...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- TÔI ĐỌC
- "ĐẤT VIỆT, NGƯỜI
VIỆT, ĐẠO VIỆT"
- & "HÀNH HƯƠNG
ĐẤT PHẬT" của Phan Thiết
Trần
Chung Ngọc
IV.
Thay Lời Kết.
Trên đây tôi đã phân tích một vài đoạn Phan Thiết viết
về Phật Giáo và Ki Tô Giáo trong hai cuốn Đất Việt... và HHĐP của
Phan Thiết. Tôi đã chứng minh rằng 7 nhận định về Phan Thiết tôi đưa
ra ở đầu bài là đúng. Tôi có nên tiếp tục phê bình Phan Thiết hay
không? Tôi nghĩ là không nên. Không có cách nào tôi có thể viết ra tất cả
những gì tôi muốn phê bình Phan Thiết. Vì mở bất cứ trang sách nào
trong hai cuốn trên của Phan Thiết tôi cũng thấy, nếu Phan Thiết không viết
bậy bạ thì cũng viết nhảm nhí, không nhảm nhí thì cũng tục tĩu, không
tục tĩu thì cũng gian xảo, không gian xảo thì cũng sai lầm, không sai lầm
thì cũng bịa đặt, không bịa đặt thì cũng hoang đường, không hoang đường
thì cũng huênh hoang, trống rỗng v.. v.., và cứ liên miên như vậy từ
trang sách này sang trang sách kia. Tôi không thể ngờ được một người tự
xưng là "trí thức Công Giáo" mà lại có thể cho ra đời những cuốn
sách vô giá trị như vậy. Đọc các tác phẩm khác của những trí thức
Công Giáo khác như Nguyễn Văn Chức; Nguyễn Cần (alias Lữ Giang, alias Tú
Gàn); LM Phan Phát Huồn; LM Vũ Đình Hoạt; nhóm tác giả cuốn Trần Lục
gồm có các Đức Ông, Linh Mục, và trí thức Công Giáo v...v..., tôi thấy
không ít thì nhiều, họ đều vấp phải những sai lầm căn bản sơ đẳng,
những xuyên tạc cố ý về Phật Giáo, những huênh hoang vô lối về Công
Giáo, bắt nguồn từ những hiểu biết méo mó, lệch lạc, không những về
lịch sử, về Phật Giáo, mà còn về cả ngay chính tôn giáo của họ nữa.
Tôi không tin là trình độ của họ không đủ để hiểu rõ những vấn đề
liên hệ. Nhưng tại sao tất cả lại viết một chiều như vậy? Trong khi
nghiên cứu về Công Giáo, tôi đã tìm ra đáp án. Đáp án này nằm trong
vài tài liệu sau đây:
1. Trong cuốn A Modern Priest Looks at His Outdated Church (Một
Linh Mục hiện đại nhìn vào Giáo hội lỗi thời của ông ta), Linh mục đã
để ra nguyên một chương 3 để nói về Con Người Công Giáo (A
Man Who Is a Catholic). Sau đây là một vài đoạn trong chương trên.
"Người Gia Tô
nhìn thế giới qua một hệ thống làm cho hắn không còn là chính hắn nữa...
Hắn chưa bao giờ biết niềm vui của sự tìm hiểu, sự kỳ diệu của sự
khám phá, sự hồ hởi của sự tự do quyết định cho chính mình...Hắn đã
được dạy để đọc cái gì, nghĩ như thế nào, và coi ai là bạn...
Tôi quan sát người Gia Tô đến xem lễ và thương hại cho
sự đào luyện đã làm cho đầu óc hắn bị vặn vẹo và ý niệm về tôn
giáo của hắn méo mó. Hắn tới xem lễ vì những lãnh tụ tôn giáo, những
người cũng dễ bảo và không có nghị lực như hắn, bảo hắn tới. Hắn
đọc những lời cầu nguyện gói ghém trong những câu cứng ngắc và làm
những cử chỉ hoàn toàn xa lạ với lối sống hiện đại của hắn. Hắn
sống trong một thế giới của máy bay phản lực và bom nguyên tử, và cầu
nguyện trong một thế giới của ma thuật thuộc thời Trung Cổ.
