Kinh điển nhà Phật thường nói
lòng từ bi của Phật và các vị bồ-tát đối với chúng sinh giống như lòng
thương của cha mẹ đối với con cái. Nói ngắn gọn, Phật thương chúng sinh
như cha mẹ thương con.
Chúng ta được Phật thương như
con, và muốn học theo con đường của ngài, nên được gọi là con Phật.
Con Phật, muốn được như Phật,
phải chuyên tu giới, định, huệ, phá được ngã chấp, pháp chấp, dứt trừ
các phiền não, xa lìa mọi mộng tưởng điên đảo, đạt đến trạng thái tịch
tĩnh, ái diệt, vô tham… Con đường từ vị trí một đứa con phàm phu tiến
đến nơi chốn của người cha trí đức cao dày, là con đường dài xa vời vợi,
không thể nghĩ bàn, vì có thể ngắn trong gang tấc mà cũng có thể đi suốt
những kiếp số vô tận của thời gian. Không thể trong ba tạng kinh mà bàn
nói hết được, huống chi vài ba dòng của ngôn ngữ đời thường.
Nhưng hãy trở lại vấn đề lòng từ
bi của Phật đối với chúng sanh, hay lòng thương của cha mẹ đối với con
cái. Đây là một ví dụ sống động, cụ thể, đối với những người đã từng là
cha mẹ, và tất nhiên là rất mơ hồ mông lung đối với những người chưa hề
có kinh nghiệm sinh dưỡng và nuôi dạy con cái. Những người ấy, là những
tăng ni đồng chơn xuất gia, sống đời phạm hạnh. Cũng có thể kể thêm một
số trường hợp đặc biệt khác là trường hợp những người thế tục không thể
có con, hoặc không muốn có con, hay vì lý do nào đó, chưa muốn có con.
Không có kinh nghiệm thương yêu con cái thì nếu muốn phát khởi và ban
rải lòng từ bi đến với người khác hay chúng sinh khác một cách bình đẳng,
vô điều kiện—như là cha mẹ đối với con cái—tất phải thực tập. Phương
pháp thực tập ấy của hành giả đạo Phật, căn bản thì có “từ bi quán” (một
trong ngũ đình tâm quán), ở mức rộng sâu hơn thì phát triển toàn mãn bốn
tâm vô lượng (từ, bi, hỷ, xả). Ở cảnh giới ấy, lòng từ bi đối với tha
nhân và chúng sinh là vô hạn, ngay cả tình thương của cha mẹ đối với con
cái cũng không thể nào sánh được. Nhưng chưa đạt đến thì ở giai đoạn
thực tập, với cương vị và tâm cảnh của người xuất gia đồng chơn phạm
hạnh nói trên, khó mà khởi động thứ tình cảm đòi hỏi sự thực nghiệm bản
thân, là tình cảm cha mẹ. Tình cảm ấy tràn đầy một cách tự nhiên, gần
gũi, thuần túy gia đình, gắn bó từ máu huyết, không chứng nghiệm bằng cả
thể xác lẫn tinh thần thì không thể cảm thấu trọn vẹn. Thế nên, trừ khi
hành giả đạt đến trình độ vô ngã, thực chứng trọn vẹn bốn tâm vô lượng,
còn không thì vẫn tiếp xử với chúng sanh bằng một lòng thương tuy cũng
to lớn, nhưng không thoát khỏi những điều kiện và giới hạn.
Có lẽ vì vậy mà Mục-kiền-liên trở
thành nhân tố quan trọng để đức Phật khai thị một con đường cứu khổ lợi
sinh bằng phương thức quán tưởng khác, dựa trên tình cảm của người con
đối với cha mẹ thay vì ngược lại. Như thế, để thực hiện con đường bồ-tát,
cứu độ chúng sinh với lòng thương yêu vô hạn và không phân biệt, người
xuất gia khởi đi bằng tình cảm thương yêu và báo hiếu đối với cha mẹ đời
này, rồi từ cha mẹ đời này, liên tưởng đến cha mẹ nhiều đời, và từ cha
mẹ nhiều đời liên tưởng đến vô lượng vô số chúng sanh trong khắp ba cõi
và ba thời gian (quá khứ, hiện tại, tương lai), tất cả đều là cha mẹ.
