt Tăng đoàn Phật giáo bấy giờ.

Vì vậy, sau khi thống nhất quốc gia, vua Anoratha rất chú trọng tới việc cải cách Tăng đoàn và thống nhất giáo lý Phật giáo. Vốn có sự hiểu biết và thiện cảm với Phật giáo Theravada nên vua Anoratha đã chọn tư tưởng Phật giáo này làm quốc giáo và đưa nó trở thành hệ tư tưởng phổ biến trong dân chúng. Do nhu cầu muốn phổ biến rộng rãi Phật giáo trong dân gian, nên Tam tạng Pali trở thành cần thiết. Theo lời đề nghị của trưởng lão Arhano, vua Anoratha phái sứ giả đến xứ Thaton xin được ban tặng Tam tạng và xá lợi Phật. Quốc vương Thaton chẳng những không cho mà còn làm nhục sứ giả. Vua Anoratha tức giận phái quân đến đánh Thaton, kết quả Thaton đại bại. Vua Anoratha cho thu thập kinh Tam tạng cùng các sách văn vật tại các trung tâm Phật giáo Thaton với hơn 500 nhà sư thuộc Thượng tọa bộ giới luật trang nghiêm, cùng các nhà nghệ thuật, thợ thủ công… và cả vua Thaton cũng bị bắt làm tù binh (tu ở một ngôi chùa ở Pagan). Đây là sự kiện lớn trong lịch sử Phật giáo ở Myanmar (1057), đánh dấu sự hùng mạnh của vương triều Pagan.

Để phát triển Phật Giáo trong dân gian nhà vua đã cho xây dựng nhiều chùa tháp, đúc nhiều tượng Phật với kích cỡ khác nhau trên mọi miền đất nước Tháp “Phật cung Thụy Hải” (Shwe-dagon) là ngọn tháp nổi tiếng ở Pagan (khác với chùa cùng tên ở Rangoon). Ngọn tháp thiêng nầy được khởi công vào muà thu năm 1059, mãi cho đến nhà vua băng hà vẫn chưa hoàn tất. Người kế vị đã tiếp tục, hoàn thành năm 1087. Ngôi tháp hình chiếc chuông vàng. Tài liệu lịch sử Myanmar cho biết: Trong ngôi tháp nầy có cất giữ chiếc xương bả vai trước và chiếc răng Phật (trich Sử thoại Miến Điện). Trong giai đoạn nầy, Ceylan là trung tâm của Phật Giáo Nam Truyền. Vua Myanmar đã cử một phái đoàn tăng sĩ đông đảo sang thỉnh kinh, mời tăng và học tập kinh nghiệm kiến trúc. Do đó, chùa tháp Miến cũng ảnh hưởng mỹ thuật Ceylan không ít. Khi Ceylan bị người Madras và người Chola xâm lăng, vua Myanmar đã cho quân lực hùng hậu sang giải cứu. Sự bành trướng Phật Giáo  Nam truyền lại được lan toả từ quốc gia nầy.

 

Đền tháp Pagan

 

Trong lịch sử kiến trúc vùng Đông Nam Á, sau Borobudur và Angkor, thì phải kể đến khu vực những đền tháp Pagan (Vạn Phật Tự). Qua thời gian, Pagan bị hoang phế lâu đời. Những gì còn lại là do khai quật và chỉnh tu khoảng 1945-1946. Chính những công  trình kiến trúc và  điêu khắc nầy đã  đem lại niềm tự hào của nền nghệ thuật kiến trúc Á Đông tiêu biểu.  Không ở đâu trên đất Á Châu, kể cả đất Ấn Độ, chỉ tại một khu vực nhỏ thôi  mà mật độ  các di tích  chùa tháp lại  dày đặc như  tại Pagan. Thành  phố cổ Pagan chỉ có diện  tích khoảng 40km2,  quy hoạch bình  đồ vuông, nằm trên bờ sông Iraouaddhi. Theo những  truyền thuyết kể  lại thì vua  Anaoratha bắt đầu  theo Phật Giáo, liền sai sứ thần sang nước láng giềng Thaton của người Môn vốn  theo đạo Phật  để cung thỉnh  một số kinh  sách về phiên dịch. Nhưng vua nước Thaton khước từ. Vua Anoratha đem binh sang chinh  phạt Vương  quốc Thaton,  không những  thu hồi được nhiều kinh sách và  tượng Phật Giáo, mà còn bắt  nhiều thợ thủ công của Thaton đưa  về Pagan, để  tham gia ngày  đêm trong việc  xây dựng chùa tháp Pagan. Pagan hồi đó là kinh đô văn hoá lớn.

