- Phật tử
- HT. Thích Thiện Châu
Phần I
[1.]Giới thiệu
[1.]Xin lỗi bạn,
bạn có thể cho tôi biết qua lý tưởng của bạn ?
[2.]Phật tử
là gì ?
[3.]Đạo Phật
có phải là một Tôn giáo không?
[4.]Làm thế
nào để trở thành Phật tử ?
[5.]Cho biết
vấn đề đức tin trong đạo Phật?
[2.] Phật
[6.]Đức Phật
là ai ?
[7.]Tại sao
Thái tử xuất gia tu hành?
[8.]Đạo sĩ
dòng Thích Ca tìm thầy học đạo và tu đạo như thế nào ?
[9.] Đắc đạo
rồi đức Phật có giáo hóa chúng sanh không ?
[10.]Phải chăng
đức Phật là một vị trời ?
[11.] Làm sao
biết được đức Phật là bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn?
[3.]đạo Phật
[12.]Cho biết sơ qua về kinh điển căn bản của Đạo Phật ?
[13.]Cốt lõi của đạo Phật là gì ?
[14.]Giải
thích thêm về đạo lý Vô ngã, Vô thường.
[15.]Với
ánh sáng đạo lý Duyên khởi, đức Phật nhìn cuộc đời như thế nào?
[16.]Tội ác
phát sinh từ đâu và làm sao diệt trừ ?
[17.]Thế
nào là luân hồi?
[18.]Tại sao
Phật tử không tin "Thượng đế"?
[19.]Như vậy
làm sao giải thích được nguồn gốc của con người và vũ trụ?
[20.]Theo đạo
Phật thì những con người có mặt đầu tiên ở trên trái đất này là ai
và ra sao?
[21.]Không đề
cập đến Thượng đế nhưng đạo Phật có nói đến bản thể vũ trụ không?
[22.]Xin cho
biết chữ Trời trong Kinh điển đạo Phật và quan niệm Thượng đế khác
nhau như thế nào?
[23.] Vậy
thì đạo Phật chủ trương "hữu thần" hay "vô thần"?
1. Xin lỗi bạn, bạn có thể cho tôi biết
qua lý tưởng của bạn ?
[ * đầu trang ]
- Tôi là Phật tử. Tôi tu học theo đạo Phật.
2. Phật tử là gì ?
[ * đầu trang ]
- Phật tử là người tu học theo đạo Phật hay
người muốn giác ngộ như Phật.Nói cách khác, người Phật tử là người
đi tìm sự thật nơi con người và vũtrụ theo kinh nghiệm của Phật, bậc
giác ngộ hoàn toàn.
3. Đạo Phật có phải là một Tôn giáo không?
[ * đầu trang ]
- Đạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm
ra. Đạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông
thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể
nhập chơn lý. Nếu cần dùng chữ tôn giáo (Religion) cho dễ hiểu thì có
thể nói đạo Phật là một "Tôn giáo không có Thượng đế". Có
người bảo đạo Phật là một triết học nhưng phải là một triết học
thực tiễn.
4. Làm thế nào để trở thành Phật tử ?
[ * đầu trang ]
- Bạn có thể trở thành Phật tử nếu bạn tự
nguyện hướng về giác ngộ, nghĩa là muốn kính thờ Phật làm Thầy, sống
theo đạo lý vi diệu, lợi ích của Phật (Dharma) và muốn được sự hướng
dẫn của các vị tu hành chơn chánh và hòa hợp với các bạn đồng đạo.
Rõ ràng hơn, Phật tử là người có lý tưởng
giác ngộ luôn luôn cố gắng tu hành theo 5 giới sau đây:
. 1-Không giết hại, nghĩa là tôn trọng sự sống
con người.
. 2 - Không trộm cướp, nghĩa là tôn trọng tài sản của kẻ khác.
. 3 - Không tà hạnh, nghĩa là tôn trọng hạnh phúc gia đình mình và gia đình
người.
. 4 - Không dối trá, nghĩa là tôn trọng sự thật.
. 5 - Không uống những thứ làm say loạn, nghĩa là giữ gìn tâm trí bình tĩnhvà
sáng suốt.
Năm điều tu học nầy không những có ý nghĩa
trong đời sống cá nhân, gia đình mà còn có ý nghĩa trong cuộc sống tập
thể và xã hội.
5. Cho biết vấn đề đức tin trong đạo Phật?
[ * đầu trang ]
- Niềm tin (saddhâ)
của Phật tử khác hẳn "Đức tin" của những người theo các tôn
giáo khác. Phật tử luôn luôn sáng suốt trong vấn đề chấp nhận và thực
hành Đạo Phật.
Phật tử kính thờ Phật với quan niệm Phật
là bậc giác ngộ hoàn toàn, đầy đủ từ bi, trí tuệ và hùng lực. Đối
với Phật tử, tượng Phật không phải là một ngẫu tượng (idole) mà là
biểu trưng lý tưởng giác ngộ, hình ảnh Chơn, Thiện, Mỹ. Sự kính lễ
tượng Phật của Phật tử khác xa hành động quỳ lụy, sợ sệt trước
những hình tượng của tín đồ đa thần giáo (polythéisme) hay nhất thần
giáo (monothéisme).
Phật tử quan niệm đạo lý của Phật là
"ngón tay chỉ mặt trăng"; người tìm đạo phải nương theo ngón
tay đạo lý để thấy được mặt trăng chân lý. Họ tìm hiểu chín chắn
và phán đoán phân minh những lời dạy của Phật trước khi chấp nhận và
áp dụng. Chính Phật khuyến khích họ điều đó. Chủ nghĩa tín điều
(dogmatisme) không có trong đạo Phật.
Đối với Tăng Ni, Phật tử không hề xem các vị
ấy là những người thay mặt Phật để tha tội hay ban phước. Họ kính
trọng các vị ấy vì xem các vị ấy như là gương mẫu đạo hạnh và là
người dìu dắt họ trên con đường Đạo.
6. Đức Phật là ai ?
[ * đầu trang ]
- Đức Phật (Buddha)
là danh từ chung chỉ các bậc giác ngộ hoàn toàn. Đức Phật mà chúng ta
kính thờ vốn là thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha),
con vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma
Gia (Mâyâ). Quê hương của Ngài là tiểu bang
thuộc dòng họ Thích Ca (Sâkya), về phía bắc
Ấn Độ mà kinh đô là Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu),
nằm trên bờ sông Rohini dưới chân Hy mã lạp sơn, là vùng Terai của nước
Nepal ngày nay.
