Có ba dịp lễ lớn trong
truyền thống Phật giáo Nguyên thủy. Đó là ngày lễ Magha Puja, Vesakha
Puja, và Asalha Puja. "Puja" nghĩa là tôn kính, quý
kính, còn có nghĩa là sự dâng cúng, cúng dường. Ở đây, Puja còn
có nghĩa là ngày lễ lớn. "Magha, Vesakha, Asalha" là tên các
tháng trong lịch của Ấn độ. So với âm lịch Việt Nam, "Magha"
tương ứng với tháng Giêng, "Vesakha" tương ứng với tháng Tư, và
"Asalha" tương ứng với tháng Sáu.
"Magha Puja" là
ngày lễ Rằm tháng Giêng, kỷ niệm ngày Đức Phật thuyết kệ "Ovada-Patimokkha",
là căn bản cho các giới luật sau này. "Vesakha Puja" là ngày lễ
Rằm tháng Tư, tức là ngày Tam Hợp, thường được gọi là lễ Phật Đản. "Asalha
Puja" là ngày lễ Rằm tháng Sáu, kỷ niệm ngày Đức Phật giảng kinh
Chuyển Pháp Luân, và sau đó, chư Tăng Nam tông bắt đầu mùa An cư Kiết hạ.
Ngoài ra, truyền thống
Nam tông còn có các ngày lễ khác như ngày Tự Tứ (rằm tháng Chín) -- kết
thúc mùa An cư Kiết hạ, và mùa lễ Dâng Y Kathina trong một tháng, từ
ngày 16 tháng Chín đến ngày Rằm tháng Mười âm lịch.
*
1. Chuyển Pháp Luân
Ngài Bồ tát Sĩ-đạt-ta
rời gia đình, tìm đạo giải thoát năm 29 tuổi, và thành đạo năm 35 tuổi,
vào đêm trăng Rằm tháng Tư. Sau khi Ngài giác ngộ, có vị Phạm thiên
Sahampati cung thỉnh Ngài vì lòng từ bi thuyết pháp độ đời. Đức Phật
quan sát thế gian và nhận lời thuyết pháp. Ðầu tiên, Ngài nghĩ đến đạo
sĩ Alàra Kàlàma và đạo sĩ Uddaka Ràmaputta, là hai vị thầy dạy đạo cho
ngài khi còn là Bồ-tát tầm sư học đạo, nhưng Chư Thiên báo là hai vị này
đã qua đời. Tiếp đến, Ngài nghĩ đến năm người bạn là: Kondanna (Kiều
Trần Như), Bhaddiya, Vappa, Mahànàma và Assaji, mà lúc trước đã cùng tu
khổ hạnh với ngài, và hiện giờ họ đang ở vườn Lộc Uyển, gần thành Ba La
Nại.
Từ Bồ đề đạo tràng, nơi
Ngài giác ngộ, Đức Phật đi đến vườn Lộc Uyển, một cuộc hành trình khoảng
210 km, mất khoảng 2 tháng, và đến nơi đó vào đúng ngày Rằm tháng Sáu.
Thoạt tiên, khi thấy Ngài, anh em Kondanna quyết định không chào hỏi,
cũng không đứng lên đảnh lễ Ngài, bởi vì họ cho rằng lúc trước, Ngài đã
từ bỏ lối tu khổ hạnh, không còn là một bậc chân tu nữa. Tuy nhiên, khi
Ngài tiến đến gần, chư vị đã bị chinh phục trước vẻ cao quý của một bậc
giải thoát, khiến họ đối xử với Ngài vô cùng kính cẩn. Chư vị cầm lấy
bình bát và thượng y của ngài, sửa soạn chỗ ngồi cho Ngài, rửa chân Ngài
và gọi Ngài là "Hiền giả" (Àvuso) theo thói quen. Song Đức Phật bác bỏ
cách xưng hô này, và nói:
"Này chư vị, đừng
gọi Như Lai (Tathàgata) là "Hiền giả" như một trong các vị. Như Lai là
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác" -- (Đại Phẩm, Tạng Luật)
Lời tuyên bố đã khám
phá con đường đưa đến Bất Tử tức con đường Giải thoát, đã giác ngộ và
chứng đắc Chân Lý của Ngài được năm người bạn đồng tu cũ đáp lại với vẻ
hoài nghi. Chư vị hỏi: Làm thế nào một người đã từ bỏ khổ hạnh để chọn
đời sống sung túc, lại có thể chứng đắc Chân Lý? Ðức Phật giải thích
rằng Ngài chẳng hề tham đắm đời sống sung túc. Để làm sáng tỏ mọi việc,
Ngài thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân, khởi đầu công
trình hoằng pháp của Ngài. Bài kinh trình bày Pháp Giải Thoát là
Trung Ðạo, và nêu lên Bốn Chân Lý Cao Quý (Tứ Diệu Đế)
- như đã ghi lại trong Tạng Luật và trong Tương Ưng Bộ:
"Có hai cực đoan,
này chư vị, mà người xuất gia nên tránh. Hai cực đoan đó là gì? Đắm mình
vào dục lạc, thấp kém, tầm thường, hạ liệt, không xứng đáng bậc Thánh,
không ích lợi, là một cực đoan. Cực đoan kia là chuyên tâm khổ hạnh ép
xác, gây khổ đau, không xứng đáng bậc Thánh, và cũng không ích lợi.
