...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- TÔI ĐỌC
- "ĐẤT VIỆT, NGƯỜI
VIỆT, ĐẠO VIỆT"
- & "HÀNH HƯƠNG
ĐẤT PHẬT" của Phan Thiết
Trần
Chung Ngọc
III. Phê
Bình Phan Thiết Viết Về Ki Tô Giáo
Ngoài việc viết bậy về Phật Giáo, Phan Thiết cũng còn
viết bậy về khoa học và Gia Tô Giáo, tôn giáo truyền thống của gia đình
ông, không rõ đã từ bao nhiêu đời. Có lẽ quý độc giả nghĩ rằng, là
một tín đồ Gia Tô Giáo, chắc hẳn kiến thức của Phan Thiết về tôn
giáo của ông phải đúng và thành thật hơn là kiến thức về Phật Giáo.
Không hẳn vậy. Cái hiểu về Gia Tô Giáo của Phan Thiết cũng không hơn gì
cái hiểu về Phật Giáo của ông. Sau đây tôi sẽ phân tích một số điều
Phan Thiết viết về Gia Tô Giáo. Trước hết là vài điều Phan Thiết viết
về khoa học. Bám vào điều hoang tưởng "diệt ngã," Phan Thiết
đưa khoa học vào để chứng minh, HHĐP I, trg. 16:
"..tôi không thể
diệt được tôi, cái tôi vẫn lù lù hiện ra chỉ cho tôi xem công thức
phá hủy một nguyên tử E = mc2 của Albert Einstein. Khi phá hủy khối lượng
m cần dùng bình phương tốc độ ánh sáng.."
Viết câu trên, Phan Thiết
có ý khoe rằng mình cũng biết về nhà khoa học nổi danh nhất thế kỷ 20
là Albert Einstein đấy. Nhưng kiến thức của Phan Thiết về khoa học cũng
thuộc loại kiến thức tạp nham, vì công thức trên của Einstein không
phải là công thức phá hủy một nguyên tư렭à là công thức xác định năng lượng tương ứng của
một khối vật chất có khối lượng m, bất kể khối lượng m vật chất
đó là khối lượng nào, chứ không dành riêng cho nguyên tử. Đó là năng
lượng tiềm ẩn trong khối lượng m của vật chất, và khi phá hủy
khối lượng trên ta không cần dùng đến bình phương vận tốc của ánh
sáng. Phan Thiết có thể cho độc giả biết là khi phá hủy khối lượng m
thì ta cần dùng bình phương tốc độ ánh sáng để làm gì và dùng nó như
thế nào được chăng? Vật lý nguyên tử không phải để cho những người
như Phan Thiết viết bậy đâu. Vì ngay cả những kiến thức thông thường
về Thái Dương Hệ, Phan Thiết còn không nắm vững, làm sao đi vào Vật
Lý hiện đại? Thật vậy, trong cuốn Đất Việt..., trg. 357, Phan Thiết
viết một cách trống rỗng, huênh hoang và sai lầm như sau:
"Chúa thông ban
sự vinh quang cho những tạo vật tôn thờ ngài như mặt trời tỏa ánh
sáng cho các tinh tú trong Thái Dương Hệ."
Trong Thái Dương Hệ không
có tinh tú. Tinh tú là các vị sao trên trời, tự chúng sáng vì chúng có
cùng một cấu tạo như mặt trời. Trong Thái Dương Hệ chỉ có mặt trời
(1 vị sao) và 9 hành tinh. Các hành tinh này tự nó không có ánh sáng. Những
tạo vật tôn thờ Chúa (tín đồ) cũng tối tăm như những hành tinh trong
Thái Dương Hệ nên cần đến "ánh sáng vinh quang" của Chúa soi
sáng. Trong khi đó, 70% của 6 tỷ người trên trái đất không phải là những
tạo vật tôn thờ Chúa cho nên tự họ trong sáng như những tinh tú trên trời.
Sự vinh quang của Chúa ban cho những tạo vật tôn thờ Chúa như thế nào?
Được làm tôi tớ hèn mọn của Chúa? của Vatican? Được lên Thiên đường
(mù) sau khi chết? Đó là ánh sáng hay sự tăm tối của trí tuệ? Thật là
đáng buồn, ở trên đời có những hạng người không muốn làm người,
chỉ muốn làm tôi tớ hèn mọn.
Sau đây chúng ta hãy xét đến kiến thức của Phan Thiết về
Gia Tô Giáo, tôn giáo mấy đời của nhà ông. Phan Thiết viết, Đất Việt...,
trg. 14:
"Trong sách tôi
dùng các chữ "đạo Gia Tô, đạo Thiên Chúa, đạo Công Giáo" đều
cùng một nghĩa là đạo thờ Chúa Trời do Chúa Jêsu làm giáo chủ sáng lậ밠năm thứ nhất sau công
nguyên."
Chúa Trời của Phan Thiết
thật là đặc biệt, có lẽ vì là con của Thánh Linh hay Thánh Ma (Holy
Ghost) với bà Maria, sáng lập đạo Gia Tô từ khi còn mặc tã lót, khi mới
nhiều nhất là 1 tuổi (năm thứ nhất sau công nguyên). Chẳng trách đầu
óc những tín đồ thuộc loại Phan Thiết tôn thờ Chúa Trời chẳng qua cũng
chỉ là đầu óc của những đứa con nít chưa phát triển trí tuệ, chưa có
khả năng suy nghĩ v...v... Chẳng vậy mà Phan Thiết nhập nhằng lý tưởng
cứu độ trong đạo Phật với cái bánh vẽ "cứu rỗi" trên trời
của Gia Tô Giáo để mà viết rằng, HHĐP II, trg. 120:
"Tôi tìm thấy
chữ độ rất lớn trong đạo Thiên Chúa hay đạo lý của đạo này định
nghĩa Thiên Chúa là tình yêu, Thiên Chúa là cứu độ." (HHĐP II,
trg. 120).
Phan Thiết không đọc Thánh
Kinh nên viết nhảm nhí về nhân vật Giêsu mà ông gọi là Thiên Chúa,
vì nói đến tình yêu của Chúa là nói đến lông rùa, sừng thỏ; là nói
đến điều được Giáo hội và bố mẹ nhồi vào đầu óc từ khi còn nhỏ.
Thật vậy, chúng ta hãy dùng ngay Thánh Kinh Gia Tô
Giáo để tìm hiểu tình yêu của Thiên Chúa và Thiên Chúa "cứu độ"
như thế nào. Bỏ qua Cựu Ước mà trong đó ta thấy những hành động
ác độc vô tiền khoáng hậu của Chúa Cha, chúng ta hãy đi vào Tân Ước
để xem cái mà Phan Thiết gọi là "Thiên Chúa là tình yêu,"
"Thiên Chúa là cứu độ" của Chúa Con (Jesus) ra sao?
Chúa Con (Jesus) phán, Matthew 12: 30: "Kẻ nào không theo
ta, ở với ta, là chống đối ta" (He who is not with me is against me).
Tôi không theo Chúa, không ở với Chúa, nghĩa là chống đối
Chúa. Vậy Chúa làm gì tôi nào? Đày hỏa ngục chăng? Hỏi Gion Pôn Hai xem
có hỏa ngục hay không và hỏa ngục ở đâu?
Chúa dạy phải đối xử với những người không chấp nhận
Chúa ra sao? Thánh Kinh đã viết rõ, Luke 19:27 :
"Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây, những người
không muốn Ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt Ta" (Bring
here those enemies of mine who did not want me to reign over them and slay them before me).
Đó là quan niệm về "tình yêu" và "cứu độ???"
của Chúa Con. Một người tâm địa độc tôn, độc ác như vậy có đáng
để tôi kính trọng hay không, khoan nói đến việc tôn thờ. Tôi có cảm tưởng
là tình yêu của Chúa Con thì tương đương với "tình yêu" của những
Bạo Chúa trên thế gian như Tần Thủy Hoàng, Kiệt, Trụ hay Ceasar v...v...
Chẳng vậy mà, theo sát Thánh Kinh, Giáo hội Gia Tô đã gây nên 9 cuộc
Thánh Chiến, kéo dài những Tòa Hình Án (Inquisition) trong 400 năm, bách
hại dân Do Thái trong suốt 2000 năm, làm tiền phong, đồng hành, hay theo
gót thực dân v...v... nhằm tiêu diệt những người không tin Jesus, không muốn
theo đạo Chúa, với kết quả là cả trăm triệu sinh mạng vô tội đã
được Giáo hội, nhân danh tình yêu của Chúa, nhân danh chương trình
"cứu độ" của Chúa, tra tấn, tù đầy và giết chóc. Ngày 12
tháng 3 năm 2000, Giáo hoàng Gion Pôn Hai đã nhân danh cái gọi là "Hội
Thánh" xin thế giới tha thứ cho những tội ác của "Hội
Thánh" đối với nhân loại trong 20 thế kỷ nay, nhân danh "tình
yêu" và "vinh quang" của Chúa. Ông Phan Thiết ngồi trong cái lưới
vô hình xiềng xích trí tuệ, không biết gì đến bên ngoài, có muốn hưởng
tình yêu và vinh quang của Chúa xin cứ tùy tiện, nhưng đối với tôi, tôi
chẳng màng cái loại tình yêu và vinh quang thuộc loại bán khai này.
Nhưng không phải chỉ có vậy. Chúng ta còn thấy trong Thánh
Kinh những lời nói, hành động của Chúa Con chứng tỏ một tâm địa
không có gì đáng tán thưởng đối với ngay cả chính gia đình mình. Chứng
minh? Chúng ta hãy trích dẫn vài đoạn khác trong Thánh Kinh. Trước hết,
Jesus đối với cha mẹ ra sao?
