Điều khá thú vị là tâm
thức của loài người thuở ấy đã mường tượng ra một cuộc hành hình
ngang qua những điểm mốc không thời gian vừa hiện thực vừa bay bổng.
John Bower đã miêu tả rằng những nghi lễ của Bà-la- môn như lễ
sraddha và lễ sapindakarana được cử hành để giúp vong linh người
chết không bị tan mất khi bước sang thế giới bên kia. Có một ngã
ba đường mà vong linh nào cũng phải đối diện và chọn lựa. Áo nghĩa
thư ghi lại như sau: Sau khi chết vong linh của người ta phải đi
theo một trong hai con đường: Một, con đường trở thành gia chủ; đó
là con đường về phương Nam và khi đi đến cuối đường vong linh sẽ
quay trở lại trần gian theo một lộ trình khá phức tạp: Đi theo con
đường về phương Nam vong linh sẽ nhập vào đám khói thiêu xác
của mình, rồi từ đó trải qua một đêm bay lên phần tối của
vầng trăng khuyết trên bầu trời. Trải qua 6 tháng khi mặt trời
di chuyển về phương Nam, nương theo đó vong linh đi về thế giới của
gia chủ, rồi lại bay lên nhập vào vầng trăng sáng tròn đầy để hưởng
phước. Sau khi trú ở cung Hằng cho đến khi hết phước, vong linh
lại đi vào không gian, rồi nhập vào gió, khói, sương, mây, mưa,
cuối cùng nằm trong cây trái. Khi một người nào đó ăn trái cây
thì vong linh nhập vào tinh ba của người ấy rồi đi vào dạ con
của người phụ nữ. Cuộc luân hồi lại bắt đầu. Hai, con đường
lên thiên giới; đó là con đường về phương Bắc, dẫn đến chổ
giải thoát. Những vong linh đi theo con đường về phía Bắc thì
nhập vào đám khói bốc lên từ dàn hỏa thiêu xác của mình, rồi
nhập vào ánh sáng ban ngày, rồi cũng bay lên phần tối của vầng
trăng khuyết. Trải qua 6 tháng khi mặt trời chuyển về phương Bắc
vong linh nhập vào mặt trời, mặt trăng và hòa tan vào ánh chớp.
Từ đó vong linh được một vị phi nhơn dẫn đi lên cảnh giới của
Phạm thiên.
Khái niệm vong linh (peta)
của Bà la môn được Phật giáo sơ kỳ tiếp nhận sau khi lột bỏ tất
cả những yếu tố, những chi tiết thuần túy tưởng tượng, hoang đường
và vô bổ. Trong ánh sáng của tuệ nhãn Phật giáo thì vong linh không
phải là hoàn toàn không có thân tướng, phải chờ đợi lễ sraddha mới
có được thân tướng. Kinh điển Phật giáo ghi lại rằng vong linh tự
nó đã là một dạng thân tướng mặc dầu thân tướng này vẫn sống
nhờ vào lễ cúng của người thân.
Tác phẩm Petavatthu
thuộc Kinh tạng Pali đề cập một số vong linh gọi là ‘ngạ quỷ’ sống
trong cảnh triền miên đau khổ, ăn uống những thứ dơ bẩn với thân
thể tàn tạ, nhớp nhúa. Những vong linh này thường ở hố xí,
nghạch cửa, ngã tư, hào nước, vườn rừng hay những bải tha ma để
ăn xác chết. Truyền thống Đại thừa miêu tả chúng là một loài
quỷ đói khát, bụng to như trống, cổ nhỏ như kim; thức ăn vật
uống đi ngang qua cuốn cổ nhỏ như vậy không bao giờ đủ để làm dịu
đi cảm giác đói khát nóng bỏng, bức não từng cơn. Petavatthu
có cách miêu tả chừng mực hơn về nổi khổ của vong linh; đồng
thời, về phương diện tích cực, vong linh trong nhiều trường hợp
được so sánh gần ngang bằng với chư thiên có oai lực lớn. Trường
hợp nổi bật nhất là dạng vong linh tên là Vimanapeta, tức là
vong linh làm chủ nhân của những tòa lâu đài trên cõi trời.
Mặc dù những vong linh
sống cùng một không gian với loài người nhưng chúng lại thuộc về
cảnh giới khác, chiều kích khác, cộng thông với thế giới do Tứ
thiên vương cai quản. Thế giới này rất lớn trải rộng từ bề
mặt quả địa cầu đến tận đỉnh núi Tu di. Trong thế giới mênh
mông và mở rộng này có nhiều dạng phi nhân từ những chủng
loại lớn như Dạ xoa, Long thần, Càn thát bà, Khẩn na la, A tu
la... đến những loài phi nhân nhỏ như những vị thiên trú ẩn
trong gia đình, trên cây lớn, hồ lớn... Khi Phật giáo lan tỏa vào
châu Á, phong phú những vị thần thánh địa phương được Phật giáo
tiếp nhận rồi hòa nhập vào thế giới mở rộng này.
Chúng ta thấy rằng
trong Kinh tạng sơ kỳ việc hóa sinh thành một vị thiên hay chỉ
là một vong linh dường như có mức độ khác biệt không quá xa về
mặt biểu hiện. Nhưng về mặt ý nghĩa, đó chính là hai đối cực
trong một bảng quang phổ về hạnh phúc và khổ đau.
Theo Phật giáo, khi
mệnh chung một người không hóa sinh thành chư thiên mà lại trở
thành một vong linh là do khi sống người ấy không biết bố thí
cúng dường hoặc đã gieo tạo nhiều nghiệp ác xấu. Thời tiền
Phật giáo, điều này được ‘cứu gỡ’ qua nghi lễ tế lửa của Bà la
môn. Trong nghi lễ tế lửa, vị chủ tế giúp người chết thực hiện
bổn phận bố thí cúng dường ngang qua việc đưa vật cúng vào ngọn
lửa linh hiến tế. Sau đó, Phật giáo đã vận dụng tập tục tín
ngưỡng sẳn có này với nội dung và ý nghĩa mới, xây dựng
truyền thống dâng cúng phẩm vật lên ngôi Tam bảo. Dần dần lễ Vu
lan được thiết lập và câu chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ càng lúc
càng tỏa sáng, tác động mạnh vào tâm linh của những người con
hiếu thảo.
Khi tiếp xúc với nền
văn hóa trọng chữ hiếu của Trung Quốc và Việt Nam, lễ Vu lan đã
thăng hoa thành một lễ hội văn hóa lớn với ý nghĩa trọng tâm
là ‘uống nước nhớ nguồn’, nhớ ơn và đền đáp công ơn, nhất là thâm
ân sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, dù còn hiện hữu trong đời hay
đã là những vong linh hay hương linh đã quá vãng. Ngày nay, lễ hội Vu
lan đã là điểm son trong đời sống văn hóa của những người con
Phật khắp nơi trên thế giới.
Nguồn http://thenhu.blogspot.com
-ooOoo-
http://www.buddhismtoday.com/viet/vulan/quanniemvonglinhdenhoiVuLan.htm