- Phật tử
- HT. Thích Thiện Châu
Phần II
[4.]Giáo Hội
[24.] Cho biết
chữ Tăng già (sangha) là gì?
[25.] Những
ai có thể trở thành Tỷ kheo, Tỷ kheo ni?
[26.] Tại
sao có vị mặc áo nâu, có vị quấn cà sa vàng?
[27.] Nam
Tông và Bắc Tông khác nhau như thế nào?
[28.] Đạo
Phật Việt Nam thuộc Nam Tông hay Bắc Tông?
[29.] Cho biết
sơ tổ chức đạo Phật Việt Nam ngày nay?
[30.] Cho biết
qua tình hình Phật giáo thế giới gần đây và hiện nay?
[5.] Phật tử
[31.] Cho biết
sơ qua bổn phận của một phật tử ?
[32.] Thế nào
là tu dưỡng bản thân ?
[33.] Giải
thích thêm về Bi, Trí, Dũng.
[34.] Phật hóa
gia đình là thế nào ?
[35.] Làm sao
để cải tạo xã hội ?
[36.] Cho biết
thái độ phật tử đối với việc xây dựng hòa bình ?
[37.]Vì sao
phải phổ biến chánh pháp ?
[38.] Muốn
phổ biến chánh pháp nên theo những quy tắc nào ?
[6.]Linh tinh
[39.]Quy y là gì ?
[40.]Có nên
đi chùa và gặp các người tu hành không ?
[41.]Thờ Phật
trong nhà có lợi ích gì ?
[42.]Cho biết
ý nghĩa của sự tụng kinh ?
[43.]Sám hối
là gì ?
[44.] Niệm
Phật là thế nào ?
[45.] Tu thiền
là gì ?
[46.] Vì sao
phật tử ăn chay ?
[47.]Phật tử
phải kỵ giỗ như thế nào cho hợp đạo ?
[48.] Cầu an
là gì ?
[49.]Gia đình
phật tử nên tổ chức lễ cưới cho con cháu như thế nào ?
[50.] Xin cho
biết thái độ của gia đình phật tử đối với vấn đề hạn chế sinh
sản.
[51.] Phải làm
gì khi trong nhà có người chết ?
[52.] Phật tử
phải đối với người khác tư tưởng, khác đạo như thế nào ?
24. Cho biết chữ Tăng già (sangha) là gì?
[ * đầu trang ]
- Tăng già gọi tắt là Tăng, đoàn thể của tất
cả những người chấp nhận đạo Phật làm lý tưởng. Nhưng chữ tăng già
trong nghĩa hẹp thì chỉ cho đoàn thể Tỳ khưu, (bhikhu,
bhikshu) và Tỳ khưu ni (bhikkhuni,
bhikshuni), những người rời bỏ gia đình
riêng tư, sống đời đạo hạnh lợi tha, chuyên lo tu học và hướng dẫn
mọi người sống đạo.
25.Những ai có thể trở thành Tỷ kheo, Tỷ kheo ni?
[ * đầu trang ]
- Tất cả, không phân biệt nòi giống, màu da,
địa vị xã hội, với điều kiện là phải đủ nhân tướng, không có tật
bệnh thân thể cũng như tinh thần, có ý chí hướng thượng và khả năng
tu hành. Tu sĩ nam gọi là Tỷ kheo sống theo Tăng bộ. Tu sĩ nữ gọi là Tỷ
kheo ni sống theo Ni bộ.
26. Tại sao có vị mặc áo nâu, có vị quấn cà sa vàng?
[ * đầu trang ]
- Nâu hay vàng đều là màu "giải
thoát". Tuy nhiên, tổng quát mà nói thì các vị quấn cà sa vàng thuộc
Nam Tông. Các vị mặc áo nâu thuộc về Bắc Tông. Các vị thuộc hệ phái
khất sĩ cũng quấn y vàng song phần đông tu học theo giáo lý Bắc Tông. Phật
giáo ngày nay đang có một khuynh hướng tổng hợp Bắc và Nam Tông, nên có
những vị xuất gia ở Bắc Tông cũng quấn cà sa vàng và những vị thuộc
Nam Tông cũng mặc áo tràng nâu, nhất là khi phải sống ở các xứ lạnh
hay ở Âu Mỹ.