Này chư vị, Như Lai
đã tránh xa hai cực đoan này, và tìm ra Trung Ðạo, chính là con đường
khiến cho Ta thấy và biết rõ, con đường đưa đến an tịnh, thắng trí, giác
ngộ, Niết-bàn."
Ngài giảng tiếp:
"Đây là Chân lý về
Khổ: Sanh, già, bệnh, chết là khổ; sầu, bi, ưu, não là khổ; thân cận
những gì ta không thích là khổ; xa lìa những gì ta thích là khổ; cầu
không được là khổ; tóm lại, ngũ thủ uẩn là khổ.
Đây là Chân lý về
Nguồn gốc của Khổ: Ðó chính là khát ái đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ
và tham, tìm thấy lạc thú chỗ này chỗ kia: đó là Dục ái, Hữu ái và Phi
hữu ái.
Đây là Chân lý về
Khổ Diệt: Đó chính là sự đoạn trừ, diệt tận hoàn toàn khát ái đó, quăng
bỏ nó, chấm dứt nó, xả ly nó, không chấp thủ nó.
Đây là Chân lý về
Con Ðường Diệt Khổ: Ðó là Thánh Ðạo Tám Ngành, tức là: Chánh Kiến, Chánh
Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm,
và Chánh Ðịnh." -- (Đại Phẩm, Tạng Luật; Tương Ưng Bộ)
Năm vị tôn giả hết sức
chú tâm lắng nghe lời Ngài. Khi Ngài thuyết giảng, tôn giả Kondanna quán
triệt: "Những gì có sinh khởi đều phải chịu qui luật hoại diệt",
và đắc quả Dự lưu. Sau đó, tôn giả liền xin Đức Phật nhận làm đệ tử. Đức
Phật nói: "Ðến đây, này Tỳ khưu, Giáo Pháp đã được khéo giảng, hãy
sống đời Phạm hạnh để đoạn tận khổ đau" và nhận tôn giả làm một Tỳ
khưu. Như vậy, tôn giả Kondanna là vị Tỳ khưu đầu tiên trong lịch sử
Phật giáo, đánh dấu khởi điểm sự thành lập Tăng đoàn, tồn tại cho đến
ngày nay.
Chẳng bao lâu, lời dạy
của Đức Phật đã giúp cho tôn giả Vappa và Bhaddiya hiểu Pháp và hai vị
cũng được nhận làm Tỳ khưu. Trong lúc các ngài Kondanna, Vappa và
Bhaddiya đi khất thực để cung cấp thức ăn cho cả nhóm, Đức Phật thuyết
giảng riêng cho tôn giả Mahànàma và Assaji. Sau đó, hai vị nầy đắc quả
bậc Nhập lưu, và xin làm đệ tử. Như vậy, lúc đó có sáu vị Tỳ khưu trên
thế gian -- Đức Phật và năm vị đệ tử đầu tiên của Ngài.
Vài ngày sau, Đức Phật
dạy bài pháp về Vô Ngã -- ghi lại trong bài kinh Vô Ngã Tướng, Tương Ưng
Bộ. Khi năm vị Tỳ khưu nghe lời thuyết giảng này của Đức Phật, tâm của
chư vị thoát khỏi mọi lậu hoặc, và trở thành bậc Thánh A-la-hán giải
thoát.