Còn những người thế tục thì thế
nào? Chúng ta đã có sẵn câu trả lời, không cần đắn đo suy nghĩ: cũng
thực tập thương yêu kẻ khác, chúng sinh khác, như là cha mẹ của mình, y
như cách thế mà tôn giả Mục-kiền-liên đã làm. Nhưng thực tế cho thấy,
hiếu cảm và lòng thương yêu của người con dành cho cha mẹ rất giới hạn.
Cha mẹ thương con, nghĩ đến con thường xuyên hơn là người con thương
nghĩ đến cha mẹ. Chính vì vậy mà kinh điển nhà Phật cũng như các tôn
giáo khác, hoặc các nền văn hóa đạo đức khác nhau ở đông cũng như tây
phương đều không ngớt kêu gọi, nhắc nhở, khuyến khích con cái về lòng
hiếu thảo và sự thương tưởng đến cha mẹ. Kinh Phật thường khuyên nhắc sự
báo hiếu, tức là nhằm giáo dục khuyến hóa những người con. Tây phương có
ngày dành cho cha và cho mẹ rất trang trọng, nhưng không cần phải có một
ngày đặc biệt dành cho con cái. Là con thì cần phải nhớ, thương, nghĩ
đến ân đức cha mẹ mà báo đền. Còn đối với cha mẹ thì không cần phải kêu
gọi nhắc nhở gì cả, bởi vì tình thương của cha mẹ dành cho con là không
giới hạn, và không gián đoạn. Hầu như tất cả thời gian, và trọn cuộc
đời, tâm tư và tình cảm của cha mẹ đều dành cho người con.
Là một người đã từng làm cha
trước khi xuất gia và chứng thành đạo quả, cố nhiên đức Phật đã cảm nhận
sâu sắc tình phụ tử mà ngài dành cho La-hầu-la, con ngài; do đó, khi so
sánh lòng từ bi của Phật dành cho chúng sinh với lòng thương yêu của cha
mẹ dành cho con cái, ngài đã nói sự thực nghiệm của ngài: tấm lòng của
bậc đại giác, cũng như của người cha. Đó là kinh nghiệm thật, sống động,
không phải lý thuyết suông. Sự so sánh như thế cũng gợi ý cho ta một
phương pháp thực tập, lấy con cái làm đề mục quán tưởng, liên tưởng, và
lấy lòng thương của cha mẹ làm chất liệu, làm động lực thúc đẩy, từ đó
mở ra cánh cửa của lòng từ vô hạn.
Có thể nói là chưa có giáo chủ,
hoặc những nhà lãnh đạo của tôn giáo nào nâng vị trí của cha mẹ đến chỗ
cao tột như là trong Phật giáo. Kinh Phật nói, gặp thời kỳ không có Phật,
có thể thờ cha kính mẹ trong nhà, cũng được phước báo như cúng dường
Phật; cha mẹ còn sinh tiền cũng không khác chi Phật còn tại thế. Không
còn so sánh nào xứng đáng hơn. Nhưng chúng ta cũng phải hiểu rằng tất cả
các so sánh đều mang tính tương đối: chỉ mượn cái mình biết để mô tả,
hình dung về cái chưa biết. Như vậy, Phật và cha mẹ chỉ tương đồng ở một
mặt nào đó thôi. Phật không thể thay thế cha mẹ, và ngược lại, cha mẹ
cũng không thể thay thế Phật. Chỉ có tính cách thương yêu con không điều
kiện và không giới hạn của cha mẹ là điều đáng trân trọng, khắc ghi, cần
học hỏi; còn ngoài ra, cha mẹ vẫn là những con người bình thường, sống
trong thế giới của phiền não, uế trược, cũng có hỉ, nộ, ái, ố như ai. Có
những bậc cha mẹ thường trách cứ người con tội bất hiếu, cho rằng một
khi chúng lập gia đình, sinh dưỡng con cái thì quên cha mẹ, chỉ lo cho
gia đình của chúng. Trách như vậy thì cũng có nghĩa là tự trách, vì cha
mẹ cao cả cũng đã từng là những người con bất hiếu, chỉ biết chăm lo và
thương yêu chồng (vợ) con mà lãng quên cha mẹ của mình (ông bà nội,
ngoại). Cái mâu thuẫn ấy, là thực tế nói lên giới hạn của con người thế
tục. Cha mẹ chỉ có thể là Phật, là bồ-tát, đối với chính những đứa con
của mình mà thôi.