Trong cuộc sống hàng ngày, hắn đồng hành với sự hữu
hiệu và tiến bộ...Hắn có những quan điểm về sự hòa bình trên thế
giới, có những ý kiến về cải cách ngân sách, những tư tưởng về cách
phòng ngừa tội ác v..v.. Nhưng trong lãnh vực tôn giáo, hắn là một người
máy chỉ có thể nhắc lại những câu trả lời mà hắn đã học. Hắn chấp
nhận không hề phản kháng mọi quyết định của giới linh mục, có vẻ
như trầm tư khi nghe người ta xào xáo lại những sự thật mà hắn đã học
ở trường, và ủng hộ cái giáo hội đã tước đoạt đầu óc của hắn...
Hắn vẫn tin rằng cả thế giới sẽ theo đạo Gia Tô trước
ngày phán xét, và đức tin của hắn là một dấu ấn của tình yêu thương
đặc biệt của Thiên Chúa, và cái chết sẽ biện minh cho sự dũng cảm
trong sự chọn lựa của hắn.
Hắn không có quyền hành xử theo lương tâm của mình, hoặc
quyền chọn những nguyên tắc giúp ích cho hắn. Hắn là một tín đồ Gia
Tô, một đứa trẻ, đòi hỏi người khác quyết định cho hắn...
Do đó, người Gia Tô không thực sự hiểu ý nghĩa của đối
thoại, chỉ có thể đưa ra những luận cứ để chống đỡ lập trường
mà hắn thừa hưởng từ khi còn nhỏ..
Người Gia Tô là một dịch vụ trả lời được tổ chức
với nhiệm vụ đầu tiên là bảo vệ giáo hội."
(The Catholic man sees the world through a system which forbids
him to be himself... He has never really known the joy of search, the wonder of discovery,
the exciting freedom of personal decision... He has been taught what to read, how to
think, and whom to call his friend...
I watch the Catholic come to Mass and pity the formation that warped
his mind and distorted his religious sense. He comes because he has been told to come by
religious leaders who are as docile and listless as he. He reads the prayers wrapped in
stilted phrases and makes the gestures totally foreign to his modern way of life. He lives
in a world of jets and atomic bomb, and prays in a world of medieval magic...
In his business his eye is tuned to efficiency and progress... He has
views on world peace, opinions on fiscal reform, thoughts on crime prevention... But in
religion he is a robot who can only recite the answers he has learned. He will accept the
priestly decisions without protest, appear thoughtful when he hears a rehash of the truths
he learned in school, and support the Church that robbed him of his mind...
He still believes that the world will be Catholic before the judgment
comes, that his faith is a mark of special love from God, that death will justify the
valor of his choice...
He has not the right to follow his own conscience, or the power to
select the principles that give him help. He is a Catholic, a child, who demands that
another make for him his choice...
Thus, the Catholic man cannot truly know the meaning of dialogue, but
only give arguments to defend the position he has inherited from his youth.
The Catholic man is an organized answering service whose first
obligation is to protect his Church..).
2. Linh Mục Ernie Bringas (Ibid.,
trg. 70) mô tả đầu óc lỗi thời, mà tôi dịch thoát là khuyết tật, của
các tín đồ Ki Tô như sau:
"Đầu óc khuyết
tật đã được định nghĩa như là một đầu óc nhìn thế giới theo một
trình độ hiểu biết đã lỗi thời. Mô tả đúng hơn thì đó là một đầu
óc có thể hiểu mọi khía cạnh của suy tư ngày nay trừ trong một địa hạt:
một điểm mù trong sự cân nhắc trí thức. Nói cách khác, mức độ lỗi
thời được thu hẹp trong một lãnh vực nhận thức chuyên biệt chứ
không phải trong toàn bộ sự nhận thức."
(The astrolabe mind has been defined as one which views the
world from an outdated level of knowledge...The astrolabe mind is more accurately
described as a mind that comprehends all aspects of contemporary thought except in one
area: a specific blind spot in intellectual judgment. In other words, the degree of mental
obsolescence is restricted to one specific area of perception, not overall perception).