Chúng ta thấy trong John 2: 4, Jesus trả lời mẹ khi bà nói với
Jesus là rượu đã hết trong một tiệc cưới: "Người đàn bà kia,
sự quan tâm của bà có liên quan gì tới Ta? Chưa đến lúc Ta trổ
tài" (Woman, what does your concern have to do with Me? My hour has not yet
come). Tài gì? Tài biến nước thành rượu. Đây có phải là lời lẽ của
một người con hiếu kính cha mẹ? Và khi một đệ tử của Jesus nói,
Matthew 8: 21-22: "Xin để con đi chôn cất cha con xong con sẽ đi theo Ngài"
Jesus trả lời: "Hãy đi theo ta ngay, hãy để cho người chết (người
không đi theo Giêsu. TCN) lo mai táng người chết của họ" (Then
another of His disciples said to Him: "Lord, let me first go and bury my
father." But Jesus said to him, "Follow me, and let the dead bury their own
dead."). Phải chăng đây là sự khuyến khích lòng hiếu kính đối với
cha mẹ?
Ấy thế mà Phan Thiết dám đặt bút viết: "Đạo hiếu
trong Gia Tô Giáo có thể nói là tuyệt vời vì liên kết kẻ sống và người
chết trong tình yêu của Chúa." (Đất Việt.., trg. 338). Có phải
ông chỉ nhắc lại những điều "giáo hội dạy rằng" như con vẹt,
không hề biết đến sự thực như thế nào. Mấy tên mũi lõ mắt xanh vào
Việt Nam rao giảng cái đạo bất kính với bố mẹ, bắt tín đồ không
được thờ cúng tổ tiên trong hơn 400 năm, tín đồ cứ việc nhắm mắt
tuân theo cho đến khi Tòa Thánh cho phép được cúng kiếng trở lại gần
đây. Tinh thần nô lệ rõ rệt như vậy mà bây giờ còn bày đặt chuyện
hiếu với đễ Mai mốt, một Giáo hoàng điên nào lại trở trò cấm thờ
cúng tổ tiên, tín đồ lại nhắm mắt tuân theo, không bàn cãi. Cái
vòng kim cô trên đầu Gia Tô Giáo ở Việt Nam nó là như vậy, làm sao
thoát được?
Mục đích của Jesus trên thế gian là gì, Matthew 10: 34-36 đã
viết rõ:
"Đừng tưởng
rằng Ta xuống trần để mang lại hòa bình trên trái đất. Ta không xuống
đây để mang lại hòa bình mà là gươm giáo. Vì Ta xuống đây để làm
cho con chống lại cha, con gái chống lại mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng,
và kẻ thù của con người ở ngay trong nhà hắn."
(Do not think that I came to bring peace on earth. I did not
come to bring peace but a sword. For I have come to set a man against his father, a
daughter against her mother, and a daughter-in-law against her mother-in-law. And a man's
foes will be those of his own household).
Phải chăng những điều khẳng định trên của Giêsu bắt
nguồn từ "tình yêu" của Chúa? Sau đây là điều kiện Jesus đặt
ra cho những người nào muốn làm môn đồ của ông, Luke 14: 26:
"Nếu kẻ nào
đến với ta mà không "căm ghét" cha mẹ, vợ con, anh chị em, và
ngay cả đời sống của hắn, thì hắn không thể là môn đồ của
ta."
Theo Gene Kasmar thì chữ
"căm ghét" là dịch từ tiếng Hi Lạp "miseo," có nghĩa là
ghét tởm và khinh khi.
(If anyone comes to me
and does not hate his father and mother, wife and children, brothers and sisters, yes, and
his own life also, he cannot be my disciple). The Greek word "miseo" translated
"hate," means "detest" and "despise" (Gene Kasmar in
All The Obscenities in the Bible, p. 359)
Có điều kiện nào vô lý lẽ,
đối nghịch với gia đình, hơn điều kiện trên không? Ấy thế mà những
tín đồ ngày nay, đầu óc cũng đặc kịt như "phiến đá"
Phê-rô, tôn thờ Giêsu, vì nghĩ rằng mình sẽ được ăn một cái bánh vẽ
trên trời riêng cho mình, bất kể đến gia đình họ hàng ra sao. Chưa có một
tôn giáo nào lại tạo cho tín đồ một tâm cảnh ích kỷ như vậy.
Còn đối với những người không tin Jesus thì Jesus dùng lời
lẽ như thế nào đối với họ?
Luke 8: 24: "Nếu
ngươi không tin ta laì con Thượng Đế, ngươi sẽ chết trong tội lỗi của
ngươi." (If you do not believe that I am He, you will die in your sins).
Matthew 12: 34: "Ôi thế hệ của những loài rắn độc,
ác như các ngươi làm sao có thể nói những lời tốt lành?" (O
generation of vipers! how can you, being evil, speak good things?).
Matthew 23: 33: "Ngươi là loài rắn, ngươi là thế hệ của
những rắn độc, làm sao các ngươi thoát khỏi hỏa ngục?" (You
serpents, you generation of vipers, how can you escape the damnation of hell?).
Trên đây tôi vừa trích dẫn
vài lời nói của Chúa Con phản ánh "tình yêu" và kế hoạch
"cứu rỗi" (không phải là cứu độ) của Chúa. Sau đây là vài
hành động của Jesus cũng phản ánh "tình yêu," theo định nghĩa về
"tình yêu Thiên Chúa" của Thiên Chúa Giáo như Phan Thiết đã viết
ở trên.
Chúng ta biết rằng, trong Mark 7: 25-29, khi một người đàn
bà không phải là người Do Thái đến xin Jesus chữa bệnh cho con gái thì
Jesus đã từ chối, nói rằng Jesus xuống trần chỉ để cứu người Do Thái
mà thôi, và còn gọi người đàn bà kia là chó. Sau người đàn bà chấp
nhận thân phận mình là chó để chứng tỏ lòng tin vào Jesus nên Jesus mới
chữa cho con gái bà khỏi bệnh. Đó là tình yêu của Chúa đối với đồng
loại.
Từ chuyện này tôi nghĩ, Phan Thiết và người Việt Nam nào
muốn tìm sự cứu rỗi trong Chúa Jesus xin cứ tùy tiện, tôi tuyệt đối tôn
trọng niềm tin của quý vị, nhưng trước hết quý vị phải từ bỏ thân
phận làm người của mình rồi hãy tính chuyện cứu rỗi với Chúa Giêsu.
Chúng ta cũng biết, trong Matthew: 8: 32, Mark 5: 13, Jesus đã
đuổi quỷ từ trong hai người bị quỷ ám, cho chúng nhập vào 2000 con heo
rồi bắt đàn heo nhào xuống biển chết đuối hết. Đó là tình yêu của
Chúa đối với đàn súc vật vô tội.
Và chúng ta cũng biết, trong Matthew: 21: 18,19, hôm đó Jesus
đang đói, nhìn đàng xa thấy một cây sung, nhưng tới gần chẳng thấy có
quả nào, Jesus bèn nổi sùng rủa một tiếng, thế là cây sung chết héo
queo, không bao giờ có thể ra trái nữa. Đó là tình yêu của Chúa đối với
cây cỏ.
Với những lời ăn tiếng nói của Giêsu đối với cha mẹ
và gia đình như trên, với những hành động của Giêsu đối với đồng
loại, súc vật, và cây cỏ như trên, mà Phan Thiết tung hô Giêsu y hệt như
giáo dân Ma Giáo tung hô giáo chủ Nhậm Ngã Hành (Kim Dung: Tiếu Ngạo
Giang Hồ), như sau, Đất Việt..., trg. 357:
"Chúa vinh quang
vì Chúa là Thánh. Chí Thánh, Cực Thánh, Rất Thánh, là bản thể của
Chúa, ngoài Thiên Chúa thì chẳng có gì là Thánh. Tín đồ Thiên Chúa Giáo
là dân Thánh Chúa...số lượng của họ đông vô vàn như sao trên trời và
cát dưới biển."
Chỉ còn thiếu câu "Muôn
năm trường trị, nhất thống sơn hà" là Phan Thiết có thể làm
giáo dân Ma Giáo của Kim Dung được rồi. Nhưng thế nào là Thánh? Theo quan
niệm của tuyệt đại đa số dân Việt Nam thì Thánh là những bậc đại
nhân, đại đức, cao cả, thanh tịnh, thuần thiện, trí tuệ sáng suốt
v...v... là những tấm gương để cho người đời soi vào để học hỏi,
hoặc những bậc anh hùng vĩ đại có công cứu nước, giúp nước. Theo những
tiêu chuẩn này thì đạo đức và trí tuệ của Giêsu có xứng đáng với
ý nghĩa Thánh của Việt Nam hay không? Theo Phật Giáo, trong thế giới của
hiện tượngﬠthường được biết dưới thuật ngữ Sự Pháp Giới,
Thánh là các bậc đã đầy đủ các thuộc tính trên và đã đạt được
những quả vị như Thanh Văn, Duyên Giác, Đại Bồ Tát và Phật. Nhưng
trong thế giới của Lý hay Lý Pháp Giới, thì bậc Đại Giác Bồ Đề Đạt
Ma đã khẳng định là "Quách Nhiên Vô Thánh." Người Việt
Nam tôn thờ các bậc Thánh trong dân gian như Đức Thánh Trần, Đức Thánh
Gióng v..v..., những bậc đã có công giúp nước thắng ngoại xâm.
