- PHÊ BÌNH
KÝ SỰ HÀNH HƯƠNG ĐẤT PHẬT
- Thích Nhật Từ
- Chương II
- Kinh Điển Phật Giáo
Chương thứ 1 của tập I
mang tên là "Vô Tự Chân Kinh" (tr. 31-60) gồm 25 trang chính, kèm theo
1 trang chú thích và 4 trang minh họa. Trong chương này, ông Phan Thiết sử dụng
lối ngụy biện để phủ nhận toàn bộ hệ thống kinh điển Phật giáo,
với lối chơi chữ "vô tự chân kinh" theo nghĩa kinh điển Phật giáo
không có gì cả. Lối chơi chữ ngụy biện này phát sanh từ một lỗ hỏng
to lớn là ông Phan Thiết chưa hề đọc kinh điển Paali hay Sanskrit của Phật
giáo, thậm chí các bản dịch tiếng Anh của hội Thánh Điển Paali (Paali
Texts Society, London) hay bản dịch tiếng Việt của Viện Nghiên Cứu Phật học
Việt Nam. Với một mớ kiến thức nghèo nàn, ông kết luận một cách non
kém rằng kinh điển Phật giáo không có gì cả. Thái độ làm việc thiển
cận, thiếu khoa học, nặng thành kiến chống phá Phật giáo của ông làm
chúng tôi liên tưởng đến một anh chàng mù tuyên bố rằng không có màu
sắc và ánh sáng, chỉ vì y không có mắt để nhìn thấy được. Lối lý
luận như vậy trở thành trọng tâm của các kết luận của ông Phan Thiết
về đức Phật lịch sử và lời dạy của ngài qua kinh điển.
I. Các Sai Lầm Sơ Đẳng
1. Ông Phan Thiết viết xuyên tạc rằng khi vô dư niết-bàn,
đức Phật Thích-ca nằm quay đầu về hướng Bắc là nằm "theo tập tục
Bà-la-môn quay đầu về dẫy núi tuyết sơn [sic], nơi phát nguyên ra con
sông thánh Hằng Hà" (tr. 31). Nhận định trên hoàn toàn xuyên tạc để
lạc dẫn người đọc rằng đức Phật không có gì là sáng tạo, ngay cả
cái chết cũng làm theo tập tục Bà-la-môn.
2. Ông Phan Thiết trích dẫn lại một đoạn kinh đức Phật
dạy cho dân chúng Kaalaama về mười tiêu chí của một đức tin chân chính
từ sách World Scriptures của Andrew Wilson, rồi đồng hóa bài kinh này
thành kinh Tăng Chi Bộ. Ông viết "Lời vàng ngọc ấy [trên thực tế
ông liệt ra có 6 tiêu chí, thay vì 10] sau ghi thành kinh Anguttara Nikaya ta gọi
là kinh Tăng Nhất Tập" (tr. 32). Có đến 2 ngộ nhận trong câu này. Thứ
nhất, bài kinh này (A. I. 188-92; GS. I. 170-5) chỉ là 1 bài trong số
9557 bài của kinh Tăng Chi Bộ mà thôi. Đồng hóa 1 với 9557 bài để ông
có cơ sở xuyên tạc rừng kinh Phật chẳng có gì cả. Thứ hai, Anguttara-Nikaaya
được dịch trong tiếng Việt là Kinh Bộ Tăng Chi, chứ không phải là
"kinh Tăng Nhất Tập." Sở dĩ ông Phan Thiết gọi là kinh Tăng Nhất
Tập là vì ông lẫn lộn kinh điển Nikaaya với Aagama.
3. Ông Phan Thiết bứt râu ông nọ (Kinh Trường Bộ Kinh
và Rig Veda II 62 X) cắm cằm bà kia (kinh Lăng-già). Ông tùy tiện
dựng lên tình tiết có minh sư [sic] tên Tu-bạt-đà-la (Subhadra) đọc thần
chú Rig Veda, ngay lúc đức Phật gần vô dư niết-bàn. Rồi ông tùy tiện
gán cho đức Phật nói rằng "Này tì-kheo, đâu phải những lời thần
chú, những bài kinh giải thoát ông. Chính ông giải thoát cho ông đấy. Hãy
quên kinh sách đi. Như ta đây thuyết pháp 49 năm, nay tính lại ta chưa hề
nói một lời" (tr. 33). Trong 4 câu của đoạn trích dẫn trên, 2 câu
đầu do ông Phan Thiết bịa ra, câu thứ 3 trái hẳn với tinh thần của Phật
dạy. Câu thứ tư ngụ ý "kinh điển tức những lời dạy của Phật là
ngón tay để nhìn thấy mặt trăng chân lý, chứ không nên chấp vào ngón
tay mà bỏ quên mặt trăng. Đức Phật khuyên tất cả chúng ta không nên chấp
vào kinh điển như chân lý tối hậu, chứ không hề khuyên chúng ta "hãy
quên kinh sách đi" như ông Phan Thiết đã tự dựng lên để gán cho
đức Phật, và kích động Phật tử không đọc kinh Phật.
4. Ông Phan Thiết còn bịa đặt cho rằng "Theo giáo lý
[sic], những lời Phật nói thuộc về Như Lai tạng, thuộc cõi chân như, chúng
sanh phàm phu ở cõi ta bà sao hiểu nổi" [sic] (tr. 33). Trong tiếng Paali,
lời Phật nói là "Buddhavacana" hay "Buddhadhamma,"
bao gồm tất cả những lời dạy của ngài về chân lý và đạo đức cho
cả tất cả mọi người, dù cư sĩ hay tu sĩ. Những lời dạy về chân lý
và đạo đức thường được gọi là dhamma và những lời dạy về
giới luật tu sĩ là vinaya. Dhamma dành cho tất cả mọi người,
dù là tu sĩ hay không phải tu sĩ, dù là Phật tử hay không phải Phật tử,
trong khi vinaya là những điều khoản và qui định phần lớn dành
riêng cho giới tu sĩ. Ông Phan thiết lý giải sai lệch như vậy để xúi mọi
người đừng bận tâm đọc kinh điển vì thứ nhất kinh không dành cho
chúng sanh ta-bà, và thứ hai "đức Thích-ca đã phủ nhận kinh điển do
Ngài thuyết pháp [sic, đức Phật dạy không nên chấp khác với phủ nhận]
mắc gì người đời bận tâm" (tr. 33).
5. "Tôi nghe như vậy" chữ Hán Việt là "như
thị ngã văn," chứ không phải là "chúng thị ngã văn"
(tr.34, d.7).
6. Từ "Abhidharma" (P. Abhidhamma) có nghĩa
là thắng pháp, vô tỷ pháp, giáo pháp cao sâu hơn, chứ không có nghĩa là
"đại kết tập" (tr.35, d.11).
7. Vì không biết gì về văn học Phật giáo vô cùng phong
phú và đa dạng, ông Phan Thiết cho rằng: "tám bộ kinh phân ra làm tam
tạng" (tr.34, d.11) bởi lẽ như các bạn sẽ thấy trong phần trình bày
về văn học Phật giáo bên dưới, kinh điển Phật giáo rất nhiều chứ
đâu phải chỉ có 8 bộ.
8. Trong tiếng Thái, "Phra Chao Sip Chat" có nghĩa là
"mười đời trước của đức Phật" chứ không phải là "mười
thân Phật tổ" hay "thập thân Như Lai (tr. 37, d.12-3).