Cùng với việc biên dịch và hiệu đính toàn bộ Tam tạng, vua Anoratha liền cho xây dựng một tòa lầu trang nghiêm hùng vĩ, cất giữ các bộ Tạm tạng để cúng dường Phật, đồng thời còn cho xây dựng nhiều chùa, tháp khắp đất nước Myanmar, trong đó, nổi tiếng nhất là tháp Shwe-dagon. Khi nhà vua qua đời, ngôi tháp này vẫn chưa xây xong, con ông tiếp tục hoàn tất. Ngôi tháp hình chiếc chuông vàng, trong tháp cất giữ thánh vật là chiếc xương bả vai trước và chiếc răng của Đức Phật. Pagan trở thành một đô thị tâm linh, một cõi đi về của cội nguồn dân tộc Myanmar. Chính nhờ sự tận lực hộ trì của vua Anoratha, nên Phật giáo vương triều Pagan đã trở thành trung tâm văn hóa Phật giáo Nam truyền lúc bấy giờ. Vua Sri Lanka có lần sai xứ tới Myanmar để thỉnh cầu vua Anoratha ban cho Tam tạng kinh và cử tăng đoàn sang Sri Lanka truyền thừa giới pháp. Vì những cống hiến to lớn cho Phật giáo của Anoratha, nên nhà vua được tôn là “vua Asoka” của Myanmar.

Sau khi Anoratha qua đời, người kế nghiệp bất tài, nên đã xảy ra phản loạn. May thay, một người con khác lên nối ngôi, tên là Tilinman đã củng cố lại vương triều. Đây là một vị vua anh minh và cũng là một Phật tử thuần thành, ông tiếp tục mở mang lãnh thổ, phát triển đất nước, và đưa Pagan bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ nhất. Tilinman đã xây cho mình một đài kỷ niệm xứng danh, đó là chùa Ananda. Ananda nổi lên lộng lẫy giữa đô thị cổ Pagan, đứng một mình ngạo nghễ giữa trời xanh và thách đố với thời gian.

Năm 1300, vó ngựa xâm lăng của Mông Cổ buộc những cư dân ở đây phải rời bỏ thành Pagan cổ kính thiêng liêng, mặc cho những cơn gió cuốn theo lớp bụi vàng của vùng cao nguyên cháy nắng phủ lên những đền đài trầm mặc, cô tịch. Vương triều Pagan tồn tại gần 3 thế kỷ và đều lấy Phật giáo Theravada làm quốc giáo. Điều này không chỉ có ý nghĩa thuần tuý về mặt tôn giáo mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành quốc gia dân tộc, và văn hóa Phật giáo đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong nền văn hóa Myanmar.

Lúc nầy có trên 5,000 chùa  tháp, nhưng qua thời gian và chinh chiến hiện nay chỉ còn khoảng 2,300 ngôi chùa tháp.  Hầu hết những chùa tháp Pagan được  kiến tạo vào khoảng thế kỷ XI- XII, dưới triều đại Pagan. Những nhà khảo cổ UNESCO cho rằng:  "Pagan là cả một rừng kiến trúc Phật Giáo Tiểu  Thừa".  Cũng tại đây, đã chứng  minh rõ nét nhất về tinh hoa và  tài năng của dân tộc Miến Điện  được thể hiện qua các đền  tháp, biểu hiện phong  cách kiến trúc truyền  thống Miến Điện trong giai đoạn hình thành và phát triển. Phật Giáo phát triển tại Miến Điện bởi những sắc dân người Môn và người Piuk, vốn từ Ấn Độ sang.  Cho đến năm 1001, triều đình Miến Điện đã  thừa nhận vị  Tăng Thống  của  Phật Giáo là  Đại Lão Hoà Thượng tại  Pagan.

 Pagan một thời  là kinh đô của  triều đình vua Anoratha. Pagan được kiến tạo từ đó. Pagan  có tên cổ là Arimadda Napura có nghĩa là "Thành  phố đạp chân lên kẻ thù",  ám chỉ sự chiến thắng những bộ tộc người Môn tại Thatôn.Đi từ  cổng đền vào,  có hai ngôi  đền thờ, khắc  chạm hình những Maha Girinat. Đây  là vết tích của đạo Nak  có từ trước của người dân Miến.Đi vào trung  tâm của khu vực nầy,  tất cả những đền tháp  đều có tên (phần  đuôi) là "Cetiya"  hay là "Gu"  (tháp hay chùa). 