Sau khi định nghĩa thế nào
là đầu óc khuyết tật, LM Bringas đi vào chi tiết và trình bày đầu óc
khuyết tật của các tín đồ Ki Tô Giáo như thế nào, trg. 78:
"Các tín đồ
Ki Tô từ chối không cho phép một nghi vấn nào về cái mà họ coi như là
chân lý mạc khải. Nếu Thánh Kinh là những lời của Thần Ki Tô và Giáo
hội được thành lập bởi chính con của Thần, Giêsu, (điều này trái
ngược với sự kiện là Giêsu tin rằng sẽ trở lại trần ngay khi một số
môn đồ của ông còn sống như được viết trong Thánh Kinh, vậy lập
giáo hội để làm gì? TCN) thì không thể có sự sai lầm trong cách diễn
giải Thánh Kinh của Giáo hội. Nêu nghi vấn hay thách đố những nền tảng
này có nghĩa là phá ngầm giá trị và quyền năng của Thánh Kinh, của
Giáo hội, và của Giêsu. Do đó, không giống như các bộ môn đã trưởng
thành, loại bỏ những tư tưởng sai lầm trong cuộc đấu tranh tìm chân
lý, hầu như ở khắp nơi Ki Tô Giáo đều loại bỏ những khám phá nào của
khoa học không phù hợp với những quan điểm truyền thống về Thánh Kinh.
Sự xâm nhập của các quan điểm mới vào trong thế giới riêng biệt của
Thánh Kinh và Giáo hội được coi như là xúc phạm thánh thần và do đó
không thể chấp nhận."
(Christians refused to allow a question mark on what they
considered to be divine truth. If the Bible was the word of God and the Church was created
by God's own son, Jesus, there could be no error in how the Church interpreted the
Scriptures. To question or challenge these foundations would undermine the validity and
authority of the Bible, the Church, and Jesus. Thus, unlike other maturing disciplines
that discarded faulty thinking in their struggle to obtain truth, Christianity almost
universally rejected findings of scientific investigation that conflicted with traditional
views about Scripture. The intrusion of new perspectives into the exclusive sphere of
Bible and Church was viewed as sacrilegious and therefore unacceptable).
3. Riêng đối với những trí
thức Gia Tô Việt Nam, trong bài Tản Mạn Chung Quanh Cuốn LM Trần Lục,
đăng trong Giao Điểm số 35 và Chuyển Luân số 20, sau khi kết
hợp một số trí thức Gia Tô, cách họ viết, và đối tượng viết của
họ với nhau trong một phương trình, tác giả Nguyễn Ngọc Quỳ đã đưa
ra nhận xét như sau:
"Tôi...giật
mình tìm ra được đáp án cho hiện tượng quái đản nói trên: cứ người
Công Giáo làm thì Công Giáo Việt Nam phải nhắm mắt mà khen. Bất chấp
chuyện làm có xấu mấy đi chăng nữa. Họ không lý đến sự thật, và cũng
chẳng cần đắn đo xem có xúc phạm đến dân tộc hay không. Tình cảm
tôn giáo của người Công Giáo Việt Nam mạnh hơn liên đới của họ đối
với đất nước Việt Nam, và áp đảo hẳn một chút lương thiện trí thức
nào đó còn sót lại của tinh thần đại học mà họ tiếp thu. Họ chỉ
có một tiêu chuẩn để đánh giá: Có lợi hay có hại cho Công Giáo?
Đáp án này không chỉ giải thích riêng "vụ" Trần
Lục, mà còn làm sáng tỏ thêm ứng xử văn hóa và đánh giá lịch sử
(lúc đầu có vẻ khó hiểu) của họ qua những trường hợp rõ ràng không
chối cãi được khi họ chạy tội cho những đồng đạo Pétrus Trương
Vĩnh Ký, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Nguyễn Trường Tộ, Alexandre de
Rhodes,... hay khi họ phản ứng hằn học với các phong trào yêu nước chống
xâm lăng của Văn Thân, Cần Vương, và các vua triều Nguyễn. Điều thê thảm
và bất hạnh cho chính họ (và một phần rất nhỏ cho dân tộc Việt Nam)
là ứng xử tâm lý đó đã trở thành vận động có tính quy luật trong
tâm thức tôn giáo của người Công Giáo Việt Nam."