9. Ông Phan Thiết trích một đoạn tiếng Anh trong quyển Hinduism
của N. C. Chaudhuri rồi dịch một cách thêm thắt và sai lệch. Đoạn tiếng
Anh như sau: "The fallacy of this procedure lies in two assumptions: "first,
that two ideas which seems to be Buddhistic could not has exist as Hindu ideas before the
appearance of Buddhism; and secondly, that all Buddhitst ideas go back to Buddha –
Nobody makes such as [an] assumption in respect of Zarathustra, Confucius, Lao Tzu or
Christ" (tr. 56, n.9).
Ông dịch sai lệch như sau: "Thời đại của Phật Tổ
ghi nhận từ 550 đến 480. Do đó các kinh điển Ấn giáo liên hệ các môn
phái Phật giáo dẫn đến hai ảo tưởng giả định: một là những
kinh ấy có vẻ Phật pháp không có trước khi đạo Phật xuất hiện.
Hai là những kinh ấy của Phật Tổ. Chẳng có tác giả nào đã làm
như thế với Zarathustra, Khổng Tử, Lão Tử hay Ki-tô" (tr. 50, d.8-13).
Đoạn văn của Chaudhuri được dịch sát như sau: "Sự sai
lầm của tiến trình này nằm ở hai giả định, "thứ nhất, hai
khái niệm đó dường như là khái niệm Phật giáo không có thể đã tồn
tại như là các khái niệm Hindu trước sự xuất hiện của đạo Phật; và
thứ hai là, các khái niệm Phật giáo ấy là của đức Phật – Không có
ai đã đặt giả định như vậy đối với Zarathustra, Khổng Tử, Lão Tử
hay Jesus [sic]."
Xin các bạn chú ý đến các câu và nhóm chữ được in đậm.
Hai câu "thời đại . . . Phật giáo" hoàn toàn không có trong đoạn
nguyên tác do ông trích trong phụ chú (tr. 56, n.9). Thứ hai, "two
ideas" chỉ có nghĩa là "hai ý niệm hay hai khái niệm" mà ông cố
tình dịch thành "những kinh ấy," để ông có cớ chụp mũ toàn bộ
kinh điển Phật giáo là vay mượn.
10. Ông Phan Thiết trích lại một đoạn trích trong tác phẩm
Introduction to Tibetan Buddhism (Đường vào Phật giáo Tây Tạng) của
John Powers, trang 335-6, và đã dịch sai lệch ý tưởng của đoạn văn này.
Xin trích ra đây nguyên tác và bản dịch của Phan Thiết để các bạn có
thể thấy được thái độ làm việc thiếu nghiêm túc của ông.
Bản nguyên tác:
Because you yourself are the divine ma.n.dala,
naturally manifest to yourself,
Do not offer worship to the deity,
for if you worship you will be fettered by it . . .
Do not renounce sa"msaara, for if you renounce it
you will not attain buddhahood
Because the Buddha is not elsewhere,
he is naught but awareness itself.
Sa"msaara is not elsewhere;
all is gathered within your own mind.
Do not practise conditioned fundamental virtues,
for if you do you will be fettered by them.
Renounce conditioned fundamental virtues,
such as [building] stuupa and temples.
There is no end to contrived doctrines,
but by leaving them they will end.
Not renouncing the yoga of abandoning deeds
should you renounce deeds, you will become a tathaagata.
So it is that you must know the path
of the authentic buddhas in everything.
Bản dịch sai lệch của Phan Thiết
Này bạn, chính bạn là thần như ai
Thì bạn hãy tỏ mình ra trong Mạn-đà-la
Chứ hơi đâu bạn nhờ thần khác
Để tự mình trói buộc mình . . .
Đừng chối bỏ luân hồi
Rời luân hồi cũng rời phật pháp
Phật đâu có xa
Không ngoài ý thức bạn
Luân hồi cũng thế
Ở ngay trong tâm bạn
Đừng quan tâm đến điều thiện
Vì nó cũng trói buộc bạn
Hãy quên thiện căn
như quên tháp thờ chùa miếu
Bởi lý thuyết mênh mông đâu bến đâu bờ
Mà toan đặt bờ bến
Thiền định hủy thể
Chối bỏ các pháp
Đấy là viên giác
Chỉ có đường ấy
Chính là pháp trong vạn pháp.
Chỉ cần để ý các từ dịch của
ông Phan Thiết được in đậm và các câu hay nhóm chữ nguyên tác bên
trên, các bạn sẽ thấy được sự hiểu sai và dịch sai của ông Phan Thiết.
Đoạn nguyên tác đó có thể được dịch sát nghĩa như sau:
Bởi vì bạn chính là ma.n.dala siêu tuyệt
thể hiện tự nhiên trong bạn
[nên bạn] không cần thờ phượng thần linh,
vì nếu bạn thờ phượng [thần linh], bạn sẽ bị sự thờ phượng đó
trói buộc.
Không cần chối bỏ luân hồi
vì nếu chối bỏ nó, bạn sẽ không đạt được quả Phật
Bởi vì Phật chẳng ở một nơi nào khác
ngoài chính ngay sự tỉnh thức [của bạn]
Luân hồi cũng chẳng hiện hữu ở một nơi nào
mà tất cả tựu trung ngay tâm của bạn.
Đừng thực hành các đức tính căn bản có điều kiện
vì nếu bạn thực hành, bạn sẽ bị chúng trói buộc
Hãy từ bỏ các đức tánh căn bản có điều kiện
chẳng hạn như [xây cất] các tháp và đền miếu
Không có sự tận tùng của các học thuyết vẽ vời
chỉ cần từ bỏ chúng, chúng sẽ chấm dứt.
Đừng từ bỏ đi "yoga tiêu diệt nghiệp [xấu]"
[vì] từ bỏ các nghiệp [xấu], bạn sẽ trở thành Như Lai [= Phật]
Chính vì thế bạn cần phải biết con đường
của các đức Phật thật sự trong mọi sự vật.
II. Kết Tập Kinh Điển Phật Giáo
1. Kết tập kinh điển: Council hay Synod?
Thuật ngữ Hán Việt "kết tập kinh điển" được
dịch từ chữ Paali "sa"ngiiti" có nghĩa đen là "cùng
nhau trùng tuyên lời Phật dạy." Thuật ngữ nầy được dùng để chỉ
cho các đại hội trùng tụng và biên tập kinh điển Phật giáo (sa"ngiititaya"m).
Có ba từ được thông dụng trong tiếng Anh là "council,"
"synod" và "rehearsal." Từ council và synod đều có nghĩa gần
giống nhau, chỉ cho hội đồng tôn giáo hay tăng đoàn, hay công đồng. Từ
"công đồng" hay "cộng đồng" trong chữ Hán tương đối tối
nghĩa. Ông Phan Thiết cho rằng từ synod chuẩn hơn từ council (tr. 34) là do
ông xài theo thuật ngữ Ky-tô giáo. Chữ "rehearsal" có nghĩa là
"nghe và lập lại /diễn lại" tương đối sát với nghĩa của từ
"sa"ngiiti" hơn hai từ council và synod. Do đó, từ rehearsal
tương đối chuẩn nhất trong ba từ dịch trên.