Dù sao, ngần ấy tình thương, so
với lòng từ bi của Phật thì không lớn, nhưng đối với những người con, là
biển, là trời cao rộng, thật quá đầy đủ để sống, vươn lên, và đi suốt
đoạn đường trăm năm của chúng trên cuộc đời đầy hương sắc tình yêu mà
cũng không thiếu những cạm bẫy, chông gai, những tình cảm tráo trở, lọc
lừa, man trá, từ cá nhân hay từ tập thể.
Trên tất cả những tình cảm thế
nhân là tình cảm cha mẹ. Lòng thương của cha mẹ dành cho con là lòng từ
bi của bồ-tát đối với chúng sinh. Lòng thương ấy không phân biệt con đẹp
hay xấu, hiền hay dữ, thông minh hay ngu độn, ngoan ngoãn hay cứng đầu…
Cha mẹ chỉ biết thương. Ngay cả đứa con tật nguyền, bệnh hoạn, nằm vạ
suốt đời, cha mẹ vẫn thương, chăm sóc từng li từng tí, ôm hôn, vỗ về,
nựng nịu, tưng tiu như viên ngọc quí. Cha mẹ luôn là bóng mát, là chỗ
dựa cho con trong mọi hoàn cảnh. Cha mẹ nghĩa là như thế, là nơi mà đứa
con, dù đã có tóc bạc trên đầu, vẫn có thể tự nhiên quay về để nũng nịu,
vòi vĩnh, đón nhận tình thương và tấm lòng bao dung cao cả.
Ở nhà, tài sản cha mẹ để lại cho
con có khi to lớn, có khi chẳng bao nhiêu, có khi không có gì; nhưng gia
tài thương yêu thì vô hạn. Ở đời, chúng sanh cũng khao khát một thứ gia
tài từ bi, cứu khổ như thế từ Phật và những vị bồ-tát. Những ai muốn học
hạnh Phật để thương yêu tất cả chúng sinh, có thể khởi đầu bằng cách học
từ cha mẹ. Tình thương yêu ấy không bến bờ. Có thể gọi đó là lòng từ bi.
Lòng từ bi mà diễn giải và chú thích theo chân nghĩa của Phật giáo thì
rộng lắm, nói không cùng. Nhưng chúng ta có thể sà vào lòng cha mẹ để
thương và được thương, sẽ cảm nhận tính cách bao la của từ bi mà ta muốn
trang trải cho kẻ khác như thế nào.
Bồ-tát thương chúng sinh không
thể khởi bất cứ một ý niệm phân biệt, so sánh nào. Giống như cha mẹ đối
với con cái, chỉ có một thứ tình thương. Thương kẻ hiền trí, thuần thục
đã đành; thương và đối xử bình đẳng với người hiểm ác, bất lương mới là
khó. Nhưng cha mẹ làm được đối với con cái thì bồ-tát cũng phải làm được
đối với chúng sinh.
Đức Đạt-lai lạt-ma, người được
tôn sùng như là hóa thân của bồ-tát Quán-thế-âm theo truyền thống
Tây-tạng, nói rằng khi thực tập trải rộng lòng từ bi, trước hết hành giả
phải thực tập với những người “dễ thương,” như cha mẹ, con cái, anh chị
em, bạn bè thân, các thiện tri thức, người hàng xóm tốt bụng… rồi sau
đó, mới tiến đến giai đoạn thực tập gay go hơn, đó là thương yêu một đối
tượng nào mà trong cuộc sống thực tế, là một kẻ “đáng ghét’ của mình,
của mọi người.
Không thương được đứa con hư thì
không phải là cha mẹ; cũng vậy, không thương yêu được kẻ xấu ác thì
không thể gọi là bồ-tát.
Hơn ba mươi năm trước, khi còn bé
xíu, tôi nghe được một câu chuyện ẩn dụ sâu sắc trong một buổi thuyết
pháp của một vị giảng sư. Rất tiếc vị giảng sư này không nói là câu
chuyện trích dẫn từ kinh sách nào, hoặc có nói nhưng tôi không nhớ.