Vua và hoàng hậu đều là những người đức độ,
song thường buồn lo vì không có con nối nghiệp. Nhân một ngày lễ lớn,
hoàng hậu Ma Gia trai giới trọn ngày và cùng vua phân phát tiền vật cho
dân nghèo. Đêm ấy, trong khi an giấc, hoàng hậu mộng thấy con voi trắng
sáu ngà, vòi ngậm cành sen trắng từ cao
đi xuống, tiến đến gần rồi chui vào bên mình phía tay phải của hoàng
hậu. Các nhà đoán mộng danh tiếng đoán rằng hoàng hậu sẽ sanh thái tử
xuất chúng. Hoàng gia rất đỗi vui mừng và hoàng hậu thụ thai từ đó.
Thời tiết đến, hoàng hậu theo tục lệ xin vua
trở về nhà cha mẹ để sinh. Khi đi ngang qua vườn Lâm tỳ ni (Lumbini), hoàng hậu dừng chân ngắm xem hoa lá, và
trong lúc đưa tay vịn một cành hoa thì hạ sanh thái tử. Hôm ấy là ngày
trăng tròn tháng Vesakha (tháng tư ta) cách đây hơn 2500 năm.
Tin mừng thái tử ra đời vang khắp bốn
phương. Đạo sĩ A-tư-đà (Asita) tìm đến hoàng
cung và vào thăm thái tử. Nhìn thấy những tướng tốt nơi thái tử, đạo
sĩ vô cùng mừng rỡ, nhưng sau đó lại buồn khóc. Vua rất lo ngại và gạn
hỏi nguyên do, thì đạo sĩ thưa:
"Tâu bệ hạ, thái tử là bậc xuất chúng:
nếu ở đời sẽ là minh vương (cakkavattin),
nếu tu hành sẽ thành Phật. Tôi mừng là vì một đấng giác ngộ đã ra
đời. Tôi buồn là vì đã già, tôi sẽ không còn sống cho tới ngày được
nghe lời giáo hóa của Ngài".
Hoàng hậu Ma Gia từ trần sau khi thái tử sanh ra
được bảy ngày. Em hoàng hậu, bà Ma - Ha - Ba -Xa 譠Ba 譠(mahâpajâpati)
Đề nuôi dưỡng thái tử. Thái tử rất thông minh tuấn tú: văn chương, võ
nghệ đều tinh thông hơn người. Nhưng thái tử thường tỏ vẻ không vui
với cuộc sống chung quanh.
7. Tại sao Thái tử xuất gia tu hành?
[ * đầu trang ]
Ngay lúc bẩy tuổi, một hôm thái tử được
đưa ra ngoài đồng để dự lễ khai mùa đầu xuân. Trời nắng, thái tử
ngồi dưới gốc cây để xem lễ. Ngoài ruộng, vua cha tay cầm tay cày nạm
ngọc, đi sau đôi bò mập mạnh. Lưỡi cày làm vung lên những tảng đất
mun. Những con trùng đứt khúc, ướm máu bày ra, đàn chim nhẩy bay theo luống
đất vừa cày, tranh nhau mổ ăn những con trùng đang quằn quại và tìm nơi
ẩn trốn. Qua cảnh tượng ấy, thái tử thấy rõ sự thật cay đắng về
cuộc đời và suy ngẫm sâu sắc về nó.
Dự lễ về, như không còn thiết với cảnh sống
hoa lệ của hoàng cung, thái tử trở nên trầm tư hơn trước. Vua cha nhớ
lại lời đoán của đạo sĩ A-Tư-Đà (Asita),
sợ thái tử sẽ xuất gia tu hành nên tìm mọi cách làm cho thái tử khuây
khỏa và vui say với cảnh sống vua chúa. Vua xây cho thái tử thêm ba cung
điện tráng lệ, thích hợp với ba mùa: hè, mưa và đông và cưới công
chúa Da-Du-Đà-La (Yasodharâ) cho thái tử lúc
16 tuổi.
Cung vàng, điện ngọc và tình yêu của vợ hiền
vẫn không làm vơi những băn khoăn và thắc mắc về cuộc đời nơi thái
tử. Để hiểu rõ cuộc sống của con người, thái tử xin phép vua cha dạo
chơi ngoài thành. Lần thứ nhất, thái tử rất ngạc nhiên khi thấy một
người già gầy còm, hổn hển, đi từng bước với cây gậy một cách
khó nhọc. Lần thứ hai, thái tử thấy người bệnh nằm rên la bên vệ
đường. Lần thứ ba, người chết đang được mang ra bãi tha ma để hỏa
táng. Ba cảnh tượng ấy làm ngài buồn hơn và suy nghĩ nhiều. Rất nhiều
lần thái tử hỏi các giáo sư về nguyên nhân khổ đau và phương pháp diệt
đau khổ.
Song những câu trả lời của họ đều đầy thần quyền và thiếu lý lẽ
về cuộc đời không thỏa mãn thái tử. Chính trong lần dạo chơi thứ
tư, khi thái tử gặp một vị tu hành với phong độ giải thoát, tự tại,
thái tử có ý định rời bỏ cuộc sống vua chúa để tìm chân lý.
Trong những ngày miên man với ý nghĩ ra đi, thì
thái tử được tin công chúa Da-Du-Đà-La sinh con trai: La Hầu La (Râhula). Tin này làm vững thêm ý chí của thái tử
vì từ nay đã có người nối nghiệp thì vua cha sẽ bớt buồn phiền. Lúc
này thái tử đã 29 tuổi. Khuya hôm ấy, sau buổi yến tiệc linh đình,
nhân
lúc quân hầu, thị nữ ngủ say, thái tử cùng với người hầu cận Xa-Nặc
(Chandaka) và ngựa Kiền trắc (Kanthaka) ra đi sau khi lặng lẽ từ biệt vợ con. Sáng
ra, khi đến bờ sông Anôma, thái tử xuống ngựa, đổi áo gấm lấy áo thường,
dùng gươm cắt tóc, rồi trao ngựa, đồ trang sức cho Xa-Nặc và bảo trở
về thưa với vua cha và công chúa về mục đích ra đi của ngài.
8. Đạo sĩ dòng Thích Ca tìm thầy học đạo và tu đạo như
thế nào ?
[ * đầu trang ]
Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha)
sau khi trở thành đạo sĩ dòng Thích Ca (Sâkyamuni)
đi lần đến thành Vương xá (Râjagaha) để
tìm thầy học đạo. Sakyamuni gặp được các bậc thầy có tiếng như Arâda
Kâlama và Udraka Ramaputra. Song các vị nầy không giải đáp được thắc mắc
của Sâkyamuni.