*
2. An cư kiết hạ
Một ngày sau lễ Rằm tháng Sáu, chư Tăng trong truyền thống Phật giáo Nam
tông bắt đầu mùa An cư Kiết hạ.
Trong Chương "Vào Mùa
Mưa", Đại Phẩm, Tạng Luật, có ghi:
Đức Thế Tôn ngự tại
thành Vương Xá, Trúc Lâm. Lúc bấy giờ, việc an cư mùa mưa chưa được Đức
Thế Tôn quy định cho các Tỳ khưu. Các vị Tỳ khưu đi du hành trong mùa
lạnh, trong mùa nóng, và cả trong mùa mưa nữa. Dân chúng phàn nàn, phê
phán, chê bai rằng:
-"Vì sao các sa-môn
Thích Tử lại đi du hành trong mùa lạnh, trong mùa nóng, và cả trong mùa
mưa nữa? Ngay cả các du sĩ ngoại đạo, dù có giáo lý được thuyết tồi tệ,
vẫn sống cố định một chỗ trong mùa mưa, ngay cả những con chim sau khi
làm tổ trên các ngọn cây cũng sống cố định trong mùa mưa. Còn các sa-môn
Thích Tử thì lại đi du hành trong mùa lạnh, trong mùa nóng, và cả trong
mùa mưa nữa. Các vị ấy đang dẫm đạp lên các loại cỏ xanh, đang hãm hại
mạng sống của loài chỉ có một giác quan, và đang gây nên việc giết hại
hàng loạt chúng sanh nhỏ nhoi".
Các Tỳ khưu nghe được
những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Vì thế, các vị ấy trình sự
việc lên Đức Thế Tôn. Đức Phật nhân sự việc này mà bảo các Tỳ khưu rằng:
-"Này các Tỳ khưu,
ta cho phép an cư trong mùa mưa. Đây là hai thời điểm vào mùa an cư:
thời điểm trước và thời điểm sau. Thời điểm trước là ngày kế của ngày
trăng tròn tháng Asalha, thời điểm sau là vào ngày sau trăng tròn tháng
sau."
Tính theo âm lịch của
Việt Nam nếu không có tháng nhuần thì thời điểm trước là ngày 16 tháng
6, thời điểm sau là ngày 16 tháng 7. Ngài dạy tiếp:
-"Này các Tỳ khưu,
trong mùa an cư ba tháng thì không nên ra đi du hành. Vị nào ra đi thì
phạm tội tác ác (dukkata)."
Tuy nhiên, nếu có
chuyện cần kíp và được thỉnh mời, vị Tỳ khưu được phép rời trú xứ trong
thời hạn không quá 7 ngày. Đức Phật dạy:
-"Này các Tỳ khưu,
ta cho phép đi khi được thỉnh mời với công việc có thể giải quyết trong
bảy ngày; và không nên đi, nếu không được thỉnh mời."
Suốt thời kỳ gió mùa ở
miền bắc Ấn Độ, từ tháng Sáu đến tháng Mười, chư Tăng sống một nơi cố
định trong 3 tháng an cư. Chư vị có thể lựa chọn cách tự mình xây một am
thất trú mưa, hay ở trong một tinh xá sẵn có.
Mùa an cư bắt đầu từ
ngày rằm tháng Àsàlha (rằm tháng Sáu). Tuy nhiên, Đức Phật cũng
cho phép bất kỳ một Tỳ khưu nào khởi sự chậm hơn một tháng, vào ngày rằm
tháng Bảy - gọi là "hậu An cư". Việc đình chỉ du hành chấm dứt vào ngày
rằm tháng Chín (Àssina). Nếu vị nào khởi sự chậm hơn một tháng,
thì chấm dứt vào tháng Mười (Kattikà). Chư Tăng tổ chức lễ sám
hối Bố-tát (Uposatha) đặc biệt, gọi là lễ Tự Tứ (Pavàranà),
đánh dấu kết thúc mùa an cư. Sau đó, các Tỳ khưu công bố hoàn tất các
phận sự trong Giới Luật, rời nơi an cư, và bắt đầu du hành truyền đạo.