Kết hợp 3 tài liệu trên
với nhau, chúng ta đã hiểu tại sao Phan Thiết, cũng như một số trí thức
Gia Tô Việt Nam, lại có những ứng xử không phản ánh trung thực trình độ
trí thức của họ. Họ đáng thương hay đáng trách? Theo giáo lý từ bi hỉ
xả của Phật Giáo thì họ quả thật là những người đáng thương. Đáng
thương vì nằm trong bóng tối dày đặc của ý thức hệ La Mã. (Dr.
Barnado: the thick darkness of Romanism). Vì sự cuồng tín tôn giáo, vì đầu
óc đã bị giáo hội tước đoạt, vì không có khả năng quyết định cho
chính mình v..v..., họ nghĩ rằng họ có thể bảo vệ niềm tin của họ bằng
cách xuyên tạc để hạ thấp Phật Giáo, một tôn giáo lớn đã ngấm vào
xương tủy người dân Việt. Họ đang làm công việc của con Dã Tràng. Tại
sao? Vì họ quên mất bốn điều căn bản sau đây:
1. Lịch sử 2000 năm của Thiên Chúa Giáo là một lịch sử
đẫm máu, chứa đầy tội ác, một lịch sử đã gây nên bao bất hạnh
cho nhân loại. Lời xin lỗi của Giáo Hoàng Gion Pôn Hai gần đây đã khẳng
định điều trên. Trong khi đó, lịch sử truyền bá Phật Giáo trong hơn
2500 năm không hề làm đổ một giọt máu. Làm cách nào họ có thể hạ thấp
Phật Giáo để tôn vinh Thiên Chúa Giáo? Lịch sử Giáo hội Gia Tô Việt
Nam càng rõ ràng hơn nữa. Làm sao họ có thể tôn vinh những tội đồ của
Việt Nam như các giáo sĩ Alexandre de Rhodes, Marchand v..v.., hoặc như Nguyễn
Trường Tộ, Pétrus Ký, Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, gia đình họ Ngô
v..v... thành những người mà tổ quốc phải ghi công?
2. Theo định luật tiến hóa, trí tuệ con người càng ngày
càng mở mang, không có cách nào giáo hội Gia Tô có thể ngăn chận được
chiều hướng này. Do đó, những điều mê tín, hoang đường, phi lý, phi
lôgic, phản khoa học v...v... của thời Trung Cổ không thể đứng vững
trong thời đại này và trong tương lai.
3. Sách, báo, tài liệu nghiên cứu về nền Thần học Ki
Tô và những sự thực lịch sử của Gia Tô Giáo đều do chính những người
trong Giáo hội, hoặc những học giả, chuyên gia tôn giáo, giáo sư đại học
trong Ki Tô Giáo nói chung, viết. Cho nên, khó mà có thể phủ bác những
công cuộc nghiên cứu của giới trí thức này.
4. Trong cuốn Công Giáo Chính Sư묠tôi đã đưa ra 15 nhận định về Ki Tô Giáo của những
nhân vật trí thức có tên tuổi trên thế giới. So sánh những nhận định
này với những nhận định về Phật Giáo của một số trí thức khác
trên thế giới chúng ta thấy rõ sự tương phản giữa Phật Giáo, một
tôn giáo Giác Ngộ dựa vào trí tuệ, lý trí, và tu tập; và Ki Tô Giáo, một
tôn giáo Cứu Rỗi dựa vào một đức tin không cần biết, không cần hiểu.
Chúng ta cũng thấy rõ tinh thần khai phóng trong Phật Giáo tương phản với
tinh thần nô lệ trong Gia Tô Giáo.
Tôi hi vọng những ai định viết sách với mục đích tương
tự như của Phan Thiết để hạ thấp Phật Giáo và tôn vinh Ki Tô Giáo
hãy suy nghĩ kỹ về bốn điều căn bản trên trước khi đi đến quyết định
bắt tay vào một công việc mà, vì sự thiếu hiểu biết, thiếu lương thiện
trí thức v..v..., chỉ có thể mang lại những phản ứng ngược chiều, chẳng
có ích lợi gì cho bản thân, cho giáo hội, và cho ngay cả chính tôn giáo của
mình.
Phần | 1
| 2 | 3 | 4 |
|
|