27. Nam Tông và Bắc Tông khác nhau như thế nào?
[ * đầu trang ]
- Sự thật thì chỉ có một đạo Phật. Tất cả
Phật tử đều thờ kính Phật Gotama hay Thích Ca (sâkyamuni),
chấp nhận và tu học các đạo lý Duyên khởi, Vô ngã, Vô thường, Bốn
Thánh đế vv... Sở dĩ có Nam Tông, Bắc Tông là vì có vài quan điểm khác
nhau về giáo lý và phong tục địa phương. Đạo Phật ở các nước Tích
Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào... chịu ảnh hưởng của Thượng tọa bộ (Theravâda) từ Ấn Độ truyền về phương nam (Tích
Lan) nên được gọi là Nam Tông. Trong khi đó, đạo Phật ở các nước Tây
Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản... phần nhiều
chịu ảnh hưởng của Đại thừa (Mahâyâna)
trong đó có ảnh hưởng của Đại chúng bộ (Mahâsanghika),
Nhất thế hữu bộ (Sarvâtivâda), Độc tử bộ
(Vâtsiputriya)... từ Ấn Độ truyền về
phương Bắc (Trung Á, Trung Hoa) nên được gọi là Bắc Tông. Theo ý kiến
chung thì Nam Tông, nhờ bảo thủ mà còn giữ được nhiều tính chất
nguyên thủy của đạo Phật. Còn Bắc Tông do phóng khoáng và canh tân nên
đã hòa hợp với nếp sống
địa phương hay quốc gia. Hiện nay đạo Phật, với các tổ chức quốc tế,
đang cố gắng đi đến một nền Phật giáo tổng hợp, không phân biệt
tông phái, địa phương. Hiện có nhiều tổ chức Phật giáo đề cao tinh
thần "về nguồn" và ứng dụng đạo Phật một cách sáng tạo
trong thời đại ngày nay.
28. Đạo Phật Việt Nam thuộc Nam Tông hay Bắc Tông?
[ * đầu trang ]
- Đạo Phật Việt Nam vào những thế kỷ
đầu tiên (I-V) do các Phật tử Ấn Độ và gần Ấn Độ truyền vào. Song
suốt dòng lịch sử đạo Phật Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của Bắc
Tông Trung Hoa đến. Gần đây, trong thời kỳ Pháp thuộc, ở miền Nam có
thêm ảnh hưởng của Nam Tông từ Campuchia sang. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng
của Bắc Tông Trung Hoa song nhờ phong trào chấn hưng và canh tân (từ 1930),
đạo Phật Việt Nam có một bộ mặt sáng sủa, linh hoạt và gần đạo lý
Nguyên Thủy.
Từ năm 1945, đạo Phật Việt Nam, tùy theo địa
phương và hoàn cảnh, phát triển khác nhau do có nhiều sắc thái khác nhau.
Nói chung, ở "miền Bắc", đạo Phật vẫn giữ nguyên truyền thống
Bắc Tông, trong khi đó ở "miền Nam" có cả Bắc Tông, Nam Tông. Đạo
Phật Việt Nam có chịu ảnh hưởng của các phong trào chấn hưng đạo Phật
ở các nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Tích Lan, Ấn Độ.
29. Cho biết sơ tổ chức đạo Phật Việt Nam ngày nay?
[ * đầu trang ]
- Đạo Phật vốn không có giáo quyền tập trung
như Thiên chúa giáo. Vì hoàn cảnh đất nước trong quá khứ, đạo Phật
Việt Nam, mãi đến năm 1981 mới có cơ quan chỉ đạo trung ương cho cả
nước: Giáo hội Phật giáo Việt Nam gồm Hội đồng chứng minh và Hội đồng
Trị sự. Dầu sao, Phật giáo liên tục có mặt ở Việt Nam trong suốt 2000
năm nay trong khi đó Phật giáo ở Ấn Độ và vùng Đông Nam Á bị tiêu diệt
mà nguyên nhân chủ yếu là nạn Hồi giáo.
30.Cho biết qua tình hình Phật giáo thế giới gần đây và hiện
nay?
[ * đầu trang ]
- Đạo Phật phát sinh từ Ấn độ và được
truyền rộng ra các nước lân cận ngay sau khi Phật viên tịch độ ba trăm
năm dưới triều đại Asoka. Đạo Phật tiếp tục phát triển ở Ấn độ
cho đến thế kỷ thứ XIII thì bị tiêu diệt hoàn toàn do sự tàn phá của
Hồi giáo. Tuy nhiên, đạo Phật ở các nước ngoài Ấn độ vẫn phát triển.
Về sau, chính phong trào tìm thuộc địa của Tây phương đã làm cho đạo
Phật ở Viễn Đông, Đông Nam Á bị đàn áp, lu mờ và bị bỏ quên.