Còn Thánh trong Gia Tô Giáo ra sao? Như Thánh Tổ Phụ Abraham,
lấy em ruột làm vợ rồi dâng vợ cho các Vua Ai Cập đổi lấy trâu bò đồng
ruộng, sau cùng nghe lời Chúa Cha xui dại, định ra tay giết đứa con ruột
của mình? (Sáng Thế 20, 21); hay như Thánh Lot, dâng hai con gái còn trinh cho
bọn cướp muốn làm gì thì làm (bọn cướp từ chối, không thèm), sau đó
lại ngủ với cả hai đứa con gái ruột của mình làm cho chúng mang bầu cả
hai? (Sáng Thế 19); hay như Thánh Moses, sản phẩm của một cuộc loạn luân
(Exodus 6: bố của Moses lấy cô ruột của mình, sinh ra Moses và Aaron), theo lời
Chúa Cha giết người không gớm tay, cùng ra lệnh cho quân dưới trướng phải
giết sạch đàn ông, đàn bà và con nít trong một thị trấn, chỉ để lại
gái trinh và dâng cho Chúa một phần là 32 trinh nữ? (Numbers 31); hay như chính
Thánh Giêsu, với những lời ăn tiếng nói và hành động như tôi vừa dẫn
chứng ở trên, và theo thuyết Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Ma
là một, do đó vừa là cha, vừa là chồng, vừa là con của bà Maria? Và
còn nhiều Thánh đặc biệt khác trong Gia Tô Giáo nữa, làm sao mà kể cho hết?
Thánh Kinh viết rõ như vậy đó, mời ông Phan Thiết mở Thánh Kinh
ra mà đọc để thấy tính cách "chí Thánh, cực Thánh, rất Thánh"
trong Gia Tô Giáo.
Theo quan niệm cuồng tín Thiên Chúa Giáo của Phan Thiết
thì những người mù lòa tin bướng tin càn rất là thánh, vượt xa định
nghĩa về Thánh nhân mà chúng ta thường hiểu. Chúng ta hãy đọc quan niệm
về thánh rẻ như bèo của Phan Thiết để thấy sự cuồng tín của ông
lên tới mức độ nào, Đất Việt..., trg. 358:
"Việt Nam Giáo
Sử của Phan Phát Huồn có nêu tên hai linh mục quá khóa triều Nguyễn và
giữ tình trạng bỏ Chúa cho đến lúc chết. Trước Tòa phán xét Chúa sẽ
nói với hai ông linh mục kia rằng: "Loài vô phúc, các ngươi đã chối
bỏ ta trước mặt vua quan, thì ta cũng chối bỏ các ngươi trước mặt Thiên
Chúa Cha. Hãy đi mà nhận phần dành cho các ngươi nơi nghiến răng và khóc
lóc."
Vì thế những ai giữ nghĩa cùng Chúa cho đến hơi thở cuối
cùng đều có quyền chia động từ "là Thánh": Tôi là thánh, Anh
là thánh, Chúng ta là thánh...
Ý nghĩa chữ thánh trong đạo Thiên Chúa rộng rãi như thế..."
Với quan niệm về thánh
như trên, Phan Thiết đã cố sức ngụy biện cho việc phong 117 "thánh tử
đạo" Việt Nam của Vatican. Chúng ta hãy phân tích đoạn trên của Phan
Thiết.
Thứ nhất, Việt Nam Giáo Sử của Phan Phát Huồn chứa
đầy những gian dối, ngụy tạo sai lịch sử, không thể nào đáng tin cậy.
(Xin đọc "LM Trần Lục: Thực Chất Con Người và Sự Nghiệp"
của Bùi Kha và Trần Chung Ngọc, trg. 91-98).
Thứ nhì, Phan Thiết viết tầm bậy. Ngày phán xét là ngày
nào? Ai có quyền phán xét ai? Ai công nhận Tòa phán xét của Chúa? Tòa
phán xét lập ở đâu? trên trời hay dưới đất. Hai linh mục đã từ bỏ
Chúa rồi và xương thịt đã mục nát hết rồi, Chúa phán xét cái gì?
vài mảnh xương khô hay sao. Phan Thiết làm sao biết được Chúa sẽ nói với
mấy mảnh xương vụn kia những gì, giả thử là có một ngày phán xét
theo óc tưởng tượng của những người có đầu mà không có óc hoặc óc
thuộc loại mì ăn liền. Biết đâu Chúa chẳng nói rằng: "Hai đứa
bay thông minh thật, đã từ chối những lời hứa hão và vô trách nhiệm của
ta . (Một số dân Uganda theo một tên "tiên tri" Gia Tô La Mã lừa
dối là ngày phán xét đã tới nên đã bị lùa vào nhà thờ ngày 17 tháng
3 năm 2000, rồi bị tên này thiêu sống chết hơn 500 người, nhưng hắn với
vài phụ tá lại chuồn đi với va li đầy bạc, (tổng số chết vì bị lừa
dối và mơ tưởng được lên Thiên đường cùng Chúa ở Uganda nay đã lên
tới hơn 900 người); trước đây bọn theo "Chúa giáng trần"
David Koresh cũng như bọn theo "Giáo chủ" Jim Jones cũng vậy,
đều bị chết thảm vì tin vào ngày tận thế viết nhảm nhí trong Thánh
Kinh). Vì vậy ta cho hai đứa bay lên Thiên đường, còn những đứa mù
lòa tin bướng tin càn, ta cho chúng đi theo David Koresh và Jim Jones xuống hỏa
ngục hết." Ai có thể khẳng định là Chúa sẽ nói như thế nào?
Phan Thiết tưởng tượng ra một đường, tôi tưởng tượng ra một nẻo,
ai đúng ai sai? Dựa vào đâu để mà khẳng định là ai đúng, ai sai? Nhưng
có lẽ Phan Thiết chỉ thích viết bừa mà không để ý rằng chính những
điều mình viết lại có tác dụng phản lại ý định của mình. Thật vậy,
Phan Thiết muốn tôn vinh quyền phán xét người sống người chết của Chúa,
nhưng câu Chúa phán trên lại chứng tỏ một tâm địa vô cùng hẹp hòi của
Chúa. Người ta chối bỏ mình là người ta sử dụng tự do ý chí mà Chúa
Cha ban cho người ta, nếu chúng ta có thể tin được điều ngụy biện này,
thường được giáo hội dùng để biện minh cho sự hiện hữu của những
sự xấu ác trên thế gian. Tại sao lại phải mắng người ta là đồ vô
phúc và chối bỏ người ta trước Chúa Cha? Người ta đã chối bỏ mình
thì người ta còn cần gì đến mình và Chúa Cha nữa? Thật là vớ vẩn.
Lòng yêu thương của Chúa mà Phan Thiết quảng cáo nằm ở đâu? Chúa đã
tình nguyện leo lên thập giá để cho người ta đóng đinh, rửa sạch
"tội tổ tông" hoang đường của nhân loại mà lại cần người
ta phải chấp nhận mình hay sao? Như vậy là bất thiện, vì đó là làm việc
thiện với mưu đồ, không phát xuất từ một tâm rộng lớn vô phân biệt,
còn thua xa các Bồ Tát tình nguyện xuống địa ngục cứu vớt tất cả,
không phân biệt, và không thấy cả mình là người đi cứu vớt, hoặc những
chúng sinh được cứu vớt. Hi vọng Phan Thiết hãy suy nghĩ lại và đừng
tiếp tục viết tầm bậy nữa thì hơn.
Thứ ba, tiêu chuẩn làm thánh trong Gia Tô Giáo, theo quan niệm
của Phan Thiết, là chỉ cần tin Chúa đến hơi thở cuối cùng, không đếm
xỉa gì tới vấn đề đạo đức, trí tuệ, và giúp ích cho nhân loại. Cũng
vì vậy mà trong Gia Tô Giáo có những Giáo hoàng hoang dâm, giết người
như ngóe, những linh mục cưỡng dâm trẻ phụ tế, những kẻ phản bội
quốc gia, những tên đầu trộm đuôi cướp v..v... đồng hạng thánh với
những tín đồ lành thiện, nhân đức, trí tuệ sáng suốt ở trong Giáo hội.
Thật là tội nghiệp cho họ, vì ham một cái bánh vẽ trên trời mà phải
ăn cùng chiếu, nằm cùng giường với những hạng người tệ mạt như trên.
Vậy ý nghĩa chữ thánh trong Gia Tô Giáo, theo quan niệm của Phan Thiết, thật
ra là hẹp hòi hay rộng rãi, xin để cho quý độc giả tự mình nhận định.
Thứ tư, tôi không muốn bàn về chuyện phong thánh ở đây.
Nhưng theo tiêu chuẩn thánh của Phan Thiết thì việc phong thánh đúng là
chuyện chính trị thế tục, vì theo như Phan Thiết thì những người tin Chúa
đã là thánh rồi, phong thánh là công việc dư thừa, nếu không phải có mục
đích thế tục, khuyến khích và khích động lòng cuồng tín của tín đồ,
nhiều khi với mục đích gây loạn trong những quốc gia nhỏ bé mà dân
trí người dân còn thấp? Gia Tô Giáo chỉ chiếm khoảng từ 5 tới 7 phần
trăm dân số Việt Nam. Bất kể những tín đồ Gia Tô Việt Nam nghĩ thế nào
về thánh trong gia tô giáo, chúng ta không thể bỏ qua ý nghĩ của hơn 90% dân
tộc Việt Nam. Để giúp Phan Thiết thấy rõ đâu là ý nghĩ của tuyệt đại
đa số dân Việt Nam này về chuyện phong thánh, tôi xin trích dẫn một đoạn
trong cuốn Thực Chất Của Giáo Hội La Mã của Giáo sư Sử học Nguyễn
Mạnh Quang. Sau khi trích dẫn một số tài liệu lịch xử mà tính chất
xác thực của chúng không ai có thể phủ bác, giáo sư Nguyễn Mạnh Quang
đã viết như sau, Tập I, Chương 10, trg. 265 - 285:
"Ở Âu Châu, người
ta không hề nổi loạn chống lại chính quyền mà Giáo Hội (Gia Tô) cũng lôi
cổ người ta ra tòa xử người ta về tội khác tín ngưỡng, và các tòa
hình án của Giáo Hội đã giết hại đến hơn 11 triệu người. Ấy thế
mà ở Việt Nam, Giáo Hội lại đòi phải có quyền tự do truyền đạo.
