Cha mẹ là
phương Đông,
Sư trưởng là Phương Nam,
Vợ chồng là phương Tây,
Bạn bè là phương Bắc,
Nô bộc là phương Dưới,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Có nghĩa là phương Trên.
Cư sĩ và gia đình
Đảnh lễ phương hướng ấy.
Để diễn
giải thêm cho điểm xuất phát này, bài kinh đã trình bày năm
việc mà người con phải thực hiện để cho tròn ‘đạo con’ theo
cách nói của câu ca dao Việt Nam mà tôi được học từ Tiểu Học:
Công cha như
núi Thái Sơn;
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Năm việc đó
là: (1) Nuôi dưỡng cha mẹ; (2) Làm các bổn phận của người con
đối với cha mẹ; (3) Gìn giữ nề nếp và truyền thống gia đình,
cụ thể là bảo vệ vinh dự và uy tín của gia đình, cúng dường
các bậc tu hành phạm hạnh; (4) Bảo vệ, phục hồi, và làm phát
triển tài sản thừa tự; và (5) Tổ chức tang lễ thích đáng khi
cha mẹ qua đời. Cha mẹ cũng có 5 việc cần làm cho con là: (1)
Ngăn chận con làm điều ác; (2) Khuyến khích con làm điều thiện;
(3) Dạy con nghề nghiệp; (4) Cưới gả xứng đáng cho con; và (5)
Đúng thời trao của thừa tự cho con.
Như vậy bài
kinh đã cho chúng ta biết đầu nguồn hay điểm xuất phát của đạo
lý con người là ‘cha mẹ’. Vâng, tình cảm ngọt ngào, thân ái và
thiêng liêng của một hài nhi trứng nước là người mẹ. Ân phước
tối thượng mà hầu hết những người con được hưởng là tình mẹ.
Một loại tình cảm vô điều kiện đầu tiên và có thể là cuối
cùng mà một người có được là tình mẩu tử. Vì vậy thiếu sót
đạo đức đối với người mẹ, người đã lao đao, khổ sở, đau đớn
để sinh thành, cưng dưỡng con người của mình thì khoan nói đến
những dạng đạo đức khác. Thật là đáng ngượng nếu ai đó diễn
thuyết một cách hùng hồn về đạo đức đối với vợ chồng, đối
với bạn bè, đối với làng xóm, đối với quốc gia, đối với
quốc tế, đối với vũ trụ... khi bản thân không có đạo đức đối
với hai đấng sinh thành.
Với điểm
xuất phát được hình thành trên nền tảng giáo lý Phật Giáo đó
chúng tôi tham khảo sang chữ hiếu được thể hiện trong Nho Giáo
và tác phẩm mà chúng tôi chọn làm tiêu biểu là quyển Nhị
Thập Tứ Hiếu của cụ Quách Cư Nghiệp (1277 - 1367). Tác phẩm
này được cụ Cử Nhân Lý Văn Phức, một bậc túc nho, diễn ra
quốc ngữ bằng thể thơ song thất lục bát.
Có một
trùng hợp lý thú về mặt tư tưởng giữa Ấn-độ và Trung Quốc
qua hai tác phẩm này là: Cả hai đều xem chữ Hiếu đối với cha
mẹ là xuất phát điểm của mọi hạnh lành. Tiết đầu tiên trong
tác phẩm này kết luận rằng vì chí hiếu mà vua Thuấn cai trị
dân Trung Quốc trong 18 năm bằng phương pháp ‘vô tiền khoáng hậu’
là ‘chỉ ngồi gảy đàn, hát khúc Nam phong, mà thiên hạ rất
thái bình thịnh trị’.
Bỏ qua tính hư cấu của câu chuyện chúng ta thưởng thức được
phong thái thảnh thơi của một người con hiếu dù đang sống trong
tình trạng có nhiều nỗi lo toan của một ông vua.
Kinh Dịch có đoạn “Nghiêu Thuấn thùy y thường, nhi thiên hạ
trị”. Nghĩa là không phải làm gì mà tự nhiên thiên hạ được
thái bình.
Cuối cùng
chúng tôi xin được thi hóa đoạn kệ trên để một lần nữa xác
tín quan điểm đạo đức học của Đạo Phật và làm quà mọn cúng
dường nhân mùa Vu-lan năm nay:
Cha mẹ thuộc
về phương Đông,
Từ xưa khuya sớm khổ công vì mình.
Phương Nam - thầy tổ nghiêm minh
Khai thông nẽo đạo, tánh linh vun bồi.
Phương Tây chồng vợ kết đôi,
Nếp nhà gìn giữ trọn đời sắc son.
Bạn bè phương Bắc keo sơn,
Giúp nhau đúng lúc, khuyên lơn nẽo lành.
Phương Dưới, thân phận mõng manh,
Với người giúp việc lòng lành thi ân.
Phương Trên, ẩn sĩ, thượng nhân,
Siêng năng lễ bái, ân cần viếng thăm.
Sáu phương ứng với một tâm
Kính trên nhường dưới trăm năm yên lành.
Không còn hiểm nạn chung quanh
Nhơn thiên hoan hỷ chân thành tán dương.
Nguồn http://thenhu.blogspot.com
-ooOoo-
http://www.buddhismtoday.com/viet/vulan/daunguoncuadaoducconnguoi.htm