Sâkyamuni bèn đến Uruvela (gần Bồ đề Đạo tràng - Buddha-gaya)
và tu khổ hạnh ở nơi đó với hy vọng sẽ được giác ngộ. Sáu năm khổ
hạnh chỉ làm cho thân thể tiều tụy, và tinh thần suy kém, Sâkyamuni quyết
định từ bỏ lối tu ép xác thạnh hành nầy. Ngài nhận và dùng bát cơm
sữa của nàng Sujâta dâng
cúng. Năm người bạn đồng tu từ giã Sâkyamuni vì nghĩ rằng Sâkyamuni đã
bị Ma vương cám dỗ. Trong khi đó Sâkyamuni đi đến sông Ni liên thuyền (Neranjarâ). Tắm rửa song, Ngài hỏi xin người cắt cỏ
một bó cỏ đủ làm đệm ngồi và đến thiền định dưới gốc cây Tất
bát la (Pipal, bây giờ gọi là
Bodhi) với lời nguyền: "Dù cho xương khô,
máu cạn, nếu không đạt Đạo ta thề không rời khỏi nơi nầy". Như
nguyện, Sâkyamuni tập trung tất cả tâm lực đoạn trừ phiền não và
phát triển trí tuệ. Vào đêm trăng tròn sáng tháng vesakha (tháng tư ta),
đoán biết Sâkyamuni sắp đắc đạo, Ma vương (Mâra) sai thủ hạ đến quấy
phá, dụ dỗ. Song tất cả mưu mô quỷ quyệt của Ma vương không thắng
được Sâkyamuni. Sau khi hàng phục Ma vương, hiện thân của tham lam, giận
dữ, si mê, Sâkyamuni tiếp tục vận động sức mạnh của tâm trí để thể
nhập chân lý. Đầu đêm tâm trí bừng sáng, Sâkyamuni chứng được túc mạng
minh - biết rõ dòng sanh mạng biến chuyển từ đời nầy qua kiếp khác của
tất cả chúng sanh; nửa đêm, chứng được thiên nhãn minh - biết rõ quá
trình sanh thành và hoại diệt của sự vật qua qui luật nhơn quả - đạo
lý Duyên khởi; gần sáng, khi sao mai vừa mọc chứng được lậu tận minh
- phiền não, nguyên nhân của sống chết lưu chuyển hết sạch (Dn, III,
28). Bấy giờ Sâkyamuni, lúc 35 tuổi, thành một bậc giác ngộ hoàn toàn (Buddha); đương thời gọi là Phật Gotama hay Phật
Sâkyamuni.
9.Đắc đạo rồi đức Phật có giáo hóa chúng sanh không ?
[ * đầu trang ]
- Sau khi giác ngộ, với lòng từ bi và sự minh
xác rằng con người có thể hướng thiện và hướng thượng, Phật đi bộ
sang Sarnath (Bénarès) để giáo hóa cho năm
người bạn cùng tu khổ hạnh ngày trước. Phật giảng cho họ biết rằng
muốn thấy được chân lý, phải xa lìa hai cách sống thái quá: đắm say vật
dục
và hủy hoại thân thể, sáng suốt nhận rõ và thực hiện bốn chân lý
cao thượng: sự khổ (dukkha), Nhân của khổ
(samudaya), sự tiêu diệt của khổ (nirodha) và con đường đưa đến khổ diệt (magga).
Buổi giảng thứ hai, Phật bác bỏ quan niệm sai lầm về linh hồn bất tử
hay bản ngã thường còn làm chủ thể của sự sống và nói rõ con người
là một tổng hợp liên tục của vật chất (rupa)
và tinh thần (nâma); do đó, con người xấu
ác si mê có thể trở thành tốt lành, giác ngộ.
Nhờ sự hướng dẫn sáng suốt của Phật mà tăng
đoàn (sangha) càng ngày càng đông: Khi tăng
đoàn đã đông, Phật khuyến khích mỗi người đi mỗi ngả để truyền bá
đạo lý. Cùng với tăng đoàn, Phật cũng đi khắp lưu vực sông Hằng
giáo hóa cho mọi người, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo. Những ai có
khả năng xuất gia tu hành và dìu dắt kẻ khác đều được thâu nhận
vào tăng đoàn. Những người muốn hướng thiện song còn bận bịu với
gia đình và xã hội đều được chấp nhận làm Phật tử tại gia. Phật
phá bỏ những tín ngưỡng thần linh vu vơ, chỉ rõ sai lầm trong cách nhận
định chân lý, cải tạo những tập
tục xấu hại như giết hại súc vật để cúng tế, cầu đảo. Phật
cũng mạnh dạn chống đối chế độ giai cấp lạ kỳ bất công có nguồn
gốc từ kinh điển Bàlamôn. Suốt 45 năm, từ làng này qua làng khác, Phật
tận lực khai sáng cho con người thấy rõ sự thật của cuộc đời và
làm cho con người nhận thấy khả năng quý báu nơi chính mình để họ dành
lại quyền tạo hóa và hướng về nẻo giác ngộ cao đệp.
Trên đường giáo hóa, vào đêm rằm tháng Vesak,
Phật dừng nghỉ tại rừng Câu thi na (Kusinarâ),
làng Kasia. Sau khi khuyên dạy đệ tử lần cuối cùng: "Vạn vật giả
hợp đều hoại diệt, phải tinh tấn để thực hiện lý tưởng", Phật
an nhiên viên tịch (parinirvâna) vào năm 80 tuổi.
10. Phải chăng đức Phật là một vị trời ?
[ * đầu trang ]
- Không! Đức Phật không phải là thần linh hay
sứ giả của thần linh. Ngài là một người thức tỉnh (Bồ tát) đã tu
hành trong nhiều kiếp và đến đời cuối cùng, với thân người, Ngài đạt
đến quả vị giác ngộ hoàn toàn. Có thể nói Ngài là một người nhưng
không phải là người thường mà là một "siêu nhân":
người thông đạt chân lý (Như lai, Tathâgata), Phật là một bậc thầy:
"Các
người hãy tự mình cố gắng,
Như Lai chỉ là người chỉ đường"
(Pháp cú, 276)
Lời dạy của Phật là ánh sáng, là tình thương
rất cần cho chúng ta, những kẻ đang sống trong bóng tối và hận thù.
Không có gì quý báu hơn sự ra đời của Phật vì muôn nghìn năm mới có
một lần.
11. Làm sao biết được đức Phật là bậc giác ngộ giải
thoát hoàn toàn?
[ * đầu trang ]
- Qua đạo phong cao đệp, lời dạy như thật của
Phật được ghi chép trong kinh điển, chúng ta biết rõ ngài là bậc giác
ngộ hoàn toàn. Hành động và lời nói của Phật đượm màu từ, bi, hỷ,
xả. Đạo lý của Phật phản ảnh được sự thật nơi con người và vũ
trụ. Nếu so sánh Phật với người thường và với các vị giáo
chủ, triết gia khác, chúng ta thấy rõ sự giác ngộ hoàn toàn nơi Phật. Có
thể xem Phật là đóa sen trắng:
"Như
hoa sen tinh khiết, đáng nhìn,
Sinh từ bùn mà không dính bùn,
Ta không bị ô nhiễm vì cuộc đời,
Vì thế, này Bà la môn, ta là Phật".
(An,II,39).