Được đằng chân, lân đàng đầu, khi được phép tự do
truyền đạo rồi tới khi có một số tín hữu tin theo thì Giáo Hội lại
xúi dục giáo dân không tuân hành tập tục và luật pháp của chính quyền
Việt Nam, mà chỉ biết tuân lệnh Giáo Hoàng ở La Mã và xúi dục giáo
dân nổi loạn, lật đổ chính quyền để thiết lập một vương quốc Gia
Tô Giáo. Quý vị thử nghĩ xem còn có hành động nào hỗn xược, ngược
ngạo hơn những hành động này không?
"Quốc hữu quốc pháp, gia có gia quy." Ở đâu thì
cũng phải có quan trị quan nhậm. Con người ở bất kỳ quốc gia nào trên
trái đất này cũng đều hiểu rằng "Nhập gia tùy tục, đáo giang tùy
khúc." Đến nước người ta mà không tuân hành tục lệ của nước
người ta đã là một điều trái tai gai mắt, không thể chấp nhận được.
Không những thế, họ lại còn không tuân hành luật pháp quốc gia người
ta nữa. Tệ hơn nữa, họ lại còn xúi dục dân chúng nổi loạn nhằm cướp
chính quyền để thiết lập một chính quyền chuyên chính độc tôn giáo
thì xin hỏi, những người đó có phải là những quân thổ phỉ, những phường
giặc cướp, kẻ thù của dân tộc Việt Nam hay không? "Quốc gia hưng
vong, thất phu hữu trách." Là người dân của một nước, sống trong mảnh
đất mà ông cha tổ tiên từ bao nhiêu đời kế tiếp nhau hy sinh không biết
bao nhiêu môư hôi, nước mắt và xương máu mới tạo dựng nên được, đã
không ra công bồi đắp cho đất nước ngày một khá hơn thì thôi, ấy thế
mà chỉ vì bất mãn nhất thời hay sống trong cảnh cùng khổ mà ngu xuẩn
đến độ đi nghe lời xúi dục của người ngoài, nhẫn tâm "rước
voi về giầy mả tổ," phá nát cơ đồ của tổ tiên để lại, thì những
hạng người ấy có phải là những quân Việt gian, mãi quốc cầu vinh hay
không? Những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican hãy suy cho kỹ, nghĩ
cho cùng, để xem 117 người được Giáo Hội La Mã phong thánh vào ngày 19
tháng 6 năm 1988 có phải là những quân "thổ phỉ" và những phường
"cõng rắn cắn gà nhà" hay không? Chúng tôi muốn trình bày với những
người Việt Nam mang quốc tịch Vatican một điều như thế này: Các ông
cho rằng 117 người trên đây đã được Giáo hội La Mã của các ông phong
thánh thì họ là thánh. Đó là quyền tự do của các ông. Nhưng đối với
đại khối dân tộc Việt Nam. ai cũng tin rằng 117 ông thánh này là tội đồ
của dân tộc, dù người đó là người Việt Nam hay người ngoại quốc....
Chính vì vậy mà người tín đồ Thiên Chúa La Mã Giuse
Phạm Hữu Tạo, sau khi tỉnh ngộ và quyết tâm trở về với dân tộc, đã
thẳng thắn và dõng dạc tuyên bố rằng: "Ta thà làm quỷ nước Nam
chứ không thèm làm thánh của Đại Công Ty Rô Ma (Vatican)."
Một đoạn ngắn như trên
cũng đủ để soi sáng cho Phan Thiết về vụ phong thánh. Nếu chúng ta chấp
nhận và tôn trọng quy ước trong một chế độ dân chủ mà Vatican vẫn
tuyên truyền đó là mục tiêu tranh đấu của Vatican hiện nay, thì trong một
nước, ý muốn của đa số người dân phải thắng thiểu số và được tôn
trọng. Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã cho chúng ta thấy rõ lập trường của
tuyệt đại đa số dân chúng Việt Nam. Vậy thì, việc phong thánh của
Vatican có giá trị gì đối với người Việt Nam, và người dân Việt Nam
có thực sự coi những tội đồ của dân tộc được Vatican phong thánh là
thánh không? Hỏi tức là đã trả lời. Ngay chính trong nội bộ Giáo hội
La Mã cũng chẳng còn mấy người coi việc phong thánh của Vatican là có ý
nghĩa gì. Vì trước sự lạm phát của việc phong thánh, Hồng Y Silvio Oddi
đã phải thốt lên lời châm biếm: "Vatican đã trở thành một cái
xưởng sản xuất thánh" (Vatican has become a saint factory).
Vì không biết đến lòng yêu nước của người dân Việt
Nam, đến dân tộc tính Việt Nam thậm ghét những kẻ phản bội quốc gia,
đến lập trường của tuyệt đại đa số người dân về ý nghĩa của thánh
và về việc phong 117 tội đồ dân tộc lên làm thánh Gia Tô v...v..., nên
Phan Thiết đã ngây thơ và trách nhà nước Việt Nam một cách quái đản
như sau, Đất Việt..., trg. 377:
"Nhà nước đã
không chấp thuận đề nghị của Hội đồng giám mục Việt Nam cho phép tổ
chức lễ phong thánh ngay trên đất nước Viê봠Nam, mời Giáo chủ John Paul II sang chủ sự..."
Tôi không hiểu sao Hội đồng
giám mục Việt Nam lại đần đến độ đưa ra một đề nghị vô lý như
vậy, nếu chuyện đề nghị này là có thật, không phải là chuyện do Phan
Thiết bịa ra. Làm sao có thể chấp thuận cho một thế lực chính trị và
kinh tế ngoại bang, ngụy trang sau bộ mặt tôn giáo, tới Việt Nam để
phong cho những tội đồ của Việt Nam, những tên Việt gian phản quốc
v..v.. làm thánh để khích động sự cuồng tín tôn giáo của những tín đồ
bản địa, với hậu quả là sự mê mẩn với một cái bánh vẽ trên trời
có thể đưa đến sự hỗn loạn trong xã hội như lịch sử đã chứng
minh?
Trở lại câu "Tín đồ Thiên Chúa Giáo là dân Thánh
Chúa...số lượng của họ đông vô vàn như sao trên trời và cát dưới biển"
của Phan Thiết. Phan Thiết có biết là có bao nhiêu sao trên trời
không? Khoa học ngày nay đã chứng minh rằng, chỉ nguyên trong giải Ngân
Hà (Milky Way) mà Thái Dương Hệ nằm trong đó cũng đã có tới cả
trăm tỷ ngôi sao, và giải Ngân Hà cũng chỉ là một ốc đảo, một Thiên
Hà (galaxy), trong vũ trụ. Ngoài giải Ngân Hà ra còn cả triệu, cả tỷ
Thiên Hà khác rải rác trong vũ trụ. Mỗi Thiên Hà đều chứa ít ra là cả
tỷ ngôi sao, tương tự như giải Ngân HàﮠDân số trên thế giới ngày
nay mới có 6 tỷ trong đó 70% không theo đạo Giêsu, vậy ông phóng đại số
dân Thánh Chúa, dù theo nghĩa bóng, đông vô vàn như sao trên trời hay cát dưới
biển để làm gì? Phải chăng đây là phản ánh của một đầu óc thuộc
loại khuyết tật, cần đến "một sự giả dối trống rỗng và là
một cặp nạng cho những người có đầu óc yếu kém cần đến sức mạnh
trong số nhiều" ? Tôi không hiểu sao một bậc gọi là trí thức như
Phan Thiết lại có thể viết ra những lời huênh hoang rỗng tuếch như vậy.
Có thể ông chỉ lập lại những điều "giáo hội dạy
rằng" dựa trên những điều "không thể蠳ai lầm" trong Thánh Kinh. Thật vậy, chúng ta
có thể đọc trong Cựu Ước về giao ước của Thần Giavê với
Abraham, Sáng Thế 13: 16:
"Ta sẽ làm cho
dòng dõi ngươi như bụi trên đất; thế thì, nếu kẻ nào đếm đặng bụi
trên đất, thì cũng sẽ đếm đặng dòng dõi ngươi vậy"
Sau đó, trong một dịp
khác, Thần Giavê lại hiện ra và nói với Abraham trong một giấc mộng,
Sáng Thế 15: 5:
"Ngươi hãy ngó
lên trời và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi...Dòng
dõi ngươi cũng sẽ như vậy."
Hiển nhiên là không ai có thể đếm được bụi trên
đất hay sao trên trời, như vậy lời hứa của Chúa Cha chẳng qua là những
lời hứa hão, vô trách nhiệm, vì không bao giờ có thể thực hiện được.
Dòng dõi Abraham là người Do Thái. Thử hỏi Do Thái ngày nay có bao nhiêu
triệu dân so với dân của anh Ba? Hơn 20 triệu so với 1.4 tỷ. Dù rằng những
đầu óc khuyết tật diễn giải hoang đường rằng dòng dõi của Abraham
bao gồm tất cả những tín đồ Ki Tô trên thế giới gồm đủ mọi sắc
dân da đen, da đỏ, da vàng, da trắng, da lờ lờ v...v... thì tổng số tín
đồ này cũng chỉ chiếm vào khoảng tối đa là 1/3 dân số trên thế giới.