2. Thể loại (anga) kinh điển phật giáo
Trong văn học Phật giáo đại thừa, thuật ngữ "thập
nhị phần giáo" có nghĩa là "12 thể loại văn học Phật giáo,"
ông Phan Thiết viết thành "12 nguồn gốc" (tr. 34, d.14). Từ sự
không biết này, Ông Phan Thiết viết sai lầm: "Tám bộ kinh tổng hợp
từ 12 nguồn gốc có tên là sutra, geya, vyàkarana [sic], gàthà, udàna, sudàna
[sic], ilivrtaka [sic], jàtaka, vaipulya, adbhàtadarma [sic], avàdana và upadesa"
(tr. 34). Trong 12 thể loại, ông Phan Thiết đã viết trật hết 4. Vì không
biết rằng đây là các thể tài hay thể loại văn học của kinh điển đại
thừa nên ông Phan Thiết viết: "Các tên trên không thể xác định được
[sic] đó là các loại kinh gì vì bị thất lạc cả [sic]" (tr.34). Trong
văn học Paali, chỉ có 9 thể loại được biết đến (tức không gồm thể
loại 6, 7 và 12). (xem M. I. 134). Các thể loại được tóm tắt như
sau:
a. Kinh (S. Suutra, P. Sutta) hoặc Khế kinh, tiếng
Hán Việt phiên âm là Tu-đa-la, bao gồm các bài kinh thuần văn xuôi.
b. Trùng tụng (S. Geya, P. Geyya) hoặc Ứng tụng,
tiếng Hán Việt phiên âm là Kì-dạ, là loại kệ thơ lập lại ý của đoạn
văn xuôi ở trên.
c. Thụ kí (S. Vyaakara.na, P. Veyyaakarana), tiếng
Hán Việt phiên âm là Hoa-già-la-na, tức kinh đề cập việc đức Phật
ghi nhận cho các vị A-la-hán và Bồ-tát sẽ thành Phật theo đại thừa.
Trong khi tiếng Paali, chữ này chỉ có nghĩa là loại kinh dạng văn xuôi và
kệ thơ xen kẽ.
d. Kệ-đà (S=P. Gaathaa), cũng được gọi là Kí chú
hay Phúng tụng, tức các bài kinh thuộc thể loại kệ thơ.
e. Vô vấn Tự thuyết (S=P. Udaana,), tiếng Hán Việt
phiên âm là Ưu-đà-na, tức những bài kinh do Phật tự giảng, không phải
đợi người thỉnh cầu (theo đại thừa), hay loại Cảm hững ngữ (theo
Paali).
f. Nhân duyên (S. Nidaana) hay Quảng thuyết, tiếng Hán
Việt phiên âm là Ni-đà-na, tức những bài kinh nói về nhân duyên
khi Phật thuyết pháp theo đại thừa.
g. Thí dụ (S. Avadana) hoặc Diễn thuyết giải ngộ
kinh, tiếng Hán Việt phiên âm là A-ba-đà-na, tức những loại kinh
thuộc loại dụ ngôn, ẩn dụ.
h. Như thị pháp hiện (S. ItivŸttaka, P. Itivuttaka)
hoặc Bản sự kinh, tiếng Hán Việt phiên âm là I-đế-mục-đa-già,
tức loại kinh nói về "các pháp như thế này."
k. Bản sinh (S=P. Jaataka), tiếng Hán Việt phiên âm là
Xà-đà-già, tức các kinh nói về quá trình tu nhân của Phật khi còn
là bồ-tát.
l. Phương quảng hay Phương đẳng (S. Vaipulya, P. Vedalla)
tiếng Hán Việt phiên âm là Tì-phật-lược, tức các kinh căn bản của
đại thừa, hay các kinh chung chung theo Paali.
m. Hi pháp (S. Abbhutadharma, P. Abbhutadhamma) hoặc Vị
tằng hữu, tiếng Hán Việt phiên âm là A-phù-đà đạt-ma, tức các
kinh nói về các điều ít có và khó tin, và
n. Luận nghị (S. Upade'sa), tiếng Hán Việt phiên âm
là Ưu-ba-đề-xá, tức những bài kinh có tính cách vấn đáp với lý
luận rõ ràng.
Các kinh điển Phật giáo bị đạo Hồi tiêu hủy hết? Vì dựa vào các tài liệu hai và ba không tiêu chuẩn
(tr.34-5), ông Phan Thiết đã kết luận một cách sai lầm, bóp méo lịch sử:
" Kinh điển Asoka đã bị Hồi giáo tàn phá không còn nguyên vẹn
[sic]. . . Nay công trình ấy bị tiêu ma vì Hồi giáo khoảng thế kỷ thứ bảy
về sau. Vậy các kinh Phật còn lưu hành đến ngày nay đều là kinh giả
[sic] do người sau chế ra và gán cho Phật Tổ dậy" (tr.35). Câu nhận
định trên cũng như anh mù cho rằng không có sự hiện hữu của mặt trời
vì lý do đơn giản là anh ta không có mắt. Đại hội kết tập kinh lần
thứ ba do vua Asoka bảo trợ diễn ra vào năm 244 trước Tây lịch. Phật
giáo truyền vào Tích Lan vào năm 240. Ấn bản kinh điển Paali được hoàn
tất dưới dạng văn tự đầu tiên tại Tích lan, muộn nhất là thế kỷ
1 trước Tây lịch. Kinh điển Phật giáo tiểu thừa và đại thừa bằng
tiếng Sanskrit cũng được hình thành song song tại Ấn Độ và cũng đã
truyền sang và dịch ra tiếng Trung Quốc vào thế kỷ thứ nhất sau Tây Lịch.
Tạng kinh A-hàm tương đương với các tạng kinh Nikaaya của Paali cũng đã
có mặt tại Trung Quốc trong những thế kỷ đầu sau Tây lịch. Dù cho
quân Hồi giáo có thiêu hủy toàn bộ kinh điển tại Ấn Độ vào thế kỷ
7 đi nữa thì cũng không có lý do gì để kết luận kinh điển Paali ở Tích
Lan, Miến Điện v.v. . . và kinh điển đại thừa ở Trung Quốc (khoảng
năm 100), Triều Tiên (năm 300) Nhật Bản (năm 538) v.v.. . bị tiêu diệt được!
Các kinh điển ấy không phải là kinh giả, mà là kinh thật được truyền
thừa xuyên suốt từ đó đến giờ. Đó là điều các học giả tầm vóc
quốc tế đều thừa nhận, không cần phải tranh cãi.
3. Giới thiệu bao quát về kinh điển Paali
Ông Phan Thiết bảo ông đã "đi kiếm [?] bộ Tam Tạng
(Tripitaka) của phái tiểu thừa" nhưng ông "chưa kiếm được"
[?] và ông "đã lùng mua ở Thái Lan và Tích Lan chưa có kết quả
[?]" (tr.24, d.16-20). Thật là ngạc nhiên! Các bản dịch tiếng Anh về
ba tạng Kinh điển Paali của hội Thánh điển Paali đã dịch và ấn bản
và tái bản nhiều lần. Ngoài ra còn có các bản dịch lẻ của Tích Lan.
Các bản dịch này được bày bán ở các nhà xuất bản nổi tiếng về Phật
giáo. Tại các nhà sách Phật giáo tại thủ đô Bangkok của Thái Lan và
NXB. Buddhist Publication Society tại Kandy của Tích Lan, nhà xuất bản Motilal
Banasidass tại Delhi, Ấn Độ đều có bày bán bản dịch tiếng Anh này.
Các mạng internet Phật giáo cũng có giới thiệu. Không biết ông Phan Thiết
lùng bằng cách nào mà không gặp! Tuy nhiên để giúp ông Phan Thiết có
cái nhìn bao quát về kinh điển Paali, người viết xin giới thiệu sơ lược
như sau.
a. Tạng Kinh (Suttapi.taka) gồm có 5 tuyển tập, mỗi
tuyển tập gồm có nhiều bài kinh khác nhau.