Chuyện kể rằng, ở làng nọ có một
con rắn độc to lớn, thường cắn người hại vật, ai gặp cũng hãi sợ né
tránh. Một hôm có nhà sư đi ngang, rắn định tấn công nhưng thấy ông bình
tĩnh không kinh khiếp mà còn tỏa ra một thứ tình thương không bến bờ đối
với nó, rắn qui phục xin được giáo hóa để chuyển kiếp. Nhà sư dạy rắn về
lòng từ bi và nhẫn nhục, không tổn hại đến mạng sống kẻ khác. Dạy rồi,
nhà sư tiếp tục lên đường du hóa. Rắn ở lại theo lời thầy dạy, không cắn
người, không ăn thịt loài thú khác, chỉ ăn rau cỏ. Bọn trẻ chăn trâu
trong làng ban đầu gặp rắn cũng sợ hãi bỏ chạy, nhưng sau nhiều lần,
thấy rắn có vẻ hiền lành và không có ý cắn, chúng hết sợ; không những
vậy, còn quay trở lại ném đá, đánh đập rắn đến độ thương tích đầy mình.
Rắn nhớ lời nhà sư, không tỏ bất cứ thái độ hằn học, dữ dằn nào, chỉ
nhẫn nhục chịu đựng những trận đòn của lũ trẻ. Một ngày, nhà sư lại có
dịp đi qua làng, thấy rắn nằm bất động bên đường với thương tích đầy
mình, nhà sư hỏi: “Con sao lại ra nông nỗi này?” Rắn than khóc: “Thưa
thầy, chính vì lòng từ bi nhẫn nhục mà con phải chịu sự tấn công hành hạ
của kẻ khác như thế này. Con không muốn tổn hại bất cứ ai nên lại bị mọi
người hiếp đáp.” Nhà sư nói: “Con lầm rồi. Từ bi nhẫn nhục không có
nghĩa là thụ động như đất đá để hứng chịu sự tấn công của kẻ khác. Với
nhẫn nhục, con có thể chịu đựng mọi bất hạnh và bất trắc trong đời mà
không khởi niềm oán hận; với từ bi, con luôn thương yêu và không làm tổn
thương đến kẻ khác. Nhưng con có thể tỏ một thái độ nào đó để tự vệ, để
kẻ khác biết rằng con có khả năng và bản lĩnh để giết họ nhưng vì lòng
từ bi, con không làm. Tuy thế, con cũng không nhất thiết phải để họ hại
con đến mức phải tuyệt mạng.” Nghe lời nhà sư, sau này mỗi lần bị lũ trẻ
xúm lại bức hại, rắn làm bộ phùng mang, trợn mắt, nhe răng khiến cho
chúng hãi sợ mà tránh xa. Từ đó, rắn được yên thân, giữ được mạng để tu
hành.
Đó là câu chuyện nghe được từ hơn
ba mươi năm trước. Cách đây mười năm, tôi cũng đã kể lại câu chuyện này
trong một tác phẩm truyện dài. Sở dĩ nhắc đến ba mươi năm và mười năm,
là muốn nói dù thời gian thế nào, đối với tôi, ý nghĩa và phương thức
thực hiện lòng từ bi cũng không thay đổi.
Khi cần thiết, người con Phật có
thể cất lên tiếng nói của lẽ phải. Tiếng nói ấy phát xuất từ lòng từ bi,
không phải bởi niềm sân hận. Vì lòng từ bi mà lên tiếng bênh vực những
kẻ không phương tự vệ. Vì lòng từ bi mà lên tiếng khuyến hóa kẻ ác, điều
chỉnh những sai lầm của họ. Tất cả đều vì lòng từ bi muốn làm lợi ích
cho tha nhân. Giống như cha mẹ dạy con khi hư: thương mà dạy. Không đánh
đòn, la trách, kết tội bất hiếu chỉ vì con không làm theo ý mình. Kẻ ác
đối với người con Phật giống như lũ trẻ vui thích đánh đập rắn. Nếu
không làm bạn để tìm cơ hội cảm hóa lũ trẻ, rắn cần lánh đi để không bị
hại; nếu không lánh được, có thể giả vờ nhe răng, trợn mắt để tự vệ.