Nhưng không phải chỉ có mình Chúa Cha là hứa cuội, mà Chúa Con cũng thế.
Thánh Kinh đã viết rõ: Giê-su tin rằng chính mình là đấng cứu thế
của dân Do Thái, ngày tận thế sắp tới (Matthew 10:23, 16:28, 24:34; Mark 9:1,
13:30; Luke 21:30; Rom 13:11) và Giê-su sẽ trở lại thế gian (second coming)
một ngày rất gần với khí thế của một hung thần:
"Tóc trắng như
lông chiên, như tuyết, mắt sáng như ngọn lửa, chân như đồng sáng loáng
trong lò, tiếng nói vang ầm như thác đổ. Tay phải Ngài cầm bảy ngôi
sao, miệng cắn thanh gươm hai lưỡi sắc bén" (Thánh Kinh: Cựu Ước
và Tân Ước, Nguồn Sống, 1994: Cuốn Khải Huyền, Chương 1, đoạn
14-16 (Rev.: 1: 14-16).
Bao giờ trở lại? Chúng ta
có thể trích dẫn 2 đoạn khác trong Thánh Kinh:
Matthew 16:17-18:
"Ta sẽ trở lại với các thiên sứ trong vinh quang của cha ta để thưởng
phạt mỗi người tùy theo việc họ làm. Ta bảo đảm với các người, vài
người đang đứng đây sẽ vẫn còn sống cho đến khi thấy ta đi vào
trong vương quốc của ta." (For the Son of Man will come in the glory of
his Father with his angels, and then he will reward each according to his work. Assuredly,
I say to you, there are some standing here who shall not taste death till they see the Son
of Man coming in his kingdom).
Mark 9:1: Và Chúa nói với các môn đệ: "Ta bảo đảm
với các người là vài người đang đứng nơi đây sẽ vẫn còn sống cho
tới khi thấy vương quốc của Thượng đế đầy uy quyền" (And
He said to them, "Assuredly, I say to you that there are some standing here will not
taste death till they see the kingdom of God present with power).
Giê-su hứa hẹn sẽ trở lại
thế gian để phán xét con người, nghĩa là cho ai lên thiên đường thì
cho, bắt ai xuống hỏa ngục thì bắt, ngay trong thời mà một số người
đồng thời với ông còn sống, nhưng lời hứa này đã trở thành hứa
suông, và trong 2000 năm nay, tín đồ Gia Tô cứ dài cổ ra ngóng ngày phán
xét để lên thiên đường cùng Chúa. Nhưng thiên đường của Chúa, hay nước
Trời, hay nước Chúa, lại chỉ là điều Giáo hội bày đặt ra để dụ dỗ
đám tín đồ thấp kém, nhẹ dạ, cả tin. Vì trước những tiến bộ trí
thức của nhân loại, Giáo Hoàng John Paul II không còn cách nào khác là phải
tuyên bố cùng giáo dân đi hành hương ở Rô Ma, ngày 21 tháng 7, 1999, là chẳng
có thiên đường nào ở trên trời, tất cả là ở trong tâm con người và
ngay trong đời này, chứ chẳng phải ở đời sau. Rồi, một tuần lễ sau,
ngày 28 tháng 7, 1999, Ngài lại tuyên bố là chẳng có Hỏa Ngục nào ở dưới
lòng đất, tất cả cũng chỉ do tâm con người trong đời sống hiện tại.
Vậy, chuyện Chúa sống lại và xác bay lên thiên đường ngồi bên phải
Chúa Cha, và khả năng "cứu rỗi" của Giê-su cũng như chối bỏ những
người không tin theo Giê su trước Chúa Cha và đày đọa họ xuống hỏa ngục
rốt cuộc chỉ là những chuyện hoang đường, bịa đặt như Giáo Hoàng đã
uẩn hàm trong lời tuyên bố của ông. Các học giả ngày nay, ở trong cũng
như ở ngoài giáo hội, đã đồng thuận ở một điểm: chuyện Giêsu
thành lập giáo hội, hay trao quyền cho Phê rô thành lập giáo hội, là chuyện
thêm thắt vào Thánh Kinh của giới linh mục để tiếm quyền Chúa,
làm đại diện của Chúa trên trần để ngự trị đầu óc thấp kém của
tín đồ, vì ngày phán xét đã gần kề, Chúa sẽ trở lại trần trong một
tương lai rất gần như Thánh Kinh đã viết rõ như trên, vậy chuyện
thành lập giáo hội là chuyện vô lý, thành lập để làm gì?
Điều rõ ràng là Phan Thiết không hề biết đến những tiến
bộ ngay trong nội bộ giáo hội Gia Tô của ông cho nên vẫn còn bám vào những
niềm tin cũ kỹ, lỗi thời, đã không còn hợp lý và hấp dẫn trong thế
giới văn minh Tây phương. Sau đây, tôi xin đưa ra vài nhận xét về vài
đoạn Phan Thiết viết về đạo Thiên Chúa, Đất Việt....., trg.
284-288:
"Cựu Ước Kinh
là lịch sử của dân tộc Do Thái...Cuốn sách được ghi là tiền sử là
cuốn kinh Sáng Thế (Genesis) nói về việc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và
con người có tự do và ý chí... Chương trình của Cựu Ước kinh là chương
trình chuẩn bị cho đấng Messiah ra đời cứu chuộc con người do sự phản
nghịch của tổ tiên loài người là Adam và Eva.."
Có cái gì trục trặc ở
đây. Cựu Ước là lịch sử của dân tộc Do Thái, vậy những gì viết
trong Cựu Ước không liên quan gì đến toàn thể nhân loại. Cũng
như lịch sử dân tộc Việt Nam với truyền thuyết Bà Âu Cơ đẻ ra trăm
trứng làm nguồn gốc con rồng cháu tiên của người Việt Nam chẳng dính
dáng gì tới dân Do Thái với những Abraham, Isacc và Jacob v..v... Do đó, nếu
Adam và Eva có thật (trong ánh sáng của khoa học thì trái đất đã có tuổi
khoảng 4 tỷ rưỡi năm, và tổ tiên loài người đã xuất hiện trên trái
đất ít nhất là 2 triệu năm, trong khi theo Thánh Kinh thì Adam và Eva
mới được Chúa Cha tạo ra cách đây khoảng 6000 năm, vậy tin rằng Adam và
Eva là tổ tiên loài người là điều chỉ có những bộ óc đậu hũ mới
có thể tin được) thì họ cũng chỉ có thể là tổ tiên của người Do
Thái. Những người họ Đinh, Lê, Lý,rần v...v... tuyệt đối không có
dính dáng gì tới hai viên đất sét Adam và cái xương sườn của viên đất
sét được biến thành Eva, dù khoa học đã chứng minh rằng trong đất sét
không có chất hữu cơ, trái lại cơ thể con người phần lớn là chất hữu
cơ. Chúa chỉ chọn dân Do Thái là dân của Chúa và chương trình cứu chuộc
của Chúa trong Cựu Ước là chương trình cứu chuộc dân Do Thái sau
khi hành hạ dân Do Thái đủ điều. Chúa không biết trái đất có hình cầu,
không biết trái đất quay chung quanh mặt trời, tầm mắt của Chúa không
quá miền Trung Đông, trí tuệ và hành động của Chúa thấp kém và man rợ
thuộc thời bán khai như được viết trong Thánh Kinh, vậy làm sao
Chúa đủ tư cách để cứu chuộc loài người, nhất là những người
trong thế giới văn minh hiện tại, trí tuệ vượt xa trí tuệ của Chúa
trong Thánh Kinh. Giê-su khẳng định xuống trần chỉ để cứu dân Do
Thái, và dân Do Thái, vì cái lịch sử khốn khổ khốn nạn của mình, cũng
chỉ mong có một vị anh hùng dân tộc sinh ra để cứu dân Do Thái ra khỏi
cảnh trầm luân do chính Chúa Cha gây nên. Vị anh hùng này phải thuộc
dòng dõi vua David vì David đã có công làm cho Do Thái hùng mạnh một thời.
Phan Thiết viết:
"Đức Jêsu thuộc
dòng họ Đa Vit ra đời tại thành Be Lem như các tiên (sic) đã tiên báo.
Ngài tự nhận mình là Đấng Messiah. Ngài giảng đạo về nước Thiên
Chúa, làm các việc lạ lùng cho kẻ chết sống lại, cho kẻ điếc được
nghe, kẻ què được đi, kẻ mù được thấy... như bốn cuốn kinh Tân Ược
do bốn môn đệ của ngài viết lại từ thế kỷ thứ nhất.."
Viết như trên, Phan Thiết
đã phủ nhận tư cách thần thánh của Giê-su. Vì như vậy, Giê-su chỉ là
một người Do Thái bình thường, con của ông thợ mộc Giuse, thuộc dòng
dõi vua David. Còn lời tiên tri trong chương Isaiah trong Cựu Ưóc là về
một trinh nữ sẽ mang thai và sinh ra một đứa con trai, không dính dáng gì
tới dòng họ vua David. Lời tiên tri này thực sự không phải là tiên tri,
nhưng giáo hội đã cố tình diễn giải lệch lạc đi để lừa dối đám
tín đồ thấp kém, những người không có đầu óc suy luận và không hề
đọc Thánh Kinh. Phan Thiết thuộc loại tín đồ này nên nhắc lại
như con vẹt mà không thấy sự mâu thuẫn cùng cực trong câu viết trên.
Phan Thiết không đọc Thánh Kinh, lẫn lộn lời tiên tri trong Cựu
Ước với câu ông viết: "Jêsu thuộc dòng họ Đa vít."