(i) Trường Bộ Kinh (Diighanikaaya) gồm 34 kinh dài
(được T.W. Rhys Davids dịch ra English, 3 tập)
(ii) Trung Bộ Kinh (Majjhimanikaaya) gồm 152 bài
kinh vừa (được I.B. Horner dịch ra English, 3 tập)
(iii) Tương Ưng Bộ Kinh (Sa"myuttanikaaya), gồm
56 nhóm chủ đề với 7762 bài kinh ngắn (được Mrs. Rhys Davids và F.L.
Woodward dịch ra English, 5 tập)
(iv) Tăng Chi Bộ Kinh ([A"nguttara-Nikaaya), gồm
9557 bài kinh ngắn phân theo số mục (được F.L. Woodward, E. M. Hare dịch ra
English, 5 tập)
(v) Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka-Nikaaya) bao gồm 15 tuyển
tập theo chủ đề:
(1) Các bài Kinh Ngắn hay Tiểu Tụng (Khuddakapaatha)
(2) Kinh Pháp Cú (Dhammapada),
(3) Kinh Phật Tự Nói (Udaana),
(4) Phật Nói Như Vậy (Itivuttaka),
(5) Kinh Tập (Suttanipaata),
(6) Tuyển Tập về Thiên Giới (Vimaaanavatthu),
(7) Tuyển Tập về Ngạ Quỹ (Petavatthu),
(8) Pháp Kệ của Trưởng Lão Tăng (Theragaathaa),
(9) Pháp Kệ của Trưởng Lão Ni (Therigaathaa),
(10) Chuyện Đời Trước của Bồ-tát (Jaataka),
(11) Tuyển Tập Giải Thích Nghĩa (Niddesa),
(12) Vô Ngại Giải Đạo (Pa.tisambhidaamagga),
(13) Thí Dụ (Apadaana),
(14) Lịch Sử Đức Phật (Buddhava"msa),
(15) Tuyển Tập Hành Trạng (Cariyaapi.taka).
Các kinh này cũng đã được Hội thánh điển Paali dịch ra
tiếng Anh.
b. Tạng Luật (Vinayapi.tka) được chia làm 5 phần
chính (bản English do PTS dịch)
- Giới Tẩn Xuất hay Giới Trọng (Paarajika Paali),
- Giới Nhỏ Nhặt (Paacittiya Paali),
- Đại Phẩm (Mahaavagga),
- Tiểu Phẩm (Cullavagga),
- Truyền Giới và Biểu Quyết Tăng (Parivaara).
c. Luận Tạng (Abhidhamapi.taka) gồm có 7 bộ:
- Luận Pháp Tựu (Dhammasa"nga.ni)
- Luận Phân Tích (Vibhanga)
- Luận Nguyên Chất Ngữ (Dhaatukathaa)
- Luận Nhân Chế Định (Puggalapa~n~natti)
- Luận Ngữ Tông (Kathaavatthu)
- Luận Song Đối (Yamaka)
- Luận Đại Xứ (Mahaapa.t.thaana)
Gần như toàn bộ tạng Kinh (ngoại trừ vài tập của Tiểu
Bộ Kinh) ngay cả bản A-hàm (Aagama) tương đương bằng chữ Hán cũng
đã được viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam dịch và ấn hành tại TP.
Hồ Chí Minh. Bảy bộ Luận cũng đã được dịch ra tiếng Việt và được
Thành Hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành. Riêng tạng Luật đã được
dịch ra tiếng Việt nhưng mới chỉ lưu hành nội bộ trong các chùa Nam
Tông ở Việt Nam.
4. Kinh điển Đại thừa
Như ông Phan Thiết đã thừa nhận ông chỉ đọc vài ba cuốn
sách tiếng Việt và tiếng Anh thuộc loại tài liệu hai hoặc ba (tr. 24,
34-5) khi nghiên cứu về kinh điển Phật giáo. Kết quả là ông đã góp nhặt
được "một mớ" kiến thức ít ỏi, sai lệch với bản chất của
các kinh điển Phật giáo. Dựa vào vài ba cuốn sách đó, ông Phan Thiết phủ
nhận và cho rằng toàn bộ kinh điển đại thừa chỉ do người sau bịa đặt,
chỉ vì "bản Phạn kinh đã mất" [sic] (tr.39). Trước khi giới thiệu
một số kinh bằng chữ Phạn, người viết xin nói qua về sự hiểu và dịch
sai của ông Phan Thiết.
a. Ở trang 55, ông Phan Thiết trích lại đoạn văn trong quyển
Buddhist Book Illuminations, như sau: "Certain written words [works?]
containing the saying (of the Teacher) existed even during the life time of the Teacher
himself, only henceforth began the practice of writing of the commentaries in the form of
the sastra." Ông Phan Thiết dịch ý sai lệch như sau: "Trong số các
văn bản có văn bản ghi chính ngôn của Đức Bổn Sư trước khi chỉnh
đốn thành những Sutra" (tr. 38). Câu chuyển ý của ông Phan Thiết
hoàn toàn tối nghĩa và có nhiều sai lệch, bởi lẽ trong mạch văn không hề
có từ nào là sutra, mà chỉ có sastra. Ông Phan Thiết đã hiểu
lẫn lộn chữ "sastra" thành "sutra" nên đã sai
lầm khi cho rằng không có kinh điển (sutra) đại thừa nào cả. Vì
không có nguyên tác đối chiếu, chúng ta không biết được tính chính xác
của đoạn văn tiếng Anh được ông trích như thế nào. Tuy nhiên, đoạn
văn này có thể tạm dịch như sau: "một số tác phẩm thành văn có chứa
những lời dạy (của đức Phật) tồn tại ngay cả trong thời của chính
đức Phật, và từ đó, phong trào viết các bản chú sớ dưới hình thức
của luận đã ra đời." Ý đoạn này thừa nhận có một số tác phẩm
thành văn, trong đó có thể có bộ Tỳ-bà-sa đã tồn tại từ ngay
thời của đức Phật, và các luận phẩm giải thích về kinh điển
(commentaries) cũng đã ra đời vào thời đó. Nghĩa là, ý của tác giả của
đoạn văn này cho rằng giả thuyết cho rằng "kinh luận đại thừa không
do đức Phật nói" là sai.
b. Kế đến, bộ Vibhasa hoàn toàn không có liên hệ gì với
bộ Vinaya cả (tr. 38): Một đàng là luận và thuộc văn hệ Sanskrit
(bản dịch thuộc chữ Hán), đàng kia là luật, thuộc văn hệ Paali.
Vinaya [Vinayapi.taka] là tên của tạng luật. Từ Vibhasa thường được phiên
âm Hán Việt là Tỳ-bà-sa. Có hai bản luận có liên hệ đến chữ Tỳ-bà-sa
là (1) A-tỳ-đạt-ma Tỳ-bà-sa luận (Abhidharma-vibhaa'saa-Saastra)
và (2) A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận (Abhidharma-mahaavibhaa'saa-Saastra).