Tập tục an cư mùa mưa
không chỉ có lý do cổ truyền, mà còn có lý do thực tiễn nữa. Khi trời đổ
mưa ào ạt và các con sông chảy tràn bờ, khi đường xá chìm trong bùn lầy,
và những mảnh đất không ngập nước làm thành nơi trú ẩn cho rắn rết, bọ
cạp, thì việc du hành và cắm lều ngoài trời hầu như không thể thực hiện
được. Hơn nữa, khí ẩm bốc hơi trong thời gió mùa tạo ra những tai hại
khác cho sức khỏe; và nếu một Tỳ khưu bị bệnh, thì dễ săn sóc vị ấy tại
một tinh xá hơn là lúc di chuyển.
Tục lệ an cư mùa mưa
còn có lợi cho Tăng chúng theo nhiều cách. Trong suốt những tháng du
hành theo ý riêng của mỗi người, có thể là một vài Tỳ khưu nào đó trở
thành buông lung trong nếp sinh hoạt. Trong mùa an cư, các Tỳ khưu chung
sống sinh hoạt với nhau, nên phải chú tâm đến quy luật xử thế và theo
đúng nguyên tắc. Mùa an cư còn tăng cường mối đạo tình trong Tăng đoàn.
Cuộc sống chung ở một nơi và cùng học tập lời dạy của bậc Ðạo Sư, sự
trao đổi kinh nghiệm và kiến thức đưa đến sự thiết lập các mối quan hệ
thân hữu có giá trị giáo dục, đã được Đức Phật đánh giá cao. Ngài nói:
"Quả thật tất cả đời
sống đồng Phạm hạnh của Tăng chúng cốt yếu ở tình thân hữu giữa những
người ưa thích điều thiện, ở tình đồng đạo, đồng chí hướng. Một Tỳ khưu
làm bạn với điều thiện, là người bạn giao du, người đồng chí hướng, có
triển vọng tu tập và làm sung mãn Bát Chánh Ðạo, để giải thoát cho đồng
bạn cũng như bản thân vị ấy".
Có lần Đức Phật thấy
một Tỳ khưu bị bệnh, nằm bơ vơ không ai chăm sóc, Ngài và Trưởng lão
Ànanda cùng đến săn sóc vị ấy. Rồi Ngài gọi Tăng chúng đến và dạy:
"Này các Tỳ khưu, chư vị không có cha mẹ chăm sóc mình. Vậy, nếu chư vị
không chăm sóc nhau, thì ai sẽ làm việc ấy? Này các Tỳ khưu, bất cứ ai
trong chư vị muốn chăm sóc ta, thì vị ấy hãy chăm sóc người bạn đồng
Phạm hạnh".
Việc an cư mùa mưa cũng
quan trọng trong việc học tập của chư Tăng thời đó. Chư vị tụng đọc lại
các bài kinh của Đức Phật và học hỏi những lời dạy mới của Ngài. Việc
học tập nghe kinh không chỉ giới hạn vào mùa an cư, nhưng được thuận lợi
hơn nhờ sự chung sống suốt ba tháng của một hội chúng Tỳ khưu đông đảo
tại cùng một địa điểm. Có lẽ Giáo Pháp sẽ không được truyền tụng đến
thời đại chúng ta trong hình thức chính xác như ngày nay, nếu Tăng chúng
thời xưa không có cơ hội duyệt lại toàn thể lời giáo huấn của Đức Phật
trong các mùa an cư kiết hạ hằng năm ấy.
*
3. An cư trong các
truyền thống khác
Giới luật tu sĩ trong
các truyền thống Phật giáo, trên căn bản, rất giống nhau. Các tông phái
đều tuân theo quy luật an cư kiết hạ trong 3 tháng. Tuy nhiên, thời điểm
bắt đầu và kết thúc không giống nhau, tùy theo cách tính mùa hạ trong
năm.
Như đã trình bày ở trên,
theo Luật Nguyên thủy (Đại phẩm, Luật tạng, Tỳ khưu Indacanda
dịch), chương III (Mùa mưa): An cư bắt đầu từ ngày 16 tháng
Asalha (tương ứng với tháng Sáu âm lịch), kéo dài 3 tháng. Hậu
an cư bắt đầu một tháng sau đó.
Theo Luật Hữu Bộ (Tỳ-nại-da,
Căn bản thuyết nhất thế hữu bộ, Tỳ khưu Tâm Hạnh dịch), quyển
An cư sự: An cư bắt đầu từ ngày 16 tháng Năm âm lịch, kéo dài 3
tháng, Hậu an cư bắt đầu một tháng sau đó.