Nhưng, trong những người đến với các nước
Phật giáo có một số học giả làm quen rồi yêu chuộng nền văn hóa Đông
phương nói chung và đạo Phật nói riêng như bác sĩ Peebles, đại tá
Olcott, ông bà giáo sư Ryhs Davids, bà Blavatsky... Chính những học giả Âu Mỹ
này đã làm cho nhiều người Đông phương, chú ý đến sự sáng đẹp của
Đạo Phật. Về sau nhờ những Phật tử có lòng như đại đức Dharmpâla,
đại sư Thái Hư... quyết tâm phục hưng đạo Phật. Chỉ trong thời gian
độ 50 năm lại đây đạo Phật trở nên một đạo có uy tín; bên ngoài
thì được các học giả Âu Á lưu tâm nghiên cứu và bên trong thì các Phật
tử cố gắng tu học và phổ biến. Hiện nay số Phật tử khắp thế giới
càng ngày càng tăng và các tổ chức Phật học càng ngày càng nhiều.
Hiện có nhiều cơ quan quốc tế của Phật giáo.
Song những cơ quan nầy chỉ là những cơ quan chỉ đạo tối cao. - Âu Mỹ
cũng có các hội Phật giáo. Tại các trường Đại học ở Londres,Paris,
Louvain, Munchen v.v... đều có người nghiên cứu và giảng dạy Phật học.
Kinh sách đạo Phật cũng được dịch, viết ra bằng
các sinh ngữ Pháp, Anh, Đức...
Nhiều học giả Âu Mỹ nghĩ rằng đạo Phật là
một lẽ sống thích hợp với con người tiến bộ và hy vọng rằng đạo
Phật sẽ giúp loài người giải thoát sự thác loạn do văn minh máy móc
gây nên.
31.Cho biết sơ qua bổn phận của một phật
tử ?
[ * đầu trang ]
- Phật tử chân chánh là người biết thể hiện
chánh pháp trong những bổn phận sau đây : tu dưỡng bản thân, phật hóa
gia đình, cải tạo xã hội.
32.Thế nào là tu dưỡng bản thân ?
[ * đầu trang ]
- Mục đích đầu tiên mà người phật tử nhắm
đến là "người giác ngộ ". Do đó tu dưỡng bản thân là việc rất
cần thiết. Tu dưỡng nghĩa là cải tạo : về tình cảm, chuyển đổi tham
lam tàn bạo thành yêu thương giúp đề (từ bi), về lý trí, chuyển đổi
si mê lầm lạc thành giác ngộ sáng suốt (trí tuệ), về ý chí, chuyển đổi
hèn nhát thụ động, sợ sệt thành quả cảm tinh tấn. Đủ Bi, Trí, Dũng
là người giác ngộ.
33. Giải thích thêm về Bi, Trí, Dũng.
[ * đầu trang ]
- Bi hay từ bi có nghĩa là thương yêu giúp đề.
Từ bi không phải là lòng thương hại những kẻ xấu số mà là lòng thương
yêu bình đẳng, sự giúp đề chân thành như tình thương và sự lo lắng của
bà mẹ hiền đối với đứa con một. Chúng ta hiện thiếu hoặc có rất
ít tình cảm tốt đẹp rộng rãi ấy. Do đó, chúng ta nên tu dưỡng lòng từ
bi bằng cách chân thành thương yêu và giúp đề những người thân yêu như
cha mẹ, anh em, bà con rồi đến đồng bào, đồng loại và tất cả chúng
sinh. Từ bi làm cho con người hoàn toàn về tình cảm.
Trí hay trí tuệ có nghĩa là sự hiểu biết sự
vật đúng như sự thật (yathâbhuta). Chúng ta
có kiến thức song chưa có trí tuệ vì chúng ta chưa ra khỏi ảnh hưởng của
vô minh (avijjâ) và còn bị tình cảm vẩn đục
chi phối. Do đó, muốn thấu rõ sự vật đúng như thật, chúng ta cần phải
trau dồi trí tuệ bằng cách không chủ quan, tự mãn mà thành khẩn học hỏi,
suy nghĩ khách quan (cintâ) và thực nghiệm thấu
đáo (bhâvanâ). Sự phát triển trí tuệ đầy
đủ làm cho con người hoàn toàn về lý trí.
Dũng hay dũng cảm có nghĩa là mạnh dạn, dám
hành động trong chiều hướng cao đẹp. Phần đông chúng ta chưa có đủ
dũng cảm vì chúng ta còn sợ khó, nếu không nói là hèn nhát. Nhiều khi thấy
chính nghĩa song không dám dấn thân vì sợ nguy hại cho quyền lợi, danh dự
và tính mạng. Có người dám nói, dám làm song lại thiếu từ bi, trí tuệ
nên thường manh động hơn hành động. Do đó, chúng ta phải phát triển dũng
cảm bằng cách tự thắng những tính xấu ác trong chúng ta rồi vận động
sức mạnh của mình, liên tục ngăn trừ điều xấu ác đã sinh, phát khởi
điều lành ích chưa có và làm cho điều lành ích đã có
tăng trưởng. Dũng cảm làm cho con người hoàn toàn về ý chí.