12 Cho biết sơ qua về kinh điển căn bản
của Đạo Phật ?
[ * đầu trang ]
- Sau khi Phật viên tịch, tất cả lời dạy của
Ngài lần lượt được ghi chép thành Kinh, Luật bằng chữ Pâli, hoặc
Sanscrit v.v... Về sau, các bộ phái nhân giải thích Kinh, Luật mà tạo
thành Luận.
Ba tạng Kinh, Luật, Luận được dịch ra chữ
Trung Hoa, Tây Tạng và gần đây thì chữ Nhật Bản, Việt Nam, Anh, Đức,
Pháp... (trừ bản tiếng Anh, các bản dịch Đức, Pháp, chưa được hoàn
thành).
Chúng ta có thể tìm thấy Kinh Luật căn bản
trong hai tạng Kinh Luật Pâli và Trung Hoa. Phần đông học giả Tây phương
thường đọc và nghiên cứu kinh luật bằng chữ Pâli hay bản dịch tiếng
Anh hơn là bản dịch chữ Trung Hoa.
Sau đây, xin kể sơ qua số lượng Kinh, Luật
căn bản bằng chữ Pâli :
1. Tạng luật có 5 quyển.
2. Tạng kinh có 5 bộ gồm 31 quyển.
Ngoài những bộ Kinh Luật căn bản này, còn rất
nhiều bộ Luật và Kinh Luật phát triển được viết về sau mà số lượng
không thể kể hết được. Riêng về lời dạy của Phật còn được ghi
chép và giữ gìn cho đến nay thì có độ 11 lần hơn Thánh kinh (Bible) của
Thiên Chúa giáo.
13. Cốt lõi của đạo Phật là gì ?
[ * đầu trang ]
- Cốt tủy của Đạo Phật là đạo lý Duyên khởi
(paticcasamuppada). Đạo lý này nói rõ sự tương
quan tương duyên của tất cả hiện tượng vật lý và tâm lý. Sự hiện hữu
của thế giới chỉ là tương quan đồng thời của nhận thức chủ quan và
đối tượng khách quan. Sự vật ngoài ta và trong ta vốn sinh diệt biến
chuyển theo quy luật nhân quả mà không hề tiêu diệt hoàn toàn : ấy là tương
quan khác thời.
Nói cách khác, sự vật vốn là vô ngã (insubstanciel), nghĩa là không có "bản thể độc
lập" (substanceindépendante), mà là tổng hợp
của nhiều điều kiện và "vô thường" (impermanent)
nghĩa là luôn luôn thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Bài kệ sau đây tóm tắt ý nghĩa đạo lý Duyên
khởi :
"
Cái này có thì cái kia có
Cái này sanh thì cái kia sanh
Cái này không thì cái kia không
Cái này diệt thì cái kia diệt ".
Đạo lý Duyên khởi chống phá ba lý thuyết sai
lệch sau đây :
1. Túc mạng luận : tất cả đều do hành động
đời trước (Định mệnh luận)
2. Thần ý luận : tất cả do thần linh sáng tạo và cai quản.
3. Ngẫu nhiên luận : sự vật có ra là tình cờ hay may rủi mà không do
nhân
duyên.
Dựa trên đạo lý Duyên khởi, Phật trình bày sự
thật về con người và vũ trụ một cách như thật. Nếu nhìn sự vật đúng
theo đạo lý Duyên khởi thì chúng ta sẽ thấy rõ sự thật mà không bị
sai lầm theo ba lý thuyết trên.
14. Giải thích thêm về đạo lý Vô ngã, Vô thường.
[ * đầu trang ]
a) Vô ngã
(anattâ) . Ảo tưởng về sự thay đổi nơi sự
vật gây ra ảo tuởng về bản chất thường còn nơi sự vật hay linh hồn
bất tử nơi con người. Trong thật tế, sự vật và con người liên tục
biến chuyển từ trạng thái này qua trạng thái khác chứ không hề có sự
thay đổi hình thể bên ngoài mà bản chất hay linh hồn vẫn tồn tại.
Không có bản chất của một cái bàn, ngoài cái
bàn ; cũng như không có linh hồn ngoài sự sống con người. Cái bàn là một
tổng hợp của gỗ, đinh, sơn, nhân công... Người là tổng hợp của sắc,
thọ, tưởng, hành và thức.
Không hề có bản chất độc lập thường còn của
cái bàn hay linh hồn bất tử của con người. Chính tánh cách liên tục của
hành động có cố ý (karma) của con người làm cho con người hiện hữu (sẽ
giải rõ hơn ở phần tái sanh).
Bảo rằng có bản chất thường còn nơi sự vật
hay linh hồn bất tử nơi con người là quan niệm sai lầm gây ra bởi sự
quan sát cẩu thả hay sự mê chấp theo tín điều. Hiểu đạo lý Vô ngã tức
là giác ngộ sự thật qua chiều ngang của sự vật (không gian).
b) Vô thường (anicca).
Vũ trụ là một thác nước chẩy xiết chứ không phải là vũng nước đọng.
Sự vật sinh diệt, diệt sinh không ngừng như những ngọn sóng nhô lên hạ
xuống trên mặt biển. Người cũng vậy, sống chết từng ngày từng phút.
Tuy vô thường song sự vật và con người không hề bị tiêu diệt mà biến
đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác và không có sự cách biệt
quá rõ ràng giữa những trạng thái khác nhau trong dòng liên tục. Nói cách
khác, sự vật và con người không hề "là" mà luôn luôn "trở
nên". Không những không thể có "một con suối" để chúng ta
có thể tắm hai lần, mà cũng không có "một con người" để có
thể tắm hai lần trên một dòng suối.
Quan niệm về bản chất của thời gian qua những
ý niệm trước hay sau về một sự vật đồng nhất là một quan niệm rất
quen thuộc nhưng cũng rất sai lầm. Hiểu đạo lý vô thường tức là giác
ngộ sự thật qua chiều dọc của sự vật (thời gian).
15. Với ánh sáng đạo lý Duyên khởi, đức Phật nhìn cuộc đời
như thế nào?
[ * đầu trang ]
- Đối với cuộc đời, Phật chủ
trương cuộc sống của loài người vốn không hoàn toàn và có nhiều khổ
đau, nhất là không chắc thật và thường thay đổi, và do đó cần phải
thay đổi cuộc sống đau khổ thành cuộc sống an lành. Phật có nói:
"Ta chỉ dạy một điều: Khổ và Khổ diệt". Thái độ ấy được
diễn tả qua bốn chân lý cao đệp sau đây:
A. Khổ (dukkha)
a. Đau khổ thông thường như khổ vì sinh, già,
bịnh, chết; khổ vì sống với oán thù, vì xa lìa người thân yêu, vì
không thỏa mãn những điều mong muốn.
b. Đau khổ do lầm tưởng cuộc đời là thường
còn, trong khi cuộc đời là biến chuyển.
c. Đau khổ do lầm tưởng cuộc đời là chắc
thật, trong khi cuộc đời là giả hợp.