Theo danh từ  Phật học, "Cetiya" biểu  trưng cho Phật và  Pháp. Cetiya gần với khái  niệm "Stupa" (Tháp) của Ấn Độ.  Tất cả có đến 2,289 Cetiya. Những ngôi tháp  ở Pagan được phân chia ra  làm 4 loại khác nhau, tùy tầm cỡ và tùy phong cách:  Loại thứ nhất là  loại stupa (tháp)  hình bầu, hơi giống  như kiểu tháp Chorten của Tây  Tạng, Boutan. Ngôi tháp có niên  đại sớm nhất của loại nầy xuất hiện vào thế kỷ VIII có tên là Pupaya, do những thổ dân người Piuk xây lên. Loại thứ nhì là một  loại Stupa hình quả chuông, ở  giữa có những đường gờnổi lên, trang trí bằng những hoa  văn. Chóp của loại tháp nầy là đỉnh cao nhất  của những đường gờ bao quanh.  Không xác định được niên đại của loại tháp nầy, nhưng nhiều tư liệu cho biết là triều đình  vua Aniruddha  rất tán  thưởng phong  cách kiến  trúc nầy. Những Stupa loại  này có nền hình bát giác,  có 1 hay nhiều tầng,với những hồi lang bao quanh. Thông thường thì Stupa và nền được xây dựng lên trên một hình Kim tự tháp khổng lồ. Loại thứ ba cấu  tạo theo kiểu hình  chuông và cũng có  những đường gờ ở giữa.  Nền hình tròn hay hình  bát giác. Trên đỉnh vòm chuông được kiến trúc  theo hình bát giác.  Tất cả được trang  trí hài hoà và  cân đối. Loại thứ tư  cũng cấu trúc  hình chuông, có nền tròn, nhiều  bậc, không có hành lang rộng, không có những đường gờ.  Hầu hết bên ngoài những chùa tháp Myanmar đều có tạc Thần Hộ Vệ. Những vị Thần chính nầy phải kể: Thần Virupaksa, Thần Virudhaka, Thần Dhtarastra và Thần Kubera. Những tượng nầy rập theo khuôn mẫu ở chùa tháp Bharhut (Ấn). Ảnh hưởng Ấn Giáo còn đọng lại với tượng Vichnou và tượng Shiva.

Nhìn chung  lại, cách loại Ceytiya  kể trên không giống  như kiểu kiến trúc Ấn Độ cùng thể loại  nầy. Chức năng của những tháp nầycũng  hoàn toàn  khác, vì  toàn bộ  dùng cho  những hoạt động tôn giáo. Họ muốn nêu lên biểu trưng  của Niết Bàn, mục đích cao nhất trên con đường tu  hành. Nền Kim tự tháp gợi lên  hình ảnh của vũ trụ, không gian hiện đang sống.

Những đền  tháp ở đây  đều dựa theo  mô hình kiến trúc Tích Lan và Ấn Độ. Người Miến Điện thường xây đền tháp trên những đỉnh  đồi, vì họ quan  niệm càng lên cao  chừng nào thì tâm hồn càng thanh thoát và xa trần tục bấy nhiêu.  Tại Pagan còn có một loại hình  kiến trúc Phật Giáo khác nữa: loại đền Gru. Những  loại đền nầy được thiết kế  trong những hang động và những giả sơn (Gru có nghĩa là hang). Phần bên trong của những đền hang nầy là một hệ thống hang động và các phòng vòm. Kiểu vòm  nầy rất  phổ biến trong những  kiến trúc Phật Giáo  tại Miến. Đây không phải  khuôn rập theo kiến  trúc Ấn Độ, mà  thực chất là của người Piuk thường xây. Đa số những  ngôi đền tại Pagan được xây  dựng trên những khu vực đất bằng  phẳng và có  nguồn gốc từ  những Stupa. Quá  trình hoàn thành các công trình nầy là do  người Ấn, người Môn và người Piuk hợp tác.