34. Phật hóa gia đình là thế nào ?
[ * đầu trang ]
- Chấp nhận đạo Phật là lẽ sống cao đẹp,
người phật tử ở nhà ngoài việc tu dưỡng bản thân, còn có bổ phận
với gia đình. Trong nhiều kinh như kinh Chơn hạnh phúc (Mahâmangala), kinh Thiện sanh (Sigalovâda)...
Đức Phật khuyến khích người cư sĩ làm tròn bổn phận của chồng đối
với vợ, của vợ đối với chồng, của cha mẹ đối với con cái, của
con cái đối với cha mẹ... Người gia trưởng, không những phải lo chu đáo
đời sống vật chất của gia đình mà còn phải hướng dẫn quyến thuộc
sống theo chánh đạo để gia đình có hạnh phúc chân thật, nghĩa là phật
hóa gia đình. Nếu gia đình được phật hóa thì chính những người trong
gia đình là thiện hữu tri thức (kalyânâ-mitta)
của nhau, khuyến khích giúp đỡ lẫn nhau hướng thiện và hướng thượng.
35. Làm sao để cải tạo xã hội
[ * đầu trang ]
- Theo đạo lý Duyên khởi thì sự hình thành của
sự vật do nhiều nhân duyên ; những nhân duyên này liên hệ mật thiết với
nhau " Cái này có thì cái kia có, cái này tốt thì cái kia tốt " ;
do đó, muốn cho cuộc sống riêng và chung được an lành thì không những
phải tu dưỡng bản thân, phật hóa gia đình mà còn phải cải tạo xã hội.
Phật tử có bổn phận đóng góp vào công cuộc cải tạo xã hội, muốn
đóng góp của mình có kết quả tốt đẹp thì trước tiên phải tự cách
mạng bản thân : loại bỏ tâm mưu cầu danh lợi, đào luyện chí nguyện lợi
tha, rồi quyết tâm phục vụ cho quyền lợi đồng bào và xã hội. Tài năng
tuy cần thiết song đạo đức vẫn là yếu tố không thể thiếu trong công
việc ích người lợi xã hội. Cư sĩ, nếu có đủ khả năng nên tham dự
tất cả công tác xã hội như chính trị, kinh tế, y tế... Đạo lý Duyên
khởi dạy cho
người phật tử biết linh động trong việc khảo sát sự vật và thực hiện
công tác tu dưỡng bản thân cũng như cải tạo xã hội. Có thể đặt vấn
đề tu dưỡng cá nhân trước và cải tạo xã hội sau, cũng có thể cải
tạo xã hội trước và tu dưỡng cá nhân sau, tùy theo sự quan trọng của
vấn đề trong hoàn cảnh nào đó, hoặc cả hai vấn đề có thể được
thực hiện một lần.
36. Cho biết thái độ phật tử đối với việc xây dựng hòa
bình
[ * đầu trang ]
- Xét về đạo lý và lịch sử thì đạo Phật
quả là đạo hòa bình. Mục đích cao nhất của đạo Phật là Nirvâna mà
một trong nhiều định nghĩa là hòa bình (Santi, Sun, 204). Đức Phật cũng
được gọi là ông Hoàng Hòa bình (Santirâja).
Phương thức tu dưỡng do Phật chỉ dạy là lối sống hòa hợp (samacariya) với con người.
Theo đạo lý Duyên khởi thì sự vật do nhiều
nhân duyên mà phát sinh và hiện hữu. Nếu đã nhờ nhau nương nhau mà sống
còn thì loài người phải làm cho những tương quan, tương duyên tốt đẹp
để cùng nhau vui hưởng an lành.
Để phá về sự ngăn cách chống đối giữa những
cá nhân, giữa những tập thể thì không gì tốt đẹp hơn là tu học theo
đạo lý vô ngã (anâtta). Đạo lý này chủ trương con người cũng như sự
vật không hề có cái ta biệt lập - nguyên nhân của ích kỷ, tự tôn, tự
kiêu... Xã hội và tập thể không phải là những cấu trúc cứng nhắc,
không biến đổi mà chỉ là những giả hợp của nhiều yếu tố như nhân
sự, kinh tế, chính trị... Do đó, muốn sống cao đẹp thì phải sống theo
tinh thần vô ngã, lợi tha, muốn tổ chức xã hội một cách hợp lý, công
bình thì nên tổ chức theo tinh thần cộng đồng, hòa hợp.