Bộ thứ nhất do Kaatyaayaniiputtra biên soạn, và được Buddhavarma dịch
vào năm 437-439 A.D. Bản luận thứ hai do Thế Hữu và các vị A-la-hán khác
biên soạn vào khoảng 400 năm sau khi Phật Thích-ca niết-bàn. Bộ này được
Huyền Tráng dịch vào năm 656-659. Cả hai bộ thuộc về văn học luận tạng
trong khi Vinayapi.taka là luật tạng.
c. Ông Phan Thiết còn viết nhầm lẫn rằng các "Kinh Đại
thừa chỉ xuất hiện sau Tây lịch [sic], thời "Tượng-Pháp" còn
truyền đến nay. Các kinh ấy bảo rằng lời Phật dạy nhưng được ghi chép
ngoài Ấn Độ [sic]" (tr.39). Đây là những lời nhận định cho thấy
thiếu kiến thức về lịch sử. Vấn đề ở chỗ là ông Phan Thiết chưa
từng đọc qua các dòng văn học Phật giáo mà dám lạm bàn. Văn học đại
thừa, viết bằng tiếng Sanskrit, ít được thế giới phương Tây biết đến,
trong khi các nước chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa đã biết
đến hơn 15 thế kỷ. Mãi cho đến tiền bán thế kỷ 19 (1833-1843), nhờ ông
Brian Houghton Hodgson ở thủ đô Kathmandu, Nepal, phát hiện và công bố
380 văn bản kinh điển Đại thừa bằng tiếng Sanskrit, thế giới học giả
mới chú ý nhiều hơn về sự hiện hữu của một dòng văn học thường bị
chụp mũ "không có" hay "không do Phật nói" này. Học giả
Phật học Nga, giáo sư Th. Stcherbatsky đã ấn hành mấy chục bản kinh
Sanskrit này trong tùng thư mang tên Bibliotheca Buddhica, xuất bản
tại Leningrad. Ấn bản này cũng đã được nhà xuất bản Motilal Banasidass
Delhi, Ấn Độ, tái bản. Mãi đến năm 1894, tức 61 năm sau, kể từ ngày
được phát hiện, kinh điển Sanskrit mới được Max Muller và các học giả
lỗi lạc khác dịch sanh tiếng Anh. Vài bản dịch trong các kinh điển bằng
Sanskrit này được in trong bộ Thánh Kinh Châu Á (Sacred Books of the
East). Bộ này đều có trong các thư viện lớn trên thế giới.
5. Giới thiệu bao quát về kinh điển Đại thừa và tiểu
thừa đã được dịch ra Hán văn
Sau đây là sơ lược về văn học đại thừa theo mục lục
của Bunyiu Nanjio về đại tạng kinh Trung Quốc. Nếu muốn biết chi tiết mục
lục của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (biên tập năm 1924-1934),
ông Phan Thiết có thể tìm đọc quyển Mục Lục Kinh Đại Tạng của
thầy Thích Phước Cẩn, được lưu hành nội bộ tại một số chùa ở
TP. Hồ Chí Minh. Ở đây, người viết xin giới thiệu cho ông mục lục
kinh điển Trung Quốc do Bunyiu Nanjio soạn. Toàn bộ văn học Đại thừa
cũng như văn học Tiểu thừa được phân theo bốn phần chính: phần kinh tạng,
phần luật tạng, phần luận tạng và phần ngoài ba phần này. Cấu trúc của
ba phần đầu được phân bổ theo thứ tự Đại thừa trước rồi Tiểu
thừa sau. Riêng phần 4 là phần các tác phẩm của các cao tăng Ấn Độ và
Trung Quốc.
a. Phần Kinh Tạng (Suutrapi.taka)
Tạng Kinh Đại Thừa: bao gồm
- Văn học Bát-nhã (Praj~naapaaramitaa) từ số 1 đến 22
- Văn học Đại Bảo Tích (Ratnakuuta) từ số 23 đến 60
- Văn học Đại Tập (Mahaasannipaata) từ số 61 đến 86
- Văn học Hoa Nghiêm (Avata"msaka) từ số 87 đ?n 112
- Văn học Niết-bàn (Nirvaa.na) từ số 113 đến 125
- Ngũ đại bộ ngoại trùng dịch kinh (các kinh dịch trùng lập ngoài 5 văn
học trên) từ số 126 đến 375.
- Đơn dịch kinh (các Kinh lẻ không thuộc 5 văn học trên) từ số 376-541
Kinh Tiểu Thừa
- Văn học A-hàm (Aagama) từ số 542 đến 678
- Đơn dịch kinh (các Kinh lẻ không thuộc A-hàm) từ số 679 đến 781
Các kinh điển đại thừa và tiểu thừa được bổ sung vào
triều Tống (A.D. 960-1127 và 1127-1280) từ số 782 đến 1081
b. Phần Luật Tạng (Vinayapi.taka)
- Luật Đại thừa (Mahaayaana-vinaya) từ số 1082 đến 1106
- Luật Tiểu thừa (Hiinayaana-vinaya) từ số1107 đến 1166
c. Phần Luận Tạng (Abhidharmapi.taka)
- Luận Đại thừa (Mahaayaana-Abhidharma) từ số 1167 đến 1260
- Luận Tiểu thừa (H iinayaana-Abhidharma) từ số 1261 đến 1297
- Các luận được bổ sung vào triều Tống Nguyên (A.D. 960-1127 và 1127-1280)
từ số 1198 đến 1320
d. Phần các Tác Phẩm Khác
- Tuyển tập các tác phẩm của cao tăng Ấn Độ, từ số 1321 đến 1467
- Tuyển tập các tác phẩm của cao tăng Trung Quốc, từ số 1468 đến 1621
- Các tác phẩm được đưa vào triều Đại Minh, từ số 1622 đến 1657
- Các tác phẩm không có trong Bắc tạng nhưng có trong Nam tạng, từ số
1658 đến 1662.
Nếu ông Phan Thiết là một người có tinh thần khoa học của
một người cầm bút chân chánh, sau khi tìm đọc các kinh điển đại thừa
bằng tiếng Sanskrit, ông sẽ không bao giời phát biểu sai lầm như: (1)
"Chính ông [Cưu-ma-la-thập] là tác giả [sic] nhiều bộ kinh còn truyền
đến nay như kinh Diệu Pháp Liên Hoa, kinh A-di-đà, kinh Kim Cang, kinh
Bát-nhã-ba-la-mật" (tr. 39-40), (2) "các sư Tây Vực Gunabhadra (Tống),
Bodhiruci (Lương), Paramartha (Trần) . . . đến Trung Quốc viết [sic] nhiều
kinh truyện" (tr. 40). Ông Phan Thiết sẽ giật mình vì sự nhầm lẫn to
lớn (không thể tưởng tượng) khi biết rằng các kinh điển mà ông cho Cưu-ma-la-thập
(Kumaarajìva) viết ở (1) lại là các bản dịch từ các kinh điển Sanskrit
có trước ngài đến vài thế kỷ. Kế đến, ông Phan Thiết còn vấp nhiều
sai lầm khi cho rằng các kinh Sanskrit này "là thần thoại Ấn Độ theo
các bộ Purana cộng với triết lý trong các bộ Upanishad: Bà-la-môn đã lộn
sòng thành Phật Đại Thừa" (tr. 40). Ở trang 24 (tập I), ông Phan Thiết
bảo ông "chưa kiếm được" các bản dịch về kinh điển Phật giáo,
và cũng chưa đọc các kinh điển Upani.sad, Veda và Puraa.na mà chỉ đọc
được "những sách trích dẫn rời rạc như cuốn Hindu Theology" thì
làm gì ông biết được nội dung của chúng mà dám nói cóp-pi hay không
cóp-pi của nhau! Người viết chờ cho ông đọc xong các bộ này, và
yêu cầu ông chứng minh (khác với bịa đặt) vài đoạn của hai văn bản
Phật giáo và Bà-la-môn (không cần nhiều) cho thấy các kinh điển Bà-la-môn
đó "đã lộn sòng thành Phật Đại thừa." Còn nếu ông không chứng
minh được thì xin xin ông hãy sớm từ bỏ thái độ viết sai lệch và
xuyên tạc.