Theo Luật Ma-ha-tăng-kỳ
(Hòa thượng Thích Phước Sơn dịch), quyển 27, Phép An cư: An cư bắt
đầu từ ngày 16 tháng Tư âm lịch, kéo dài 3 tháng. Hậu an cư bắt
đầu một tháng sau đó.
Theo Luật Tứ Phần (Hòa
thượng Thích Nguyên Chứng dịch), quyển 4, chương III (An cư): An cư
trong 3 tháng mùa hạ, không thấy ghi rõ ngày tháng. Hậu an cư
bắt đầu một tháng sau đó.
*
4. Vu-lan và kinh điển nguyên thủy:
Ngày nay, đa số Phật tử chúng ta thường tổ chức ngày Rằm tháng Bảy, theo
truyền thống Bắc tông, là ngày Lễ Vu-lan, một ngày báo hiếu công ơn của
cha mẹ. Trong cùng ngày đó, chư Tăng Ni Bắc tông làm lễ Tự tứ, kết thúc
mùa an cư, theo Luật Ma-ha-tăng-kỳ. Lễ Vu-lan là dựa theo tích chuyện
trong kinh Vu-lan-bồn (Ullambana Sutra, Đại Chánh Tạng, tập 16), trong
đó, Đức Phật dạy Trưởng lão Mục-kiền-liên cúng dường thức ăn đến chư
Tăng trong ngày Tự tứ và hồi hướng phước báu đến mẹ là bà Thanh-đề để
giúp bà thoát khỏi khổ cảnh của kiếp ngạ quỷ.
Trong kinh điển nguyên
thủy, không thấy đề cập đến sự tích nêu trên. Tuy nhiên, trong quyển Ngạ
quỷ sự thuộc Tiểu Bộ có ghi lại một câu chuyện tương tự. Đó là chuyện
ngạ quỷ mẹ của Ngài Xá-lợi-phất (Chú giải Ngạ quỷ sự, Phẩm Ubbari,
Chuyện số 2, Tỳ khưu Thiện Minh dịch). Tóm tắt như sau:
Một ngày nọ, các ngài
Trưởng lão Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, A-nậu-lâu-đà và Ca-bi-na ngụ tại
một khu rừng hoang gần thành Vương Xá. Một nữ ngạ quỷ với thân hình gầy
ốm, hình tướng gớm ghiết, đến gặp các ngài và cho biết trong tiền kiếp,
ngạ quỷ từng là mẹ của Ngài Xá-lợi-phất. Do lòng keo kiết, bủn xỉn, bà
đã đối xử tàn tệ với các vị tu sĩ, và lại sinh ác tâm chưởi rủa mắng
nhiếc các vị ấy, nên bà phải lảnh quả báo ác, sinh làm ngạ quỷ trong
kiếp này. Bà xin Trưởng lão Xá-lợi-phất tổ chức bố thí cúng dường, rồi
hồi hướng phước đến cho bà để được thoát khỏi cảnh ngạ quỷ khổ sở.
Sáng hôm sau, nhân khi
đi khất thực trong thành Vương Xá, các ngài đến gặp vua Bình-sa, và Ngài
Mục-kiền-liên thuật lại câu chuyện ấy cho vua nghe. Nhà vua hoan hỷ phát
tâm trong sạch hứa sẽ giúp Ngài Xá-lợi-phất. Vua truyền lệnh cho các
quan dựng bốn tịnh thất trong khu rừng ngoại thành, và sửa soạn vật thực,
đồ ăn, thức uống và y phục. Sau đó, nhà vua chuyển toàn bộ những thứ ấy
đến Ngài Xá-lợi-phất. Nhân danh mẹ, Ngài Xá-lợi-phất bố thí cúng dường
đến Đức Phật và Tăng đoàn, rồi hồi hướng công đức phước báu đến cho bà.
Nhờ đó, bà được tái sinh vào cõi Trời Phạm Thiên.
Mặc dù vài chi tiết
trong câu chuyện này không giống như chuyện ghi trong kinh Vu-lan-bồn,
việc cúng dường đến chư Tăng, rồi hồi hướng phước báu đến cho cha mẹ đã
qua đời, có một ý nghĩa rất rõ ràng, tương hợp trong cả hai truyền thống
chính của Phật giáo.
Bình Anson,
Perth, Tây Úc,
Tháng 8-2007
-ooOoo-
http://www.buddhismtoday.com/viet/vulan/ancututuvavulan.htm