Nhưng rượt đuổi lũ trẻ đến tận cùng làng xóm thì đã đi quá mức cần thiết
rồi; không còn là một biểu hiện để tự vệ hay bảo vệ kẻ khác, mà chỉ là
sự manh động khởi xuất từ lòng sân hận, hiểm ác, tâm lý báo thù.
Cậu bé thật kháu khỉnh. Tôi
biết và làm quen với cậu khi cậu mới mười tháng tuổi, còn đi chập chững.
Đến lúc ba cậu mang đến gửi tôi giữ hộ để đi làm xa, cậu đã được mười
bốn tháng. Ban đầu tôi cũng ngại, vì chưa có kinh nghiệm làm cha, làm
sao biết chăm sóc. Nhưng chỉ một vài ngày thì đã quen. Mấy ngày đầu, có
khi cũng sinh bực bội, khó chịu, đến nỗi tôi phải bật lên tiếng than với
vài người bạn. Sau một tuần, sự quấn quít, nũng nịu, cũng như tiếng khóc
của cậu bé đã hoàn toàn chiếm ngự tôi, chuyển hóa tôi, làm bừng tỏa
trong tôi tất cả tình thương của một người cha. Tắm rửa, thay tã, pha
sữa, hâm sữa, cho bú, mớm ăn, bồng ẵm, đùa giỡn, dắt đi chơi, ru ngủ…
tất cả những gì tôi làm, ngày cũng như đêm, đều tràn ngập lòng thương.
Khi cậu bé làm điều hư, tôi học theo cách giáo dục của người tây phương,
chỉ dùng ngón tay trỏ khẽ nhẹ trên bàn tay của cậu bé, vừa khẽ vừa dạy,
dù cậu bé chưa biết nói. Nhưng cũng có khi rất bực bội vì cậu bé không
chịu nghe, cứ thường vặn lò bếp, tôi có ý muốn xử phạt nặng hơn thay vì
dùng ngón trỏ gõ nhẹ trên bàn tay làm sai. Tôi nói, giọng có pha chút
giận, “con à, tại sao cứ vặn lò bếp hoài vậy! Đưa tay đây.” Cậu bé ngơ
ngác đưa bàn tay mũm mĩm ra cho tôi. Chỉ mới tưởng tượng là sẽ dùng
chiếc đũa khẽ trên bàn tay ấy thôi, thì nước mắt tôi đã chực rơi rồi,
không thể đánh phạt được, dù là đánh phạt với lòng thương dạy con. Tôi
biết ba mẹ thương tôi biết dường nào.
Sau hai tháng, tôi đưa cha con
cậu bé ra phi trường. Cậu bé có vẻ linh cảm được sự chia xa. Suốt những
giờ còn lại, cậu buồn, không cười. Trước khi chia tay ở phi trường, tôi
hôn lên trán cậu; cậu cũng hôn lại trên má tôi. Tôi ứa lệ và thấy đau
thắt trong lòng.Tôi biết ba mẹ tôi cũng đã từng nhớ thương tôi biết bao
khi tôi xa gia đình, xa biền biệt phương trời từ những ngày thơ ấu.
Cảm ơn ba mẹ đã là những vị
bồ-tát đầu đời của con. Lòng từ bi của ba mẹ đã dạy con rất nhiều và đã
hướng dẫn con điều gì nên làm, điều gì không nên làm. Khi làm cha, dù
chỉ là cha nuôi, con mới thực sự cảm nhận được thế nào là sự bao la,
không bến bờ của tình thương ba mẹ; và cảm nhận được thế nào là lòng từ
bi của những vị bồ-tát. Lòng từ bi ấy tỏa đến đâu, mang lại sự trong mát,
dễ chịu đến đó.
Con biết ba mẹ thương con, không
đòi hỏi bất kỳ sự báo đáp nào, và cũng chưa hề một lần trách con bất
hiếu. Nhưng ở phương xa, con vẫn muốn làm một điều gì đó để báo đền. Có
lẽ chỉ cần một điều đơn giản thôi: giữ được lòng từ của mình đối với kẻ
khác, như là ba mẹ đã thương yêu con suốt đời vậy.
California, 15 tháng 8, 2007.
--- o0o ---