Và hiển nhiên, Phan Thiết mù mịt về những công cuộc nghiên cứu Thánh
Kinh của các vị trong hàng giáo phẩm Gia Tô cũng như của các học
giaí và chuyên gia về tôn giáo tại các đại học danh tiếng trên toàn thế
giới.
Câu tiên tri trong Cựu Ước mà giáo hội khai thác để
biện minh cho thuyết Maria đồng trinh như sau: "Này, một trinh nữ sẽ
chịu thai, sinh một con trai và đặt tên là Em-ma-nu-ên" (Isaiah 7: 14:
Behold, a virgin shall conceive and bear a son, and shall call his name Immanuel).
Câu này đã được nhiều nhà nghiên cứu Thánh Kinh,
ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, chứng minh rằng không liên hệ gì tới
sự sinh ra của Giê-su, vì những khám phá sau đây:
Thứ nhất, trong văn bản gốc Thánh Kinh tiếng Do
Thái, Isaiah viết trong Isaiah 7: 14 là: "Này, một người đàn bà trẻ
sẽ mang thai..." (Behold, a young woman shall conceive). Isaiah dùng chữ
"almah" có nghĩa là một "người đàn bà trẻ" (young
woman), có chồng hoặc chưa có chồng. Còn trinh nữ, tiếng Do Thái là "betulah."
Nếu Isaiah muốn nói đến một trinh nữ thì phải dùng chữ "betulah."
Dịch chữ "almah" sang tiếng Hi Lạp, không hiểu vô tình hay cố
ý, các dịch giả đã dùng chữ "parthenos" có nghĩa là trinh nữ.
Giáo hội đã dựa vào văn bản tiếng Hi Lạp, nhặt câu trên ra ngoài toàn
bộ vấn đề (out of context) và diễn giải lệch lạc rằng đó là lời
tiên tri về sự sinh ra của Giê-su. Giáo hội lờ đi hai câu tiếp theo,
Isaiah 7: 15,16:
"Đứa trẻ đó
sẽ ăn sữa và mật cho đến khi biết bỏ điều dữ, chọn điều lành.
Và trước khi đứa trẻ này biết bỏ điều dữ chọn điều lành thì nước
của hai vua mà ngươi đang ghét sẽ bị bỏ hoang."
(Curds and honey he shall eat, that he may know how to refuse the
evil and choose the good. For before the child shall know to refuse the evil and choose
the good, the land that you dread will be forsaken by both her kings).
Do đó, xét theo bối cảnh lịch
sử thời của Isaiah và đọc đầy đủ nội dung các câu Isaiah 7: 14,15,16,
không có cách nào người ta có thể cho rằng đó là lời tiên tri về sự
sinh ra của Giêsu từ một nữ đồng trinh.
Thứ nhì, theo "lời tiên tri" thì đứa trẻ phải
được đặt tên là Immanuel chứ không phải là Giêsu. Do đó, thuyết Maria
đồng trinh của giáo hội bày đặt ra sau này để khuyến khích tín đồ
thờ phụng Maria không đứng vững. Nhưng điều đáng nói là Giêsu không thể
thuộc dòng dõi vua David. Vì sao? Vì Giêsu là hoa trái của sự "xâm phạm
tiết hạnh" của Thánh Linh vào Mary, một người đàn bà Do Thái đã
có chồng là Giuse, nếu chúng ta tin được chuyện Thánh Linh có thể làm
cho Mary mang thai. Vì vậy, Giêsu mới được gọi là Con Thiên Chúa. Đã là
Con Thiên Chúa thì không thể thuộc dòng dõi vua David. Tôi có cảm tưởng rằng
Phan Thiết cũng như các tín đồ Gia Tô, được Giáo hội dạy sao thì cứ
nhắc lại y chang mà không hề bận tâm suy nghĩ xem điều mình nói có hợp
lý hay không. Nhưng tại sao Giáo hội lại dạy Giêsu thuộc dòng dõi vua
David? Vì theo niềm tin của dân Do Thái thời bấy giờ, thì một đấng Cứu
Thế sẽ xuất hiện để cứu dân Do Thái và đấng Cứu Thế này bắt buộc
phải thuộc dòng dõi Vua David. Do đó, vài người Do Thái theo Giêsu, viết
Phúc Âm, vừa muốn chứng minh rằng Giêsu đích thực là đấng Cứu Thế nên
phải thuộc dòng dõi vua David, vừa muốn "chứng minh" rằng Giêsu
là Con Thiên Chúa nên mới đặt ra câu chuyện hoang đường là do Thánh Linh
phủ nên Mary sinh ra Giêsu. Nhưng trí tuệ của những người viết Phúc Âm
vào thời đó chưa đủ trình độ để nhận ra tính loại trừ hỗ tương
(mutual exclusive), nghĩa là có cái này thì không thể có cái kia, về
hai vai trò "Con Thiên Chúa" và "Thuộc dòng dõi vua
David." Khoan nói đến chuyện Matthew và Luke viết về gia phả Giê
su, từ vua David trở xuống, hoàn toàn khác nhau, với một đàng thì 42 thế
hệ, đàng khác thì 26 thế hệ với tên khác nhau. Vì thế, ngày nay thế giới
mới cho rằng tiểu sử của Giêsu là một tiểu sử bất minh nhất trong những
tiểu sử bất minh. Tại sao lại bất minh? Tôi sẽ giải thích trong đoạn
sau. Tiếp theo, chúng ta hãy đọc một đoạn khác của Phan Thiết, Đất Việt...,
trg. 64:
"Phúc Âm là một
bản tường thuật của bốn Thánh sử là các ông Mat thêu, Mac cô, Lu ca,
Gio an mỗi người qua sự tiếp xúc, lắng nghe, cảm nghiệm tình yêu mến của
Thầy mình (Chúa Jêsu) đã tường thuật lại theo sự linh ứng và viết cho
giáo đoàn của mình để làm chứng về con người Jêsu có thật, những lời
giảng dạy và những việc làm của Jêsu là có thật, không phải là do óc
tưởng tượng bịa đặt ra."
Theo sự nghiên cứu Thánh
Kinh của nhiều học giả gồm có các giám mục, linh mục, giáo sư đại
học v...v.. thì Matthew, Mark, Luke, và John, tác giả bốn Phúc Âm trong Tân Ước,
"không phải là môn đồ của Giê-su." Như vậy, không làm gì có
chuyện những tác giả này "tiếp xúc, lắng nghe Thầy mình
(Giê-su)." Bốn Phúc Âm trên được viết trong khoảng từ năm 70 đến
năm 120, nghĩa là sau khi Chúa chết từ 40 năm đến 90 năm. Viết câu trên,
Phan Thiết cho chúng ta thấy rõ ông là một tín đồ Gia Tô với một kiến
thức rất nghèo nàn về Thánh Kinh, dù ông tự xưng là một trí thức
Gia Tô. Chắc chắn là ông chưa bao giờ đọc Thánh Kinh và có thể chỉ
nghe những lời giảng vụn vặt ngoài toàn bộ vấn đề (out of context)
về Thánh Kinh của các linh mục, những người mà tôi tin rằng cũng
chẳng có mấy ai đọc kỹ Thánh Kinh. Phan Thiết tin rằng những điều
viết trong 4 phúc âm đều là sự thật vì ông chưa bao giờ đọc 4 phúc
âm đó, hoặc giả nếu có đọc cũng chỉ đọc những đoạn các "bề
trên" bảo ông đọc. Thật vậy, chúng ta hãy đọc 2 trong số rất nhiều
tài liệu nghiên cứu về Tân Ước.
1. Trong cuốn Ai Là Giê-su? (Who was Jesus?), học giả Ki
Tô Colin Cross viết như sau trong phần Dẫn Nhập:
"Nhìn từ xa và
xét về toàn thể, Giê-su ở Nazareth có vẻ như là một nhân vật lịch sử
hiển nhiên. Nhưng khảo xát kỹ bất cứ chi tiết nào cũng làm cho hình ảnh
này mờ nhòa. Lý do về sự bất minh này hết sức là đơn giản. Đó là
chúng ta không có bất cứ một sử liệu nào, thuộc bất cứ lãnh vực
nào, về phần lớn cuộc đời của Giê-su. Ông ta không viết một cuốn
sách nào. Ngay cả hình dáng ông ta ra sao cũng không ai biết. Không có ngay cả
một bằng chứng nào tự nó có giá trị để chứng tỏ là ông đã hiện
hữu. Những sử liệu hiện hữu, những Phúc Âm, chỉ viết về một phần
nhỏ nhoi của đời ông và được viết theo quan điểm sùng bái cá nhân
và nghi thức tôn giáo chứ không phải theo quan điểm sử học thông thường.
Trong những chuyện kể trong Phúc Âm có những điều bất phù hợp
nghiêm trọng cũng như những điều rõ ràng không thể xảy ra."
(Viewed from a distance and considered as a whole, Jesus of
Nazareth is a reasonably tangible historical figure. But too close an examination of any
individual detail of him causes him to blur.. The reason for uncertainty about Jesus is
the simplest possible. It is just that there is no record at all, of any kind, about the
greater part of his life. He wrote no book. Even what he looked like is unknown. There is
not a word of independent proof that he ever even existed. The records that do exist, the
Gospels, cover only a fraction of Jesus' life and are written from a cultic and
ritualistic point of view and not as ordinary history. There are the gravest
inconsistencies in the gospel accounts and also many blatant improbabilities).