Nghĩa thứ nhất của chữ Khổ (dukkha) rất dễ hiểu. Song phải hiểu nó trong những
thể hiện cụ thể nơi con người và trong cuộc sống qua nhiều khía cạnh
khác nhau.
Hai nghĩa sau mang nhiều tính chất
triết lý, song cũng có thể tìm thấy nơi đời sống hàng ngày... Cuộc đời
là khổ, bởi vì cuộc đời vốn là vô ngã, vô thường, nhất là vì con
người với vô minh, luôn luôn hiểu lầm rằng cuộc đời là thật có và
thường còn cho nên bằng mọi cách cố thỏa mãn tánh tham lam và lòng hờn
giận của mình; do đó gây thêm phiền não cho mình và cho người. Ví dụ,
khi thấy nguời thân từ trần, chúng ta quá buồn phiền đến nỗi mất trí.
Sự buồn phiền này, một phần lớn do lầm tưởng rằng người thân ấy
là cái gì chắc thật và không bao giờ chết. Nỗi khổ của chúng sanh
không những là nhiều mà còn kéo dài từ đời này qua kiếp khác.
B. Nhân khổ
(samudaya).
Đau khổ của loài người không do định mệnh
hoặc thần linh, hoặc rủi may, mà do chính con người hay chúng sinh gây ra với
tất cả hành động thúc đẩy bởi ái dục (tanhâ).
Có ba thứ ái dục:
a. Ái dục thỏa mãn dục lạc.
b. Ái dục mở rộng cái ta.
c. Ái dục phá hoại điều mình không thích.
Ái dục do vô minh (không sáng suốt) thúc đẩy.
Vô minh và Ái dục là nguyên nhân chủ yếu của đau khổ. Không nên hiểu
Ái dục một cách trừu tượng mà phải hiểu qua sự thể hiện của nó
trong mọi sinh hoạt của con người hay chúng sinh trong phạm vi chính trị,
kinh tế, xã hội... và ngay cả trong phạm vi tôn giáo. Ví dụ, Ái dục có
thể thể hiện trong chính trị độc tài, áp bức, trong kinh tế bóc lột,
trong xã hội thối nát. Trong nhiều trường hợp, nên tìm hiểu Ái dục
phát xuất từ người nào hay tập thể nào để tránh lầm lẫn người phát
sinh Ái dục và nạn nhân của Ái dục.
Sự thể hiện của Ái dục qua hành động gọi
là Nghiệp (Karma). Vì hầu hết hành động của
loài người đều do Vô minh và Ái dục thúc đẩy, nhưng chỉ những hành
động có cố ý (cetanà) của thân, miệng, ý
mới trở thành sức mạnh sáng tạo cuộc sống riêng (biệt nghiệp) và
chung của con người (cộng nghiệp). Chúng ta gặt hái những gì chúng ta đã
gieo trồng. Hành động lành ích cho chúng ta những kết quả tốt đệp. Hành
động xấu hại khiến chúng ta chịu lấy kết quả khổ đau. Luật nhân quả
tự nó đã có sự "thưởng phạt", vì thế không cần thêm một đấng
thiêng liêng nào khác để thưởng phạt nữa. Luật nhân quả diễn biến
liên tục trong thời gian: quá khứ, hiện tại, tương lai mà không bị giới
hạn trong hiện tại. Do dó, có những quả báo đến ngay sau khi gây nhân,
và cũng có những quả báo sẽ đến sau một thời gian, dài hay ngắn, tùy
theo nghiệp nhân mạnh hay yếu.
Đạo Phật cũng không hề nói đến "lương
tâm" do trời phú cho, vì lương tâm chỉ là một tâm thái do kinh nghiệm
về điều lành trong quá khứ mà có. Vì thế có những người không có hoặc
mất cả lương tâm.
Có hai thứ nghiệp có ảnh hưởng đến đời sống
của con người: Biệt nghiệp (hành động cá nhân) và Cộng nghiệp (hành
động của tập thể). Biệt nghiệp ảnh hưởng nhiều đến đời sống cá
nhân. Cộng nghiệp ảnh hưởng nhiều đến đời sống gia đình và xã hội.
Tuy nhiên kết quả của cộng nghiệp và biệt nghiệp không hề tách rời
nhau. Cá nhân thiếu sáng suốt, không tự chủ, yếu hèn thì sẽ bị cộng
nghiệp chi phối. Trường hợp biệt nghiệp chi phối tập tể, gia đình và
nhất là xã hội có thể có nhưng rất hiếm. Do đó muốn cải tạo cuộc
sống cá nhân hay cộng đồng xã hội thì không những chỉ cải tạo biệt
nghiệp mà còn phải cải tạo cộng nghiệp.
Tu dưỡng nhĩa là chuyển nghiệp,
theo nghĩa hệp là cải tạo cá nhân bằn cách thay đổi biệt nghiệp, theo
nghĩa rộng là cải tạo gia đình và xã hội bằng cách đổi cộng nghiệp.
Tu dưỡng còn có nghĩa là thay đổi cuộc sống si mê ràng buộc thành cuộc
sống giác ngộ giải thoát, thay đổi cuộc sống khổ đau thành cuộc sống
an lành cho hiện tại và tương lai. Tin tưởng nghiệp như là sức mạnh tiền
định, không thể chuyển đổi: "Kiếp xưa đã vụng
đường tu, kiếp này quyết phải đền bù mới xong" là tin tưởng
của ngoại đạo có chủ trương Túc mạng luận mà không phải là nhận thức
đúng đắn theo đạo lý Duyên khởi và Nghiệp của đạo Phật.
C. Khổ diệt
(Nirodha).
Sự tiêu diệt của khổ đau hay là an lành khi
nguyên nhân đau khổ (Vô minh và Ái dục) bị tiêu diệt. Sự an lành có thể
thực hiện ngay ở đây và bây giờ. Sự tiêu diệt của khổ đau cũng gọi
là Niết bàn (Nirvâna).
Niết bàn là mục đích của Phật tử. Ước
mong cao nhất của Phật tử là thực hiện Niết Bàn, vì "Niết Bàn là
sự an lành tuyệt đối". Muốn biết rõ nước mát, lạnh thế nào phải
tự uống nước. Cũng vậy, muốn biết Niết bàn an lành như thế nào,
cách tốt nhất là phải tu dưỡng và thực hiện Niết bàn. Tất cả sự
diễn tả về Niết bàn của Phật hay của người khác chỉ là những khái
niệm hết sức trừu tượng về Niết bàn đối với chúng ta. Tham lam, giận
hờn, si mê là sức mạnh gây ra đau khổ. Nếu ba căn này bị tiêu diệt
thì khổ đau không còn và an lành thể hiện. Ngài Buddhaghosa trong
Visuddhimagga có kể một câu chuyện để chứng minh rằng Niết bàn không phải
là "hư vô diệt tịch":
"Có một làng nọ, từ lâu bị bọn cướp
quấy phá. Dân làng điêu đứng khổ sở. Một hôm, làng được quân lính
nhà vua về lùng bắt và giết sạch bọn cướp. Từ đó dân làng được yên
ổn làm ăn". Ý nghĩa của ví dụ là tham, sân, si bị tiêu diệt thì
con người được an lành chứ không có nghĩa là sự sống của con người
cũng bị tiêu diệt.