Đến Myanmar là bước vào một thế giới khác với hương vị, cảnh quan, và cảm giác hết sức quyến rũ, với một bầu không khí thật sự khác thường. Rangoon, thủ đô của Myanmar, là một nơi kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại, giữa một bên là một nền văn hoá Miến Điện thực thụ hoà cùng với những di sản thời thuộc địa sót lại, vẫn còn tồn tại hàng thập kỷ sau khi Anh quốc rút lui.  Nhịp đập của thành phố hoà nhịp cùng những con đường rộn rã của nó, tạo nên một nét rất riêng của đất nước: người Myanmar.  Chùa Kyaikhtiyo là một trong những ngôi cổ nhất và nổi tiếng nhất trong tất cả các ngôi chùa ở Myanmar. Chùa Kyaikhtiyo toạ lạc gần thị trấn Kyaikhto, quận Thaton và nhiều người tin rằng nó được xây dựng trong thời gian Đức Phật còn sống, trên 2.500 năm trước. Theo truyền thống của đạo Phật, tên ngôi chùa này được bắt nguồn từ "Kyaik" có nghĩa là "chùa" và "yo" có nghĩa là "ngự trên đầu của nhà ẩn dật"; còn trong tiếng Pali thì "ithi" nghĩa là "một nhà ẩn dật" và vì thế Kyaikhtiyo hàm ý "ngôi chùa mang đầu của nhà ẩn dật". Bởi vì truyền thuyết kể rằng sau khi một người tu hành xuống tóc vì Đức Phật thì không còn quyến luyến gì trần đời và toàn tâm đi tìm miền cực lạc. Nơi đây có một tảng đá thiêng, được bao bọc bởi những lá bằng vàng dát mỏng, nằm cheo leo trên bờ một vách đá. Truyền thuyết kể rằng, sở dĩ tảng đá giữ vững được vị trí của nó là nhờ có một sợi tóc của Phật Tổ được đặt ở một vị trí chính xác trong một cái tháp thờ cao đến 7,3m nằm trên khối đá này.

 Ngôi chùa được xây dựng trên một tảng đá tròn, hình quả trứng rất to lớn trên độ cao 1.100m so với mặt biển. Đây là một công trình kiến trúc tôn giáo nổi tiếng thế giới, một di sản văn hoá khổng lồ của nhân loại. Trước khi tới Yangon, những người nước ngoài đều đã có khái niệm sơ bộ về kỳ quan này qua sách báo, phim ảnh hoặc lời kể. Điều đáng nói là khoảng cách giữa khái niệm và thực tế là rất lớn, điều này tạo ra niềm hứng thú và cảm phục cho mọi người như khi chính ta đang đứng trước Angkor vĩ đại. Quần thể kiến trúc to lớn này toạ lạc trên đỉnh một khu đồi lớn với nhiều hệ thống bậc thang trải dài xuống tận chân đồi và một hệ thống thang máy hiện đại.  Từ dưới chân núi, bạn chỉ nhìn thấy duy nhất chởm đá nhô ra phía ngoài; nhưng khi lên đến đỉnh, cảnh quan diễn ra trước mắt là một quần thể kiến trúc thống nhất. Ngôi chùa Kyaikhtiyo cao gần đến 30mét với vô vàn tượng Phật được đặt khắp ngóc ngách, đặc biệt có một số tượng Phật được trang điểm bằng hàng nghìn viên đá quý, hàng trăm viên kim cương với hàng trăm chiếc chuông vàng. Toàn bộ khuôn viên chùa vàng có kích thước hình chữ nhật, cao hơn mặt bằng thành phố 20mét. Từ 4 hướng chính có 4 dãy cầu thang có mái ngói che phủ. Dãy cầu thang dài nhất có 175 bậc, dãy ngắn nhất 104 bậc. Hai bên các dãy bậc thềm là hàng loạt các nhà nghỉ cho khách hành hương. Để leo lên đến được đỉnh núi dài 12km tính từ vùng Kimmunsakhan, du khách phải leo bộ qua 20 trạm nghỉ khác nhau với các quán cóc nhỏ phục vụ đầy đủ các loại nước giải khát và trái cây.  Tuy nhiên, điểm hấp dẫn mọi người nhất là trong suốt quãng đường dài như thế, không một tia nắng nào có thể ảnh hưởng đến vì các tán lá cây rộng lớn có thể che mát mọi người.

 

Tài liệu

- Nouvelles Recherches Archéologiques à Pagan – Tome XI - J. Auboyer – 1954 -

- The Art and Architecture of Myanmar -  A. Salmony – 1924 -

- Buddhist Art in South  East Asia – Ph. Bodel – 1925 -

- Towards Rangoon – H.G. Wales – 1967 -

 


http://www.buddhismtoday.com/viet/vh/chuavangchuabacMienDien.htm

 


Cập nhật: 1-8-2007

Trở về mục "Văn hóa Phật giáo"

Đầu trang