2. Linh Mục Ernie Bringas cũng
viết như sau, trong cuốn Thi Hành Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa
Trong Quá Khứ và Hiện Tại Do Quyền Lực Thánh Kinh Gây Ra (Going By
The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority), trg. 191:
"Điểm đồng
thuận ngày nay là nhân vật lịch sử Giê-su - những lời Giê-su nói và những
hành động Giê-su làm, và những biến cố xảy ra trong cuộc đời của
ông - không thể xác định được chính xác. Trong khi chúng ta biết tác giả
của một Phúc Âm nhìn nhân vật Giê-su như thế nào như họ đã viết lại
(và viết lại như thế nào), thường là chúng ta không thể đi quá những
điều viết trong phúc âm để biết về chính con người thực của Giê-su.
Chúng ta không thể đoan quyết những lời nào viết trong phúc âm về cuộc
đời của Giê-su là đúng sự thật."
(The consensus today is that the historical Jesus - the words
and actions of Jesus and the real events surrounding his life - cannot be determined with
precision. While we know how the author of a Gospel regarded Jesus by what he reported
(and haow he reported it), it is not always possible to penetrate beyond the Gospel
portrayals of Jesus to Jesus himself. We cannot determine with certainty what Gospel
statements about his life and career are genuine).
Tại sao Colin Cross và LM Ernie
Bringas lại viết như trên? Vì đi vào chi tiết trong Thánh Kinh, chúng
ta thấy rõ ràng là không có một căn bản nào có tính cách thuyết phục
để cho những người có đầu óc có thể tin vào những lời nói và việc
làm của Giê-su, vì trong Thánh Kinh có quá nhiều điều mâu thuẫn về
con người lịch sử Giê-su. Những chi tiết về một phần nhỏ, khoảng
1/10 cuộc đời của Giê-su được mô tả trong bốn Phúc Âm Matthew, Mark,
Luke, và John. Nhưng chính những chi tiết này: khi sinh ra đời, gia hệ, thời
gian gần 3 năm đi giảng đạo, khi chết v..v.. đều hoàn toàn mâu thuẫn
nhau. Cho nên chúng ta không thể dựa vào đâu để tin điều nào đúng, điều
nào sai. Nhưng đây không phải là bài phân tích Thánh Kinh nên tôi xin
được miễn đi vào chi tiết những mâu thuẫn và những điều hoang đường
trong Thánh Kinh.
Cái tật của Phan Thiết là sở học không có bao nhiêu mà
lại cứ thích viết bừa,viết càn về những điều mình không nắm vững.
Ông viết những điều mà ông không hiểu gì, viết lấy được, không ngượng
tay, không đỏ mặt. Thí dụ, ông viết một cách hoang tưởng như sau:
"Tín ngưỡng đạo
Thiên Chúa là tín ngưỡng độc thần, chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa
được xem là đấng Toàn Năng, Chí Thiện, Chí Mỹ, Chí Nhân, Chủ Tể
sáng tạo ra muôn loài..."
Phan Thiết không hiểu
toàn năng là gì, không đọc Thánh Kinh nên gán cho Thiên Chúa của
ông những thuộc tính trái ngược hẳn với sự thật, không biết tới những
tiến bộ và những khám phá trong khoa học hiện đại nên vẫn còn tin rằng
Thiên Chúa của ông sáng tạo ra muôn loài.
Để cho vấn đề được rõ ràng, chúng ta hãy luận về những
thuộc tính mà Phan Thiết tin tưởng là mô tả đúng hình ảnh của Thiên
Chúa.
Thứ nhất, chúng ta hãy nhìn vào thực tế trên cõi đời:
từ những em bé mới sinh ra đã bị tật nguyền cho tới những thiên tai
gây ra cảnh tang tóc thiệt hại cho con người; từ những bệnh truyền nhiễm
cho tới những chiến tranh tàn sát hàng triệu người; từ những cuộc
tranh chấp chính trị nhỏ cho tới những cuộc chiến tranh tôn giáo còn
đang tiếp diễn ở Bosnia, Ireland, Palestine v...v.. chúng ta có thể tin được
chăng là có một Thiên Chúa toàn năng, có nghĩa là "làm gì cũng được,"
và có lòng nhân từ vô cùng được không? Tại sao những tín đồ Gia Tô vẫn
còn tin vào một Thiên Chúa toàn năng và chí thiện, chí nhân, và lòng thương
yêu của Thiên Chúa? Bởi vì họ đã được nhồi vào trong đầu óc một
tâm cảnh ích kỷ, chỉ biết đến mình mà không nghĩ đến người khác. Họ
được dạy rằng những bất hạnh xảy ra cho mình là do ý Chúa để thử
thách, cứ kiên trì tin Chúa, thờ phụng Chúa thì Chúa sẽ cho sống đời
đời tốt đẹp bên Chúa. Nếu có gì may mắn xảy ra cho mình thì đó là
do lòng thương yêu của Chúa, hoặc ân sủng của Chúa ban cho. Chẳng thế
mà trong một tai nạn máy bay, 3 hành khách sống sót trong số 286 người trên
chuyến bay, đã cám ơn Chúa vì Chúa đã thương yêu, cứu họ. Họ không hề
để ý đến chuyện 283 người tử nạn kia sẽ cám ơn ai? Cái tâm cảnh
ích kỷ này đi đến độ cực đoan là những tín đồ tân tòng, ở Việt
Nam cũng như ở bất cứ nơi nào trên thế giới, vui sướng vì tin là mình
sẽ được lên Thiên đường ở cùng Chúa, mà không hề nghĩ đến ông bà
tổ tiên hay đồng bào mình bị đày địa ngục vì không tin Chúa, theo như
lời dạy lố bịch, hoang đường, mê tín, xúc phạm đến mọi tôn giáo
khác của Giáo hội. Ngày nay, một số nhà Thần học đã đưa ra vấn đề
"có sự cứu rỗi ngoài giáo hội" (salvation outside the church)
nhưng luận điểm này mang nhiều sắc thái gượng ép vì cho rằng con người
ngoài giáo hội cần đến một sự cứu rỗi không tưởng trong Ki Tô Giáo.
Những thực tế trên cõi đời đã cho chúng ta thấy rõ ràng là Thiên
Chúa, nếu có, chẳng phải là một vị Thần đầy lòng thương yêu nhân loại,
vậy thì người hãy thương lấy người, và vứt bỏ đi những cặp nạng
Toàn Năng, Toàn Trí và Toàn Nhân trong Thần học Ki Tô. Ngày nay những sự
việc xảy ra trên khắp thế giới đã chứng minh rất hùng hồn là chỉ
có con người mới giúp được con người. Trận lụt lớn ở miền Trung Việt
Nam vào đầu tháng 11, 1999, nếu không có bàn tay vô Thần cấp thời và
tích cực cứu giúp của chính quyền, quân đội và đồng bào; và sau đó,
không có sự cứu trợ vật chất với tính cách đại qui mô của các tổ
chức tôn giáo như Chùa Từ Đàm, Chùa Từ Hiếu v..v.., với sự hăng say hoạt
động từ thiện của các Tăng, Ni Phật Giáo cùng đồng bào trong nước
v..v.., sự đóng góp của đồng bào hải ngoại v..v..., thì những sự đau
khổ về chết chóc, thiệt hại và thiếu thốn vật chất của nạn nhân
bão lụt không biết lên tới mức nào. Đâu có thấy bàn tay cứu giúp của
Chúa ở đâu, dù rằng Thánh Kinh viết rằng Chúa Cha có thể làm mưa
bánh mì cho những người đang đói ăn, và Chúa Con cũng có khả năng biến
một ổ bánh mì thành trăm ổ bánh mì. Phải chăng Chúa chỉ có khả năng
làm bánh mì cho dân Do Thái, chứ không có khả năng thổi cơm hay chế tạo
mì gói ăn liền cho dân Việt Nam?
Lịch sử thế giới cũng cho thấy, những người chết đói
ở Somalia, Rwanda, Ethiopia cứ tiếp tục chết đói cho đến khi có những cơ
quan từ thiện quốc tế cứu giúp, dù rằng trong những xứ này có khá nhiều
người tin Chúa. Các nhà bảo vệ tín lý bèn diễn giải rằng, những cơ
quan từ thiện chính là bàn tay cứu giúp của Chúa. Đến khi bị hỏi ngược
lại là trong số những người làm việc thiện có rất nhiều người không
theo đạo thờ Thiên Chúa, không tin là có Thiên Chúa, và nhất là, tại sao
Thiên Chúa lại để cho sinh ra những nạn đói kém hay thiên tai trên thế
giới rồi mới đưa bàn tay ra cứu giúp một phần, vì trước khi cứu giúp
đã có nhiều người chết đói rồi? Câu trả lời có tính cách mạ lỵ
đầu óc con người là: những việc Thiên Chúa làm, con người không thể
nào hiểu nổi. Người ta lại hỏi: nếu con người không hiểu nổi thì tại
sao các ông lại cứ tuyên bố là Thiên Chúa muốn thế này, muốn thế nọ,
và muốn chúng tôi phải tin không bằng chứng và thờ Thiên Chúa, thực ra
chỉ là Thần Ki Tô (Christian God), của ông? Câu trả lời để chấm
dứt mọi lý luận là: tin thì lên Thiên đường, thắc mắc thì xuống địa
ngục.
Cách đây khoảng 23 thế kỷ, triết gia Epicurus đã đặt vấn
đề Toàn Năng, và Toàn Thiện như sau:
"Hoặc Thần muốn hủy bỏ sự ác, và không thể
Hoặc Thần có thể hủy bỏ nhưng không muốn
Hoặc Thần không thể, và không muốn
Nếu Thần muốn, nhưng không thể làm được, Thần bất lực.