Hơn nữa, Niết bàn có hai mức độ: Niết bàn
toàn phần nơi các bậc giác ngộ hoàn toàn và Niết bàn từng phần nơi những
người đang tu dưỡng. Từ Niết bàn từng phần đến Niết bàn toàn phần
có bốn phẩm vị gọi là bốn quả:
1. Dự lưu (vào dòng): tức là người trừ được
sự chấp có ta, nghi ngờ, mê tín lễ nghi và giới điều.
2. Nhất lai (sanh lại một lần): tức là người trừ bớt được một phần
của tham dục và tàn bạo.
3. Bất lai (không sanh lại): tức là người trừ hết năm điều trên.
4. A la hán (vô sanh): tức là người trừ thêm năm điều nữa: tham muốn
sanh cõi sắc, tham muốn sanh cõi vô sắc, kiêu ngạo, loạn động và vô
minh.
Niết bàn trong đời sống hiện tại gọi là Niết
bàn còn dư thừa và sau khi thân này chết đi gọi là Niết bàn không dư thừa
hay là Niết bàn trọn vẹn (parinirânâ).
Những điều trình bày trên cho
chúng ta thấy Niết bàn là an lành mà trong ngay đời này chúng ta có thể
thực hiện và an hưởng chứ không phải chỉ là những gì cho đời sau.
D. Con đường
đưa đến khổ diệt (magga).
Con đường đưa đến khổ diệt là sự tu dưỡng
theo giới (sila): những qui tắc sống khôn
ngoan và cao đẹp, định (samâdhi): những phương
pháp tập trung và huấn luyện tâm trí và Tuệ (pannâ):
những cách thức khai sáng trí tuệ để nhìn sự vật đúng như thật.
Ba điều học này được giải rộng trong con
đường chánh gồm tám nẻo (bát chánh đạo):
1. Chánh kiến: hiểu biết đúng đắn sự thật
của cuộc đời, nhất là hiểu rõ bốn chân lý theo hai hệ thống đau khổ
và an lành.
2. Chánh tư duy: suy nghĩ những điều cao đẹp cởi mở, từ thiện và thân
hữu.
3. Chánh ngữ: lời nói chân thật, hòa ái.
4. Chánh nghiệp: làm những việc lành ích cho mình và cho người.
5. Chánh mạng: nuôi sống thân mạng với nghề nghiệp lương thiện.
6. Chánh tinh tấn: siêng năng trong chiều hướng tiến bộ, tu dưỡng bản
thân và phục vụ chúng sanh.
7. Chánh niệm: ý thức và kiểm soát động tác của thân, miệng, ý, nhớ
rõ các pháp lành.
8. Chánh định: tĩnh tâm, cải tạo tư tưởng và trau dồi trí tuệ.
Ý nghĩa của con đường chính gồm tám nẻo có
thể tóm tắt trong bài kệ sau đây:
"Không
làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy"
(Pháp cú, 183)
16. Tội ác phát
sinh từ đâu và làm sao diệt trừ ?
[ * đầu trang ]
- Tội ác phát sinh từ sự tham muốn thỏa mãn
"cái ta". Sâu xa hơn, nguồn gốc của tội ác là sự tưởng lầm rằng
mình có một "cái ta chắc thật và thường còn". Đạo lý căn bản
của Phật cho chúng ta thấy rõ rằng con người vốn là vô ngã, vô thường.
Nếu phân tách và hiểu rõ không có cái ta chắc thật thường còn ở trong
cái thân giả hợp bởi tinh thần và vật chất, chúng ta không còn hành động
vì "cái ta", và sẽ sống đời tự tại, hòa hợp và lợi tha. Khi
nào nhận rõ và tu theo đạo lý vô ngã thì chúng ta mới tiêu diệt được
tội ác. Ngoài ra, nghi lễ, phong tục đều là những phương tiện tốt song
không phải chủ yếu để trừ diệt tội ác.
17. Thế nào là luân hồi?
[ * đầu trang ]
- Luân hồi (samsàra)
là sự sống chết nối tiếp nơi một chúng sanh. Như chúng ta biết, dòng
nhân quả diễn biến một cách tương tục mà không bị hạn cuộc trong đời
sống hiện tại. Do đó khi nào còn tham sống và gây nghiệp (karma) thì lúc đó chúng ta sau khi chết vẫn còn sinh
trở lại và nhận lấy quả báo.
Nói cách khác, sau khi thân xác nầy ngừng hoạt động, dòng sống vẫn còn
tiếp diễn, mặc dù hình thái của sự sống ở giai đoạn sau không phải
là hình thái của sự sống ở giai đoạn trước. Cần lưu ý, dòng sống
này luôn luôn chuyển biến chứ không phải là có một linh hồn bất tử
(âme éternelle) đi từ đời này qua đời khác như một lữ khách đi từ quán
trọ này đến quán trọ kia.
- Sự tái sinh (renaissance) theo đạo Phật, không
có nghĩa là sự nhập xác (réincarnation) hay là sự nhất định sinh trở lại
thế giới loài người nầy với "cái linh hồn xưa cũ không thay đổi".
Do nghiệp lực ác hay lành (sức mạnh của hành động có cố ý) mà sau khi
xác thân nầy chết, một hình thái sống khác hoặc cao hơn loài người
như các loài trời (deva) hoặc thấp hơn loài
người như cầm thú, ma quỉ và các loài cực khổ sẽ hiện thành. Như vậy
dòng suối cứ tiếp diễn trong trạng thái đổi thay như dòng nước chảy
xiết. Chúng sinh sau thừa hưởng gia tài tốt hay xấu của chúng sinh trước.
Hai hình thái sống của hai giai đoạn thời gian và hai hoàn cảnh
"không giống nhau nhưng cũng không khác nhau" (na ca so na ca anno).
Không có vấn đề con người trở thành trời hoặc
thú, mà chính hành động của thân, miệng, ý (nghiệp) mang tính chất trời
hay thú làm cho chúng sinh trở nên trời hay thú. Không những trong tương lai
mà ngay cả hiện tại, chúng ta có thể trở thành thể này hay thể khác
tùy theo hành động (nghiệp) của chúng ta.