III. Tính Thẩm Quyền của Kinh Điển Phật Giáo
Lẽ ra, không cần nhận định về phần ông Phan Thiết phủ
nhận tính thẩm quyền của kinh điển Phật giáo (tr. 47-55), vì lý do đơn
giản, một người chưa đọc vào văn bản một tác phẩm nào đó thì
không thể được xem mình có "thẩm quyền" nhận định tác phẩm
đó hay dở, đúng sai, nguyên thủy hay cóp nhặt v.v. . . Tuy nhiên, để giúp
ông Phan Thiết nhận ra được các việc làm ngông cuồng và sai lầm của
ông hiện nay, phát xuất từ những "cay cú" về sự sụp đổ của
chính thể Ngô Đình Diệm do chính biến năm 1963 tại Việt Nam, (II. 157-160)
mà sớm từ bỏ "ý đồ" đen tối này, người viết sẽ chứng
minh thêm các sai lầm căn bản của ông trong phần nầy.
1. Tính thẩm quyền
Ông Phan Thiết cố tình lý giải lệch lạc lời Phật, để
phủ nhận kinh điển Phật giáo: "Có lẽ, ý thức được đời sau sẽ
ngụy tạo lời dậy của mình [sic], đức Thích Tôn khi nhập niết-bàn đã
phủ định [sic] đạo lý của mình "Ta thuyết pháp 49 năm chưa hề
nói một lời" (tr. 47). Câu này có 2 sai lầm. Thứ nhất, đức Phật nói
câu "suốt 49 năm qua [khác với "ta thuyết pháp 49 năm"] ta chưa
hề nói một lời" trong kinh Lăng-già, một trong các kinh điển đại
thừa viết bằng Sanskrit, chứ không phải nói trước khi niết-bàn vô dư
(tôi không muốn dùng từ "nhập niết-bàn" như xưa nay người ta đã
dùng, dễ dẫn tới hiểu lầm cho rằng "niết-bàn" là "một thế
giới"). Thứ hai, câu nói này không phải "phủ định đạo lý của
ngài" mà nhằm nhắc nhở các đệ tử của ngài rằng "lời dạy
của ngài chỉ là ngón tay để chỉ chân lý, tức niết-bàn, chứ không phải
là bản thân của niết-bàn." Nghĩa là ngài xác định kiến
thức về niết-bàn không phải là bản thân của niết-bàn. Niết-bàn phải
được cảm nhận qua quá trình tu tập thiền định và chứng đạt. Kế đến,
đức Phật không hề "khuyên đệ tử đừng tin vào những lời
ngài còn lưu lại trong kinh Anguttara Nikaya" (tr. 47). Ngài khuyên mọi người
(thông qua dân chúng Kaalaama, chứ không chỉ riêng cho đệ tử ngài) không
nên tin vào kinh điển lưu truyền nếu những điều đó không đem lại lợi
ích, không phù hợp với lý trí, không hướng thượng, nếu thực hành sẽ
đau kho宠Trích ý của một
vế đầu rồi tự tiện cắt bỏ ý tứ của vế sau chỉ là việc làm của
người không có tinh thần nghiên cứu nghiêm túc.
Việc biên tập kinh điển thành văn muộn màng trong Phật
giáo không thể là lý do chính đáng để phủ nhận lời Phật dạy không
còn nguyên thủy (tr. 47). Ông Phan Thiết võ đoán: "các lời truyền khẩu
của Ngài xuống đời tỳ-kheo thứ hai, thứ ba … đã sai lạc nhiều vì
khó ai nhớ cho xuể. Người theo kinh Phật tự do biến chế [sic] đạo Phật
theo ý thích nên ai cũng có thể soạn kinh [sic] và gán cho Phật Tổ . .
." (tr. 48). Thật tiếc cho cái ngông cuồng của ông Phan Thiết, vì lịch
sử khác hẳn với võ đoán. Truyền thống học thuộc lòng kinh điển Phật
dạy vẫn còn hiện hữu đối với các vị tăng sĩ Phật giáo Miến Điện.
Ông Phan Thiết nên sang Miến Điện thăm viếng các vị tăng sĩ thuộc làu
5 bộ kinh Nikaaya, rồi hãy nhận định tính chính thống của dòng văn học
truyền khẩu Phật giáo trước khi nó được ghi lại thành văn bản.
2. Kinh Phật là kinh Bà-la-môn
Cho rằng "kinh Phật bắt nguồn từ đạo Bà-la-môn"
(tr. 47), "cóp-pi cổ tích Purana [nào?], mượn thần học Bà-la-môn
[nào?], sao chép các tư tưởng của các môn phái triết học [nào?] xào xáo
lại tạo ra kinh Phật" (tr. 48), hay "toàn là những chuyện người
sau chép từ đạo Bà-la-môn" (tr.55) cũng giống như nói loài người bắt
đầu từ loài khỉ vượn, hay chủ nghĩa vô thần cóp-pi từ chủ nghĩa hữu
thần vậy. Sai lầm này đã được chứng minh ở phần trên. Rồi ông Phan
Thiết lại tưởng tượng méo mó cho rằng đạo Phật và đạo Kỳ-na là
"2 anh em sanh đôi" (tr. 49) mà ông không hề dẫn chứng được vài
câu cho thấy chúng giống nhau. Ở trang 74 của tập I, ông đưa ra các điểm
giống nhau về tiểu sử của Phật Thích-ca và Mahaaviira rồi kết luận hai
vị giống nhau hệt. Người viết đã trình bày sự chụp mũ sai lầm của
ông Phan Thiết ở phần viết về "Phật Pháp đương thời với Đức
Thích Tôn." Đoạn sau đây chứa mâu thuẫn, tự nó hủy diệt chính
nó, không cần phải bàn: "Trong 400 năm từ năm 200 trước Tây lịch đến
năm 200 sau Tây lịch, tiểu sử của ngài mới được kết tập do các phái
Sarvàstivà [sic, sarvaastivaada] thành kinh ‘Lilitavisara’ [sic];
phái Theravada thành kinh ‘Nidãnakathà’ [sic], Mã Minh (Ashvaghosa) đặt thành
thơ ‘Budhacarita’, chủ yếu vẫn là truyền khẩu" (tr. 48). Đã
gọi là kinh tức văn bản viết mà còn gọi là truyền khẩu, thì quả thật
là tự mâu thuẫn!
Thật ra, nhận định mâu thuẫn trước sau như vậy là bản
chất của ông Phan Thiết, như bạn sẽ thấy ông vấp phải nhiều lần.
Ở trang 47-8 (tập I) như vừa nêu, ông cho rằng kinh điển Phật giáo
cóp-pi từ kinh điển Bà-la-môn, rồi ở trang sau đó, ông thừa nhận chúng
khác nhau: "Về giáo thuyết, phải tinh tế lắm mới nhận ra điều
Thích-ca giảng dậy khác với Bà-la-môn" (tr. 49, d.6-7). Rõ hơn, khi
ông chê các nhà Phật học không nhận ra được trong khi ông nhận ra được
kinh điển Phật giáo khác với Bà-la-môn: "Các nhà Phật học đời sau
không nhận ra [sic] điểm đặc sắc của đạo Phật khác với đạo Bà-la-môn,
khác với các môn phái có trước hoặc đồng thời với Phật" (tr.
49, d.15-7). Như vậy, không cần phải chứng minh thêm nữa về sự nhầm lẫn
đáng tiếc của ông Phan Thiết khi phủ nhận tính chính thống của kinh điển
Phật giáo, vì bản thân cũng đã thừa nhận Phật giáo khác hẳn với
đạo Bà-la-môn và các môn phái có trước hoặc đồng thời với Phật.