(nghĩa là không Toàn Năng)
Nếu Thần có thể, nhưng không muốn, Thần thật là xấu
xa. (nghĩa là không nhân từ)
Nếu Thần không thể và cũng không muốn,
Thần vừa bất lực vừa xấu xa. (nghĩa là vừa không toàn
năng vừa không nhân từ)
Nhưng nếu (như họ thường nói) Thần có thể hủy bỏ sự
ác
Và Thần thật sự muốn như vậy
Tại sao trên cõi đời này lại có sự ác?"
(Either god wants to abolish evil, and cannot;
Or he can, but does not want to;
Or he cannot, and does not want to.
If he wants to, but cannot, he is impotent.
If he can, but does not want to, he is wicked.
If he neither can, nor wants to,
He is both powerless and wicked.
But if (as they say) god can abolish evil,
And god really wants to do it,
Why is there evil in the world?)
Từ xưa tới nay, chưa có ai
trả lời được câu hỏi mà Epicurus đã đặt ra, dù những bộ óc kém cỏi
đã phát minh ra chuyện Thần muốn trừng phạt sự xấu xa của con người,
những sản phẩm do chính Thần tạo ra theo y như hình ảnh Thần và tự
khen tác phẩm của mình là "tuyệt hảo," như được viết trong Cựu
Ước, chương Sáng Thế. Tại sao con người do Thần tạo ra một cách
tuyệt hảo như trên lại làm ác? Câu trả lời phi lôgic của các nhà truyền
giáo là Thần muốn cho con người tự do, không muốn con người là những
người máy. Nhưng nếu Thần toàn năng thì tại sao không thể tạo ra một
con người tự do giới hạn, nghĩa là không thể có cái tự do làm ác mà
chỉ có tự do làm thiện mà thôi. Vậy nguồn gốc của sự xấu ác ở
trên đời là ở đâu? ở con người hay ở Thần?
Những tín đồ Ki Tô tin vào một vị Thần toàn năng trong
khi họ không hiểu toàn năng là gì. Họ không thể hiểu được rằng, theo
định nghĩa, không làm gì có chuyện toàn năng. Vì toàn năng nghĩa là có
khả năng làm bất cứ điều gì mà con người có thể tưởng tượng được,
thí dụ, làm cho một cặp vợ chồng da đen sinh ra một đứa con da trắng,
làm ra một con rùa có lông, hay con thỏ có sừng, hay một cây mít sinh ra
trái soài v...v.. Có người đã đặt một câu hỏi rất ý nhị về thuộc
tính toàn năng của Thần Ki Tô: "Thần có thể tạo ra một phiến đá
nặng đến nỗi chính Thần cũng không vác nổi không?" Đây là một
câu hỏi không một nhà thần học Ki Tô nào trả lời nổi, vì trả lời
"có" hoặc "không" đều đương nhiên bác bỏ thuộc tính
toàn năng của Thần. Kết luận: thuộc tính toàn năng không thể có. Nếu
thuộc tính toàn năng không thể có thì một vị Thần toàn năng cũng không
thể nào có. Mặt khác, toàn năng và toàn trí (cái gì cũng biết) là hai
thuộc tính có tính chất loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), nghĩa
là có cái này thì không thể có cái kia, cho nên một vị Thần kiêm cả
hai thuộc tính toàn năng và toàn trí là điều không tưởng. Thật vậy, nếu
Thần "biết" cái gì sẽ xảy ra trong tương lai và Thần không thể
thay đổi được sự việc đó, điều này rất rõ ràng trước những thực
tế và quy luật thiên nhiên ở ngoài đời, thì làm sao có thể gọi là
"Thần toàn năng" được? Ngược lại, nếu Thần có khả năng thay
đổi sự việc nhưng lại không biết những gì sẽ xảy ra để mà thay đồi,
vậy thì "toàn trí" ở chỗ nào? Nói tóm lại, một vị Thần toàn
năng, toàn trí chỉ có trong niềm tin đã được nhồi vào óc từ khi còn
nhỏ của những người không hiểu thế nào là toàn năng, toàn trí.
Sau cùng, đọc Thánh Kinh, nhất là Cựu Ước, thì
không ai có thể chấp nhận Thần Ki Tô trong đó là bậc chí thiện, chí
nhân. Tại sao? Vì Thần Ki Tô trong Cựu Ước được mô tả như một
vị Thần tiền hậu bất nhất, lòng đầy thù hận, trí tuệ kém cỏi, ham
vật chất, ham gái, độc ác, vô lương tâm, tàn nhẫn, bất công ..., những
thuộc tính hoàn toàn trái ngược với thiện tâm và lòng nhân từ của con
người. Chứng minh?
Trong Cựu Ước chúng ta có thể đọc chuyện Thần Ki
Tô dùng Vua Ai Cập để giáo dục dân Do Thái nhưng rồi lại gây ra 10 tai họa
cho dân Ai Cập, với cao điểm là làm cho tất cả những đứa con đầu lòng
trong mọi gia đình dân Ai Cập chết hết (Exodus 11: 4-6); khi dân Do Thái chạy
ra khỏi Ai Cập thì Thần rẽ nước biển ở Hồng hải, nghĩa là tạo ra một
lối thoát khô, để cho dân Do Thái chảy qua, rồi sau đó lại đóng nước
lại làm cho cả toán quân Ai Cập đuổi theo chết đuối hết ở Hồng Hải
(Exodus 15) v.. v.. Ngoài ra chúng ta còn có thể đọc những sự kiện như sau
trong Cựu Ước: Thần là một người chinh chiến (Exodus 15:3: The Lord is a
man of war); Thần khuyến khích dân Do Thái quật đầu những đứa trẻ dân
Edom vào đá cho chết (Psalm 137: 7-9); Thần ra lệnh cho Moses tiêu diệt dân
Midian (Numbers 31: 1,2), quân lính của Moses thiêu rụi mọi thị trấn của
dân Midian, cướp bóc hết của cải, gia súc v...v..., giết chết mọi đàn
ông (Numbers 31: 7) nhưng chừa lại đàn bà và trẻ con. Điều này làm Moses
nổi giận, ra lệnh giết hết đàn bà và trẻ con trai, chỉ chừa lại các
trinh nữ để chia cho Thần một phần. Tất cả có 16000 trinh nữ, số nộp
cho Chúa là 32 (Numbers 31: 40) v...v... Thật là khôi hài khi ta đọc đến những
điều răn của Thần trong đó có những khoản như: không được giết người,
không được trộm cắp, không được tà dâm, những điều khoản mà chính
Thần là người đầu tiên vi phạm. Chẳng vậy mà trong cuốn The Book of
Ruth, Ruth Hurmence Green, một phụ nữ đạo gốc, đã tỉnh ngộ và viết
như sau về cuốn Thánh Kinh, trg. 6:
"Không có cuốn
sách nào mà trong đó sự sống của con người, thật ra là tất cả sự sống,
lại rẻ rúng như vậy. Cái tên Chúa ác ôn trong Cựu Ước ra lệnh cho dân
Do Thái giết, cưỡng hiếp, và tra tấn không thương xót toàn thể nhiều
quốc gia, "con nít, trẻ sơ sinh, thanh niên, trinh nữ, và người già."
Nếu họ không tuân lệnh, họ sẽ phải chịu đựng những cơn thịnh nộ
trả thù của Chúa. Những dân cưng của hắn theo lệnh tàn sát hàng ngàn
người, phanh bụng những người đàn bà mang thai, quật con nít vào đá, chứa
đầu lâu vào trong các sọt và cắt xẻo thân xác của các nạn nhân. Cái
kẻ tội phạm vô tiền khoáng hậu này (Chúa) làm chết đuối toàn thể
dân chúng trên thế giới trừ gia đình của một tên say rượu (Noah). Hắn
làm tim vua Ai Cập chai cứng để rồi có thể giết tất cả những đứa
con đầu lòng ở Ai Cập. Hắn (Giê-su) xuống trần làm cho tất cả những
đứa con trai dưới 2 tuổi trong một vùng rộng lớn bị giết. Hãy cho tôi
biết, nếu có thể, rằng sự sống của con người thiêng liêng đối với
Chúa?"
(There is no other book in which human life, all life in fact,
is so cheap. The fiendish Lord of the Old Testament orders the Jews to kill, rape, and
torture without pity entire nations, "infant and suckling, young man and virgin, and
the man with gray hair." If they do not obey, they feel the wrath of the Lord's
vengeance themselves. His favorites dutifully massacre thousands, rip up pregnant women,
and dash little ones against the stones, putting heads in baskets and mutilating their
victims. This criminal of all time drowns the entire population of the world except for
the family of a drunkard. He hardens Pharaoh's heart to make it possible to put all the
first born of Egypt to the sword. He comes to earth incarnate in such a manner that all
male children under two in a vast area must be killed, again with the edge of the sword.
Tell me, if you can, that human life is sacred to the Lord).
Phải chăng Hurmence Green viết
vu vơ, vô căn cứ? Tuyệt đối không phải, vì tất cả những điều bà viết
ở trên là những chuyện trong Thánh Kinh. Phan Thiết hãy mở cuốn Thánh
Kinh ra đọc để xem bà ta viết có sai sự thực hay không. Tôi xin đặt
một câu hỏi với tất cả quý độc giả: Một vị Thần độc ác, bất
nhân như vậy có đáng để chúng ta tôn kính hay không? khoan nói đến chuyện
thờ phụng.? Và đó là về Chúa Cha. Chúa Con, Giêsu, trong Tân Ước cũng
chẳng khá hơn Chúa Cha bao nhiêu (Hãy đọc kỹ 4 Phúc Âm Matthew, Mark, Luke,
John và các chương Acts, Corinthians, Revelation v..v.. trong Tân Ước). Những
nhận định này sẽ được chứng minh ở một nơi khác.
Phần | 1
| 2 | 3 | 4 |
|
|