Về phần đào luyện đạo đức thì hầu hết
phương pháp tu dưỡng trong đạo Phật đều nhằm mục đích diệt trừ
tham lam, thù hận và xây dựng an lành cho mình, cho người trong tinh thần từ
bi :
"Như
mẹ hiền thương yêu con một
Dám hy sinh bảo vệ cho con
Với muôn loài ân cần không khác
Lòng ái từ như bể như non
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ
Mở rộng lòng thương không giới hạn."
(Kinh từ bi, Sun, 1.8)
Ngoài ra, Phật còn dạy nhiều phương pháp xây dựng
hòa bình một cách xác thực mà 6 nguyên tắc sau đây là căn bản :
1. thân hòa cùng chung sống,
2. miệng hòa không cãi cọ,
3. ý hòa cùng vui vẻ,
4. kiến (tư tưởng) hòa cùng thông cảm,
5. giới (kỷ luật) hòa cùng tôn trọng,
6. lợi hòa cùng hưởng thụ.
Như vậy phật tử khi xây dựng hòa bình cho
mình cho người không phải chỉ làm theo lời khuyên đạo đức mà hành động
đúng theo cơ sở đạo lý của Phật.
37. Vì sao phải phổ biến chánh pháp ?
[ * đầu trang ]
- Phật tử phải phổ biến chánh pháp bởi vì
chánh pháp là ánh sáng chân lý, là nguồn vui bất diệt cho loài người. Phật
tử phải vận dụng mọi phương tiện tốt để đem chánh pháp đến cho đời
: nghĩa là làm cho mọi người hiểu và sống Đạo. Phật tử làm công việc
này với mục đích "đem an vui đến cho muôn người" chứ không phải
để gây thanh thế cho đạo của mình. Người cư sĩ không những chỉ ủng
hộ chư tăng trong công việc truyền bá chánh pháp, mà còn phải tự mình
truyền bá chánh pháp. Chính người cư sĩ, với hình thức tại gia, rất
thích hợp và dễ dàng Phổ biến chánh pháp bằng cách sống đạo để làm
gương và khuyến khích những người gần gũi mình hướng thiện. Sự tồn
tại của đạo Phật không chỉ ở nơi sự nguy nga tráng lệ của chùa chiền,
sự giàu có và uy quyền của giáo hội mà ở nơi sự sống đạo của phật
tử và mọi người. Vì thế phổ biến chánh pháp tức là bảo vệ chánh
pháp.
38. Muốn phổ biến chánh pháp nên theo những quy tắc nào ?
[ * đầu trang ]
Ai muốn phổ biến chánh pháp, trước hết nên
phát tâm từ bi đối với tất cả mọi người. Rồi tùy theo hoàn cảnh,
tìm những người gần mình hoặc có duyên với mình để dìu dắt họ hướng
về lý tưởng giác ngộ. Trong khi dìu dắt cốgắng áp dụng bốn phương
pháp nhiếp người sau đây :
1. San sẻ (bố thí) :
chia sớt vật chất, công sức và văn hóa.
2. Đẹp lời (ái ngữ) : nói năng hòa nhã, dịu
dàng, dễ nghe.
3. Ích người (lợi hành) : phục vụ một cách
không vụ lợi mà chỉ nhằm lợi ích cho người.
4. Gần gũi (đồng sự) : hiểu biết trình độ, thông
cảm nếp sống, tâm tình của người, sống gần và nói, làm như người mình
muốn dìu dắt (cũng có nghĩa là phục vụ một cách bình đẳng không phân
biệt).
Bốn phương pháp nhiếp người trên đây là nghệ
thuật dìu dắt người trong mục đích phổ biến chánh pháp.
39. Quy y là gì ?
[ * đầu trang ]
- Quy y nghĩa là hướng về và sống theo Phật,
Pháp, Tăng. Sự quy y làm chúng ta trở thành phật tử. Bất cứ ai biết hướng
về và sống theo "ba ngôi báu" đều là người đã quy y. Song theo
phong tục thì một người được nhận là đã quy y sau khi tham dự lễ
"nhập đạo" do một hay nhiều thầy chứng minh. Trong
lễ này, người quy y xác nhận sự hướng về các đấng giác ngộ, sống
theo đạo lý giác ngộ và bằng lòng sự hướng dẫn của những người có
kinh nghiệm giác ngộ và sống hòa hợp với các bạn cùng lý tưởng.
Sau phần trên, người quy y được đặt cho một
tên đạo (pháp danh, như : Tâm Minh, Nguyên Quang...) và được khuyến khích
tu học theo năm điều nên học (giới). Quy y còn có nghĩa là ý thức và
phát triển khả năng giác ngộ (Phật), chân lý nhiệm mầu (Pháp) và đức
tính hòa hợp (Tăng) sẵn có trong mỗi người.