3. Kinh Phật: hiện sinh hay siêu hình? (I. 50-4).
Trong phần này, có rất nhiều sai lệch căn bản.
Thứ nhất, các khái niệm Thượng đế, Thiên chúa, lý
thái cực, Allah của các tôn giáo hữu thần khác hoàn toàn với các khái
niệm "pháp tánh, Phật tánh, chân như" trong đạo Phật, đạo phủ
nhận có một nguyên nhân đầu tiên đã tạo ra vũ trụ. Ông Phan Thiết
không phân biệt được nên đánh đồng làm một! (I.50).
Thứ hai, tính thực tiễn trong đạo Phật quy chiếu về chánh
niệm và tỉnh thức trong hiện tại khác hẳn với chủ nghĩa hiện sinh của
triết học phương Tây. Trong nguyên lý Tứ diệu đế (xem phần nói về Tứ
diệu đế ở chương 5), đức Phật không hề tuyên bố "đời là bể
khổ với sanh, lão, bệnh, tử" (I. 51). Đức Phật lập đi lập lại rằng
toàn bộ giáo pháp của ngài chỉ nhấn mạnh đến 2 vấn đề: đau khổ của
chúng sanh (khác với đời là bể khổ) và cách diệt trừ đau khổ đó.
Ngay thời của đức Phật, cũng đã có nhiều người chụp mũ ngài chủ trương
yếm thế, hư vô, vì hiểu Tứ diệu đế qua khổ đế, nghĩa là dưới mắt
họ, bốn đế chỉ còn một đế! Sau đây là đoạn đức Phật
phát biểu:
Mặc dù tôi [Phật Thích-ca] giảng dạy như sau "xưa cũng như nay, tôi
chỉ giảng dạy nhất quán hai điều, đó là, đau khổ và sự chấm dứt
đau khổ" các sa-môn và Bà-la-môn đã chụp mũ tôi một cách vô căn cứ,
sai lệch, không phù hợp với sự thật rằng: "sa-môn Cồ-đàm là người
chủ trương hư vô (venayika), tuyên truyền về sự đoạn diệt, sự
chấm dứt, sự tuyệt chủng (vibhava) của các chúng sanh. Các chụp mũ
ấy là sai lạc, và trái ngược với lời dạy của tôi. (M. I. 140; MLS.
I. 180.)
Thứ ba, ông Phan Thiết đã bóp méo
học thuyết tứ đế (sự thật về đau khổ, nguyên nhân của đau khổ, sự
an lạc của niết-bàn và con đường đạt được niết-bàn) qua tam đoạn
luận "tự bịa" của ông.
Tam đoạn luận "tự bịa" của Phan Thiết Logic hóa
Đời sống là nỗi đau và niềm thống khổ: p ---> q
Dục vọng là thủ phạm của khổ đau: r ---> q
Cắt đứt dục vọng là chấm dứt đau khổ: ~r ---> ~q
Ai là sinh viên vỡ lòng của triết học cũng có thể dễ
dàng thấy được sự ngụy biện của ông Phan Thiết qua cái gọi là tam
đoạn luận tự bịa, như chúng tôi đã logic hóa trong công thức bên trên.
Xin hỏi ông Phan Thiết, cái mà ông mạo danh là tam luận đó, là tam đoạn
luận nào: Modus Ponens? Modus Tollens? Hypothetical Syllogism? Disjunctive
Syllogism? Distructive Dilemma? Constructive Dilamma? Conjunction? Điều quan trọng
hơn, khổ đế trong tứ đế không phải là phán đoán "đời sống là
nỗi khổ đau và thống khổ." Đời sống theo đạo Phật có thể là
khổ đau, nếu ta sống bằng thái độ tham lam, sân hận và si mê, và có thể
là an lạc, hạnh phúc (niết-bàn) nếu ta không để cho các tâm lý âm tính
đó chi phối. Nguyên nhân của đau khổ theo đạo Phật là tham ái (ta.nhaa)
chứ không phải là "dục vọng." Muốn chấm dứt đau khổ, để sống
một cách niết-bàn, ta phải tu tập đạo đức, trí tuệ và thiền định
được thể hiện qua con đường thánh gồm tám yếu tố (bát chánh đạo),
chứ không phải "cắt đứt dục vọng." Ông cố tình lý giải sai
như quý bạn đọc đã thấy, và cố bỏ đi chân lý thứ ba, đó là niết-bàn,
để đánh đồng Tứ diệu đế với triết học hiện sinh, thì chẳng ăn
chung vào đâu cả. Thật chất, cách làm việc méo mó như vậy chỉ chứng
tỏ ông là người không biết tôn trọng sự thật, một người ma lanh, thủ
đoạn trong văn học.
Thứ tư, cho đạo Phật đại thừa là "siêu hình"
thì không biết gì về triết học mà học đòi nói chuyện triết học. Chỉ
cần ông là sinh viên cử nhân năm thứ I, ông cũng có thể biết được khái
niệm siêu hình (metaphysics) không chỉ đơn thuần là khái niệm chỉ cho
"những gì không thực tế" (như nhiều người viết về Phật giáo
đã nhầm lẫn và cố chứng minh đạo Phật không phải là siêu hình) mà
còn bao hàm nhiều ý nghĩa khác. Tác giả xin trích dẫn ra đây định nghĩa
của một cuốn tự điển triết học, sử dụng cho các sinh viên cử nhân
triết, do tập thể nhóm giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ triết học viết, để
giúp ông sửa sai lầm của mình:
A central element in Western philosophy from the Greeks onwards, ‘metaphysics’ has
meant many different things. It can be an attempt to characterize existence or reality as
a whole, instead of, as in the various sciences, particular parts or aspects thereof.
Materialism and idealism, Spinoza’s monism and Leibiz’s monadology, are examples of
metaphysics of this sense. It can be an attempt to explore the realm of the suprasensible,
beyond the world of experience; to establish indubitable first principles as a foundation
for all other knowledge; to examine critically what more limited studies simply take for
granted; or to compile an inventory of what sorts of things ultimately, or in the last
analysis, there are." (Antony Flew (ed.) A Dictionary of Philosophy. London:
Pan Reference, 1979, p. 229b).
Thứ năm, ông Phan Thiết đã không phân biệt được sự khác
nhau giữa kinh điển Nikaaya và Aagama, nên đã dịch "nikaaya" thành
"a-hàm" (tr.51).
Thứ sáu, vì không phân biệt được thể loại kinh với
bản thân các kinh, như phần được giới thiệu ở trên, nên ông
Phan Thiết đã gọi các "thể loại kinh" thành các "bộ
kinh" như sau: "không rõ các kinh ấy thế nào và có thể tìm thấy
ở đâu hoặc các kinh ấy đã biến hóa thành các tạng kinh như tôi [Phan
Thiết] đã ghi ở trên" (tr.52).
Vì không biết "ngũ thời giáo" của tổ Thiên Thai
Trí Khải nên ông Phan Thiết viết sai lệch như sau: "Các nhà Phật học
lý giải kinh điển đại thừa [sic] theo ngũ thời pháp: đệ nhất kỳ là
thời Hoa Nghiêm Phật giảng cho thần tiên [sic] nghe. Đệ nhị kỳ là kinh
A-hàm cho người nghe. Đệ tam kỳ là kinh Duy-ma-cật [sic] tranh biện với
Bà-la-môn. Đệ tứ kỳ là kinh Bát-nhã giảng về Không luận [sic].