Đạo lý luân hồi là câu trả lời cho câu hỏi
"sau khi chết còn hay mất" hợp lý nhất, so với câu trả lời
"sau khi chết, người ta sẽ sinh vào thiên đàng hay hỏa ngục và sống
ở đó đời đời kiếp kiếp" và câu trả lời "không còn gìnữa
sau khi chết".
Không có nghiệp thì không tái sanh như trường hợp
các vị A-la-hán và Phật. Phật và A-la-hán là các bậc giải thoát: không
có những hành động vì "cái ta", không tạo nhận sống chết cho
nên không còn sống chết. Giải thoát luân hồi là điều rất khó. Cho nên
đối với chúng sinh chưa đủ sức giải thoát,
Phật dạy cho họ những phương pháp tu dưỡng để khỏi sa đọa vào những
cảnh giới xấu, khổ như súc sinh, ngạ quỉ và loài cực khổ và để
sanh vào thế giới an lành như cảnh giới các loài trời hay ít nhất là để
được sanh lại trong thế giới loài người, những nơi mà điều kiện
sinh sống tương đối an vui và có thể giúp họ tiếp tục tiến bộ trên
đường giác ngộ.
18. Tại sao Phật tử không tin "Thượng đế"?
[ * đầu trang ]
- Phật tử là người muốn được giác ngộ như
Phật, người đi tìm chân lý mà không phải là một tín đồ của một
"thần giáo". Nhờ kinh nghiệm giác ngộ của Phật, phật tử hiểu
rằng vũ trụ là sự sống vô cùng vô tận và sự sống ấy là một. Do đó
vũ trụ là một. Như thế không thể có một ai hay vật gì ở ngoài sự
sống để sáng tạo và cai quản sự sống. Giả thiết có một đấng Thượng
đế ở "ngoài" vũ trụ thì Ngài không thể nào tạo ra cuộc sống
ở "trong" vũ trụ được, bởi vì không có sự liên quan gì giữa
Ngài với sự sống trong vũ trụ cả. Vũ trụ là một dòng hiện tượng, tổng
hợp của những liên hệ chủ quan và khách quan (Duyên khởi), không chắc
thật (vô ngã) và luôn luôn biến chuyển theo luật nhân quả (vô thường),
không đầu không đuôi (vô thỉ vô chung) mà không cần một thần linh nào
sáng tạo và sắp đặt.
Phật tử không tin Thượng đế bởi vì nếu chấp
nhận sự sống và cuộc sống do Thượng đế sáng tạo và cai quản, thì
vô tình chính họ để mất tự do và khả năng sáng tạo của mình và chứng
tỏ rằng họ bất lực trong việc xây dựng và cải tạo cuộc sống cá
nhân và xã hội. Vì thế Phật tử chân chính là người
không mê tín và ỷ lại vào thần linh, không "giao phó" số phận của
mình cho thần linh và cũng không cầu xin sự "khoan dung" của thần
linh.
19. Như vậy làm sao giải thích được nguồn gốc của con người
và vũ trụ?
[ * đầu trang ]
- Phần đông các tôn giáo đều giống nhau ở
điểm giải thích về nguồn gốc của sự vật: chúa Allah, chúa Jéhova,
Brahman, hoặc nhiều đấng thần linh khác.
Trong khi đó, đức Phật im lặng trước câu hỏi
về nguyên nhân của vũ trụ vàcủa những câu hỏi siêu hình vô ích. Phật
giải thích rằng sự vật có ra và tồn tại trong nguyên lý Duyên khởi,
nghĩa là sự vật tương quan tương duyên với nhau mà có ra chứ không do ai
sinh cả. Nguyên nhân đầu tiên của một hữu
tình đã không tìm thấy được thì nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ lại
càng không thể tìm thấy được. Bởi vì theo Phật, thời gian mà theo đó
một hữu tình lưu chuyển thật là vô thỉ vô chung, không gian mà trong đó
sự vật thành hoại thật là vô cùng vô tận. Hơn nữa, đạo Phật là đạo
lý soi sáng cho con người thấy sự khổ đau, sự khuyết điểm, sự không
vừa ý (dukkha) trong cuộc đời và chỉ bày cho con người những phương pháp
tu dưỡng, cải tạo để thực hiện an lành (nirvâna) ngay "ở đây"
và "bây giờ", nghĩa là trong cuộc sống nầy, Phật tử xem những
sự bàn luận siêu hình là vô ích, có thể làm cho tâm trí con người ta rối
loạn.
Để nói rõ phần chủ động trong sự sống thì
đạo Phật cho biết rằng chính con người đã và đang không ngừng tạo ra
sự sống riêng và chung, không kể lúc ngủ say, ngay lúc vừa thức dậy
thì giác quan chúng ta liên tục sáng tạo cuộc sống gồm: hình thể, màu sắc,
âm thanh, mùi vị, xúc chạm... Chính loài người đã xây dựng và có thể
thay đổi cuộc sống theo ý muốn.
20. Theo đạo Phật thì những con người có mặt đầu tiên ở
trên trái đất này là ai và ra sao?
[ * đầu trang ]
- Trong vũ trụ bao la, không chỉ có trái đất nầy
mà còn có hằng hà sa số thế giới khác trong đó có nhiều thế giới có
các loài hữu tình khác nhau về thân hình cũng như tâm thức sinh sống.
Theo kinh Khởi thế nhân bổn (Aggannasutta), Dn, III, 80-98 (xem bản dịch của HT Thích
Minh Châu), khi trái đất nầy mới hình thành thì có một số hữu tình
(êtres vivants) từ cõi Quang âm (Àbhassara) đến
sống. Họ xuất hiện trên trái đất nầy với thân hình tỏa ánh sáng,
tâm thức đầy niềm vui, phi hành tự tại trong hư không. Họ sống như vậy
trong một thời gian rất lâu. Về sau vì tham ăn vị đất, nấm, cây, trái
mà thân hình mất đi ánh sáng, trở nên thô cứng không thể phi hành trong
hư không, và phân thành nam nữ... Và từ đó về sau do dục tính nên mới
có những người sinh ra từ bào thai.
Theo truyền thuyết do chính Phật kể nầy thì
loài người vốn đã là những hữu tình từ một thế giới khác đến và
sống ở trái đất nầy, và do sự chuyển hóa lần lần của thân hình và
tâm thức mà trở thành loài người hôm nay... Truyền thuyết nầy phù hợp
với vũ trụ quan cũng như nhân sinh quan, nhất là với đạo
lý Nghiệp (Karma) tạo tác luận của Phật
giáo.
21. Không đề cập đến Thượng đế nhưng đạo Phật có nói
đến bản thể vũ trụ không?