40. Có nên đi chùa và gặp các người tu hành không ?
[ * đầu trang ]
- Nên, ít nhất một tháng hai lần cùng đi lễ
Phật, tụng kinh, tham thiền và góp phần xây dựng giáo hội với các phật
tử khác. Không khí đạo vị ở chùa viện giúp chúng ta tăng trưởng niềm
tin và ý chí hướng thượng. Sự hòa hợp với những người đồng đạo
giúp chúng ta tiến bộ trong đời sống đạo. Phật tử nên gần gũi tăng
ni để học hỏi đạo lý và kinh nghiệm tu dưỡng.
41.Thờ Phật trong nhà có lợi ích gì ?
[ * đầu trang ]
- Sự thờ Phật trong nhà đem lại ảnh hưởng tốt
đẹp cho việc tu dưỡng và cho hòa khí trong gia đình. Chọn nơi trang nghiêm
nhất trong nhà, trang trí một tượng hay ảnh Phật đẹp. Trên bàn thờ Phật
không nên bày biện rộn ràng : một bình hoa, một lư hương, một đôi đèn
là đủ.
Hình ảnh Bi, Trí, Dũng của đức Phật ảnh hưởng
thường xuyên lời nói và việc làm của chúng ta, nhắc nhở chúng ta cố gắng
trên đường giác ngộ.
42. Cho biết ý nghĩa của sự tụng kinh ?
[ * đầu trang ]
- Tụng kinh không phải là cầu khẩn mà là đọc
tụng những kinh nghiệm giác ngộ của Phật và những lời cao đẹp của
Ngài. Tụng kinh là một trong những cách huân tập (xông ướp) chân lý cao
siêu, ý đạo nhiệm mầu vào tâm tư.
Nên đọc tụng các kinh bằng thứ chữ mà mình
hiểu nghĩa lý một cách rõ ràng để sự huân tập được sâu sắc. Nên tụng
kinh hàng ngày nơi tôn nghiêm vào lúc trước khi đi ngủ hoặc sau khi vừa
thức dậy. Nếu không có bàn thờ Phật thì có thể tụng kinh ngay trong
phòng ngủ hay ở bàn làm việc. Chuông mõ chỉ là
những nhạc cụ giúp cho sự hòa nhịp, nhất là lúc nhiều người đồng tụng.
Vì thế có thể tụng kinh mà không có chuông mõ. Nên chọn những kinh có
ý nghĩa và thích hợp mà tụng, "Tụng trăm bài kệ vô nghĩa chẳng bằng
tụng một lời đúng chánh pháp, mà khi nghe đến người ta được an lành"
(Pháp cú, 102).
43. Sám hối là gì ?
[ * đầu trang ]
- Sám hối nghĩa là ăn năn những lỗi lầm đã
phạm và hứa nguyện không tái phạm. Muốn tiến bộ trên đường giác ngộ,
phải sám hối hàng ngày. Sau khi tụng kinh, tham thiền hoặc trước khi đi
ngủ, nên ngồi yên lặng trong năm phút, lấy năm điều tu học (giới) để
xét việc làm, lời nói và ý nghĩ trong ngày. Nếu thấy có những hành động
không tốt thì nên sám hối ngay. Nếu được thì nên dự các lễ sám hối
vào ngày 14 hay 30 âm lịch tại chùa. Tốt hơn nữa là mời một vài người
mình tin tưởng và kính mến chứng minh cho sự sám hối các lỗi nặng.
Trong khi tĩnh tâm xét mình, nếu thấy đã có những hành động thuận hợp
năm điều tu học thì nên hoan hỷ và nguyện cố gắng phát triển.
44. Niệm Phật là thế nào ?
[ * đầu trang ]
- Niệm Phật là tưởng nhớ các đấng Giác ngộ
bằng cách đọc lên các danh hiệu các vị ấy, như đọc "Nam mô Bổn
sư Thích Ca Mâu Ni Phật" hay đọc vắn tắt "Nam mô Phật" (nghĩa
là kính lễ đức Giác ngộ). Chiêm ngưỡng hình tượng của Phật cũng là
cách khác của sự niệm Phật. Qua danh hiệu và hình tượng của Phật,
người niệm Phật tưởng nhớ đến đức tính từ bi, hỷ xả của Phật.
Sự nhớ tưởng này làm phát sinh và tăng trưởng đức tính từ bi hỷ xả
nơi người niệm Phật.
Có thể niệm Phật trong bất cứ lúc nào, song
niệm Phật trước khi đi ngủ là tốt nhất vì thiện tâm sẽ được nảy
nở liên tục ngay trong giấc ngủ, nhờ đómà được an lành và không có
ác mộng.