Đệ ngũ kỳ là kinh Pháp Hoa giảng về Trung luận [sic]" (tr.52).
Bài thơ về ngũ thời giáo của tổ Trí Khải như sau:
Nguyên văn
Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật
A-hàm thập nhị, Phương Đẳng bát
Nhị thập nhị niên Bát-nhã đàm
Pháp Hoa, Niết-bàn cộng bát niên
Dịch nghĩa
Kinh Hoa Nghiêm giảng dạy trong 21 ngày [sau khi thành Phật]
Kinh A-hàm trong 12 năm, Kinh điển Phương Đẳng trong 8 năm
Văn học Bát-nhã được giảng trong 22 năm
Kinh Pháp Hoa và Niết-bàn được giảng trong 8 năm cuối
Đối chiếu đoạn văn của ông Phan Thiết và bài thơ nguyên
tác, ta thấy, ông đã viết sai đến 5 điểm, được đánh dấu bằng chữ
"sic" trong dấu ngoặc vuông. Bài thơ không nói gì về đối tượng
thính chúng của các thời kinh này, mà chỉ nói tới chiều dài thời gian của
các bài kinh này mà thôi. Điều sai lầm nhất là hai từ được in đậm
trong đoạn văn của ông Phan Thiết: "kinh Bát-nhã giảng về Không luận"
và "kinh Pháp Hoa giảng về Trung Luận." Và nếu ông biết
chút đỉnh về sự khác nhau giữa "kinh" là từ chỉ cho phần ghi
chép về những lời dạy của Phật và các vị A-la-hán, và "luận"
là tác phẩm giải thích về những lời dạy đó thì ông đã không nói ngược
ngạo: "kinh" giảng về "luận," thay vì "luận"
giảng về "kinh."
Thứ bảy, mệnh đề "nhập pháp giới" có nội
dung khác hẳn với "nhập niết-bàn" mà ông Phan Thiết không phân
biệt được, nên đã hiểu lầm Nghiêm Xuân Hồng: "Thiền sư [sic] Nghiêm
Xuân Hồng viết sách luận về kinh này dùng chữ "nhập pháp giới"
thay cho [sic] "nhập niết-bàn" rất chí lý [sic]" (tr.52).
Thứ tám, ông Phan Thiết bảo "ta nên xem ông [Cưu-ma-la-thập]
là tác giả" của kinh Pháp Hoa (tr. 52) chỉ vì Cưu-ma-la-thập là dịch
giả của kinh này. Kinh Pháp Hoa nói về "nhất Phật thừa" mà ông
Phan Thiết viết bậy thành "cõi nhất như" để ông quy kết thành
atman nhập vào brahman trong Bà-la-môn (tr. 52).
Thứ chín "Kinh Bát-nhã Ba-la-mật" là một kinh gần
1000 trang (bản dịch tiếng Việt của HT. Thích Trí Tịnh) mà ông Phan Thiết
bảo "còn gọi là "Bát-nhã tâm-kinh" (tr. 52), một bản kinh chỉ
có vài trăm chữ! Kế đến, chữ "không" (S. 'suunyataa, emptiness,
voidness) trong văn học Bát-nhã khác hẳn với nghĩa không có (natthitaa,
non-existence, nothingness). Vì nhầm lẫn chữ "không" (duyên khởi
và không thực thể của sự vật) với chữ không-có, nên ông Phan Thiết
quy kết trật rằng "không" là "hư vô" (xem chương 11 của
tập nhận định này, nói về Có Không và Sắc Không).
Thứ mười, thành Xá-vệ không phải là "Svravasti"
(tr.53, d.9), mà là 'Sraavaasti trong Sanskrit, hay Saavatthi trong Paali. Từ
Paali "Jetavana" được kết hợp bằng hai thành tố "Jeta"
và "vana." Jeta là tên của thái tử Kỳ-đà, và vana là khu vườn.
Trong tiếng Paali, Jetavana có nghĩa là vườn Kỳ-đà, Kỳ Viên. Người
Trung Quốc căn cứ theo tích truyện của vườn này nên dịch là "Ky蠴họ Cấp Cô Độc viên,"
chứ không ai gọi là Jetavana là "vườn Cấp-cô-độc" (tr.53, d.10).
Thứ mười một, ông Phan Thiết bảo kinh Lăng Nghiêm có
"lối văn ngụy biện làm hoa mắt và mờ trí" (tr.53) nhưng không dẫn
chứng được một đoạn nào cho thấy sự ngụy biện và xuyên tạc của
ông là có lý.
Thứ mười hai, ông Phan Thiết bảo ông "Tìm thấy dấu
vết kinh này [kinh A-di-đà] trong truyện cổ tích Purana của Ấn Độ"
(tr.53). Quả là đại nói dóc. Ông thừa nhận chưa hề đọc vào Puraa.na
làm sao biết chúng giống hay khác. Biểu tượng của Phật A-di-đà, Bồ-tát
Quán Thế Âm và Đại Thế Chí khác hoàn toàn với Brahma, Siva và Visnu mà
ông Phan Thiết lại bảo là "biến thể" (tr.53) của ba vị thần
Ấn Giáo này, chỉ vì một lý do rất đơn giản: cả hai bên đều có con số
3. Theo lý luận ngụy biện này, từ "ba má" (cha
và mẹ) sẽ trở thành "ba người mẹ" vì cả hai từ đều có
từ "ba" mà đã là "ba" thì "ba" nào cũng như nhau!
Đây là lối ngụy biện đồng hóa con số với triết lý, dẫn đến sự
đồng hóa hai sự kiện khác nhau trời vực làm một.
4. Chủ đề của các kinh Phật (tr. 54-5)
Sau đây là những nhận xét thuộc diện "nói không có
sách, mách không có chứng" của ông Phan Thiết khi nhận định về chủ
đề của kinh điển Phật giáo: (1) kinh luận nguyên thủy Phật giáo nói về
pháp tính, (2) chỉ có kinh Đại thừa nói về học thuyết "độ"
sanh của đức Phật (thực ra, toàn bộ kinh điển Nikaaya cũng dạy về cách
hóa độ chúng sinh), (3) kinh điển Đại thừa chủ trương "chủ
nghĩa hư vô" (do nhầm lẫn chữ "không" ('suunyataa //
su~n~na.taa) tức không thực thể, non-substantiality, với chữ
"không-có" natthitaa, non-existence), (4) không có gì là của
riêng Phật tổ chuyển pháp luân khai thị chúng sanh. Ngoại đạo đã làm
trước Phật tổ.
Nói tóm lại, trên đây là những dẫn chứng về những ngộ nhận căn bản
của ông Phan Thiết về Phật giáo. Các nhầm lẫn, lệch lạc v.v. . . của
ông Phan Thiết về các thuật ngữ và nội dung học thuyết về Phật giáo
cho thấy ông chỉ có một sở học quá ít, lem nhem và sai lầm về triết học
và văn minh Ấn Độ. Chính do lập cước trên những sai lầm như vậy cộng
với thành kiến cá nhân đối với đạo Phật, ông đã không ngại ngùng
chỉ trích đạo Phật và chụp mũ đạo Phật là biến thể của đạo Bà-la-môn.
Nhưng tiếc thay cho ông, lịch sử và sự thật của đạo Phật vẫn không
phải là những gì ông bịa đặt và viết sai về đạo Phật. Đạo Phật
vẫn là đạo Phật dù ông có cho nó bằng bất kỳ tên gọi áp đặt hay
chụp mũ nào.
Lời giới
thiệu | 1 | 2
| 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 |