[ * đầu trang ]
- Tuy không nói đến Thượng đế có tính người
(nhân cách hóa) nhưng Phật có nói đến bản thể tuyệt đối (Tathatâ) không sinh, không diệt (xem Udanâ III.3) là mặt
khác của hiện tượng (laksana) sinh diệt. Nhờ
có bản thể này mà con người mới có thể giải thoát khổ đau và chứng
đạt an lạc. Bản thể tuyệt đối nầy, được các luận sư sau Phật gọi
bằng nhiều tên như: Pháp tánh, Chơn như, Thật tánh v.v... Nó nằm ngay nơi
hiện tượng, nhưng chỉ có những người giác ngộ mới nhận ra được.
Thấu triệt bản thể tuyệt đối nầy cũng gọi là Niết bàn hay chân lý
siêu thế tức là đạt được giác ngộ (Bodhi).
Sống đúng theo điều giác ngộ tức là giải thoát (Nirvâna).
Bản thể nầy vốn là vô ngã tức là không. Do đó, mọi sự diễn tả bằng
ngôn ngữ phát xuất từ ý niệm đều không phù hợp. Vì thế trong kinh điển,
Phật nói rất ít về vấn đề nầy.
22. Xin cho biết chữ Trời trong Kinh điển đạo Phật và quan niệm
Thượng đếkhác nhau như thế nào?
[ * đầu trang ]
- Thừa nhận vũ trụ luận đương thời ở Ấn
độ, kinh điển đạo Phật có nói đến các cõi trời và nhiều loại hữu
tình cao hơn loài người (trời). Thường thường thì một tiểu vũ trụ
được chia làm ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, trong đó có 5
loài hữu tình: trời, người, thú, quỷ và loài cực khổ. Như vậy trời
chỉ là một loài hữu tình gồm nhiều loại khác nhau như sáu loại của
cõi dục, mười sáu hoặc mười bảy loại thuộc cõi sắc và bốn loại
thuộc cõi vô sắc.
Từ loài người, nếu tu tập mười điều thiện
sau đây:
hành động nơi thân
1 - không sát sanh
2 - không trộm cướp
3 - không tà hạnh (hành động
nơi thân)
lời nói nơi miệng
4 - không nói dối
5 - không nói thêu dệt
6 - không nói hai lưỡi
7 - không nói thô ác (lời
nói nơi miệng)
ý nghĩ nơi tâm
8 - không tham lam
9 - không tàn bạo
10 - không hiểu biết sai (ý
nghĩ nơi tâm)
thì được sanh vào một trong sáu loài trời thuộc
cõi dục. Nếu tu tập thiền quán (chưa phải là phép thiền giải thoát) như
bốn phép thiền (jhâna): sơ thiền, đệ nhị
thiền, đệ tam thiền và đệ tứ thiền thì được sinh vào các loài trời
thuộc cõi sắc. Nếu tu tập theo phép định (sammâpatti)
như không-vô-biên-xứ-định, thức vô-biên-xứ-định, vô-sở-hữu-xứ-định
và phi-phi-tưởng-xứ-định thì được sinh vào các loài trời thuộc cõi
vô sắc.
Các loài trời tuy có thân hình đẹp đẽ, hạnh
phúc và sống lâu hơn loài người, hoặc tiến hóa hơn về phương diện tâm
linh nhưng vẫn còn trong vòng sống chết, thay đổi. Trong các cõi trời thấp,
có các vị trời lãnh tụ song không phải là đấng sáng tạo.
Như vậy chữ trời, trong kinh điển đạo Phật,
không hề có nghĩa Thượng đế như trong kinh điển của các thần giáo.
23. Vậy thì đạo Phật chủ trương "hữu thần" hay
"vô thần"?
[ * đầu trang ]
- Khó mà trả lời đạo Phật là hữu thần hay
vô thần. Trên kia có nói đạo Phật là một "tôn giáo không thờ thượng
đế" là để cho người mới biết đạo Phật nhận ra rằng đạo Phật
không phải là một thần giáo như các thần giáo khác. Nhưng vì danh từ
"hữu thần" hay "vô thần" ngày nay không được hiểu biết
một
cách nghiêm chỉnh, cho nên có thể nói rằng đạo Phật không chủ trương
có một đấng "thần linh hữu thể" toàn năng, toàn trí, sáng tạo
và cai quản con người và muôn vật. Tuy nhiên, Đức Phật luôn luôn khuyến
khích Phật tử nên kính trọng các bậc hiền triết và sống theo những lời
dạy đúng đắn lợi ích
của các bậc ấy. Như thế có thể nói đạo Phật là "lẽ sống giác
ngộ". Lẽ sống nầy có nội dung đạo lý rất phong phú và nhất là mục
đích diệt khổ của nó khác với chủ thuyết "hữu thần",
"vô thần" của nhiều tôn giáo và triết học xưa nay.
Đạo Phật cũng không thuộc vào chủ thuyết
"duy tâm" hay "duy vật" bởi vì Phật không hề lập nên một
chủ thuyết nào mà chỉ trình bày sự thật nơi con người và vũ trụ. Đạo
lý Duyên khởi của Phật là "trung đạo" (majjhimapatipadà) không rơi
vào những chủ thuyết cực đoan chủ trương "có",
"không", "tâm", "vật"... Hơn nữa, không nên xem đạo
Phật chỉ là hệ thống tư tưởng, một lý thuyết, bởi vì đạo Phật vốn
là một đạo lý độc đáo với những đạo lý như thật, thực tiễn của
nó. Như thật, vì đạo Phật phù hợp với thực tại đa dạng hay toàn diện.
Phật xem sự diễn tả phiến diện không những làm sai lạc sự thật mà
còn gây ra sự hiểu lầm nguy hiểm. Câu chuyện những người mù rờ voi do
Phật kể nhơn lúc các đạo sĩ, triết gia cãi nhau về chơn lý là bài học
rất ý nghĩa (xem Udâna IV,4). Thực tiễn, vì những điều do Phật truyền dạy
đều nhắm mục đích giải thoát khổ đau chứ không phải để thỏa mãn
sự tò mò của trí óc con người. Như Phật nói, Ngài chỉ truyền dạy có
một điều: "Khổ và sự Diệt khổ". Đọc kinh luận nếu thấy những
quan điểm được Phật hay các luận sư nhấn mạnh với mục đích đả phá
những thành kiến hay
huấn thị cho một đối tượng đặc biệt nào đó, chúng ta nên hiểu
chúng với tinh thần phá chấp mà không nên bám chặt và tạo thành những
chủ thuyết cực đoan như: duy tâm, duy nghiệp, duy thức v.v... bởi vì Phật
có nói: "Pháp còn phải bỏ đi huống gì là phi pháp".
Vì thế, xếp đạo Phật vào hệ thống "hữu
thần" "vô thần", "duy tâm", "duy vật" một
cách máy móc là sự sai lầm.
Thích Thiện
Châu
- Chân thành cảm ơn cư sĩ Lại Như Bằng
đã gởi tặng phiên bản điện tử của quyển sách này.
ĐPNN, 30-6-2000