45. Tu thiền là gì ?
[ * đầu trang ]
- Tu thiền là tu tập các phương pháp chỉ
(samatha) và quán (vipassanâ). Chỉ nghĩa là kiểm soát tư tưởng và tập
trung tâm lực. Phương pháp "chú ý hơi thở " là phương pháp chỉ
tốt nhất. Quán nghĩa là phát triển khả năng nhận thức theo kinh nghiệm
giác ngộ của Phật để ngộ đạt chân lý. Tùy theo trình
độ mà người tham thiền được các vị thiền sư dạy cho các đề mục
khác nhau. Ví như người hay nóng giận thì tu tập đề mục từ bi (mettâ),
người hay cố chấp thì tu tập đề mục vô ngã (anattâ)...
Dù tu tập đề mục gì cũng phải tuân theo những
điều cần yếu như giữ gìn các điều tu học căn bản, ở nơi thanh tịnh,
gần gũi thầy sáng, bạn lành, ăn uống tiết độ, mặc quần áo rộng
rãi, ngồi đúng cách... Có thiền định mới có trí tuệ, do đó muốn đạt
đạo không thể không tu thiền.
46. Vì sao phật tử ăn chay ?
[ * đầu trang ]
- Ăn chay là ăn toàn rau trái mà không ăn thịt cá.
Ăn chay là biểu lộ lòng từ bi đối với loài vật, tuy ngu si hèn yếu hơn
người nhưng vẫn ham sống sợ chết. Ăn chay nếu ăn đủ chất bổ, giúp
chúng ta được nhẹ nhàng khoẻ khoắn, dễ dàng tu dưỡng. Phật tử ăn
chay là vì từ bi mà không phải vì sợ và kính thú vật như người theo
Ấn độ giáo hay vì kiêng cử như người theo các tôn giáo khác.
Phật tử ở nhà nếu chưa ăn chay thường xuyên
(trường trai) thì nên cố gắng ăn chay một tháng hai ngày (rằm và mồng một).
Trong những ngày ăn chay, nếu được nên phát nguyện tu dưỡng theo tám điều
tu học (bát quan trai) : năm điều tu học thường và thêm ba nữa là :
không ăn quá ngọ, không xem nghe ca
múa, không trang điểm và ngồi nằm trên giường ghế cao đẹp. Sự tu dưỡng
theo tám điều tu này giúp ta dễ dàng có định tâm và phát triển trí tuệ.
47. Phật tử phải kỵ giỗ như thế nào cho hợp đạo ?
[ * đầu trang ]
- Kỵ giỗ là một phong tục tốt vì đó là sự
tỏ lòng tưởng nhớ, thương mến và biết ơn đối với người đã qua đời.
Trong khi kỵ giỗ, lòng thành là quan trọng chứ không phải phẩm vật hay
hình thức cúng kính rộn ràng? Do đó phật tử nên tổ chức kỵ giỗ
càng trang nghiêm càng tốt. Không nên tiêu phí tiền bạc, thì giờ, ăn uống
linh đình. Nên nhân những ngày kỵ giỗ để đoàn kết gia đình, bạn bè
và học tập những đức tính cao thượng tốt đẹp của tiền nhân. Có thể
kỵ giỗ trong hình thức cầu siêu ở nhà hoặc ở chùa để thêm phần ý
nghĩa và trang trọng.
48. Cầu
an là gì ?
[ * đầu trang ]
- Phật dạy :"Người nào muốn phụng sự Như
Lai thì hãy săn sóc người bệnh". Do đó phật tử, đối với người
đau ốm tật bệnh phải lưu tâm thăm viếng, săn sóc hỏi han, tùy theo bệnh
hết lòng thuốc men giúp đề, không nên tin nhảm nhí vào đồng cốt dị
đoan. Trong khi tụng kinh, niệm Phật nên rải lòng từ bi đến người bệnh
và cầu mong cho họ được chóng bình phục và an lành.
49.Gia đình phật tử nên tổ chức lễ cưới cho con cháu như thế
nào ?
[ * đầu trang ]
- Từ lâu người ta thường nghĩ rằng việc hỏi
cưới là việc đời không dính gì đạo. Các tu sĩ Phật giáo Việt nam cũng
ít khi làm lễ cưới cho phật tử tại chùa hoặc tại hội quán. Theo giới
luật của người xuất gia thì các thầy không được làm mai mối, song có
thể chứng minh cho lễ giao ước sống chung và xây dựng gia đình của hai
phật tử hay của một phật tử với một không phật tử, miễn là hai người
này thuận tình và tôn trọng lý tưởng của nhau. - các nước Phật giáo
nguyên thủy, các tu sĩ vẫn chứng minh cho lễ cưới của phật tử tại nhà.
Để hòa hợp với lễ giáo dân tộc hoặc phong
tục xã hội, gia đình phật tử có thể tổ chức hai lễ : một lễ tại
nhà riêng với những thủ tục phải làm tại trụ sở hành chánh cùng sự
tham dự của tất cả những người thân hay liên hệ, một lễ khác tại
chùa hoặc tại hội quán với sự chứng minh của các thầy và các đạo hữu.
Trong trường hợp muốn giản dị hóa nghi lễ thì phần đầu có thể làm
nhẹ đi và phần thứ hai là phần chính. Trong phần nghi lễ tại chùa hay hội
quán, nếu hai vợ chồng chưa chính thức quy y "ba ngôi báu" và chưa
hứa nguyện giữ gìn năm điều tu học thì sẽ được thầy chủ lễ, trước
hết là truyền ba quy y và năm điều tu học, kế đó là được thầy khuyên
nhủ bằng cách đọc và giảng những điều dạy của đức Phật về bổn
phận của chồng đối với vợ, vợ đối với chồng, cha mẹ đối với
con cái... (nếu cần trích dẫn phần quan trọng trong kinh Giáo Thọ Thi Ca La
Việt (Sigalovâda) Trường bộ kinh số 31). Thầy
chủ lễ cũng nên giảng ý nghĩa của chiếc nhẫn mà người chồng đeo cho
vợ và vợ đeo cho chồng là biểu trưng của hạnh phúc gia đình trong sự
nhẫn nhục tha thứ, hiểu biết và thông cảm cho nhau. Cuối cùng, một buổi
trà đạo có thể được tổ chức ở phòng khách của chùa hay hội quán.
Theo đạo Phật, lễ cưới là một lễ rất long
trọng của hai người khác phái muốn làm bạn với nhau để xây dựng hạnh
phúc gia đình. Vì thế cốt yếu của lễ cưới là làm sao cho vợ chồng mới
hiểu biết bổn phận đối với nhau, nghệ thuật sống chung với nhau và
nhất là hứa nguyện thương yêu chân thành, đối
xử bình đẳng và sẵn sàng giúp nhau tiến bộ trong cuộc sống an lành,
cao đẹp và hy sinh cho con cháu về sau. Gia đình phật tử phải hiểu và tổ
chức lễ cưới cho con cháu trong ý nghĩa ấy. Điều nên tránh là không
nên phỏng theo ý nghĩa và hình thức nghi lễ của các tôn giáo khác mà nội
dung giáo lý về hôn nhân khác hẳn đạo Phật. Và cũng nên giảm bớt
hình thức ồn ào, nghi lễ nặng nề và nhất là không nên xa xỉ, mê tín.
50. Xin cho biết thái độ của gia đình phật tử đối với vấn
đề hạn chế sinh sản.
[ * đầu trang ]
- Ngày nay người ta thường bàn đến vấn đề
hạn chế sinh sản và thái độ của những người có tôn giáo đối với
vấn đề này. Có một vài tôn giáo xem vấn đề hạn chế sinh sản là một
"tội lỗi" vì nó chống trái với giáo điều của họ. Phật tử
không bị mắc kẹt trong vấn đề này. Bởi vì theo đạo Phật sự sống của
con người được hình thành trong lúc đầu tiên bởi ba yếu tố :
1. Noãn châu của người mẹ đang ở trong thời
kỳ có thể sinh con.
2. Tinh trùng người cha.
3. Thần thức (gandharva) sẵn sàng để được
sinh (xem Majjhimanikâya, II.156 và Abhidharmakosa, III.12 trang 37 ghi chú số I).
Như vậy nếu không có sự hòa hợp của cả ba
yếu tố trên thì bào thai không thể hình thành. Do đó gia đình phật tử,
sau khi xét khả năng sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái của mình, có thể hạn
chế sinh sản bằng cách áp dụng những phương pháp hạn chế sinh sản mà
khoa học đã tìm ra. Tuy nhiên, hạn chế sinh sản không có nghĩa là phá hoại
sự sống của con cái. Cũng như người yêu hoa giữ gìn hạt hoa và nụ
hoa, Phật tử luôn luôn tôn trọng, bảo vệ sự sống kể cả mầm sống.
"...
Không bỏ sót một hữu tình nào,
Kẻ ốm yếu hoặc người khoẻ mạnh,
Giống lớn to hoặc loại dài cao,
Cỡ trung bình, hoặc ngắn, nhỏ, thô.
Có hình tướng hay không
hình tướng,
Ở gần ta hoặc ở nơi xa,
Đã sinh rồi hoặc sắp sinh ra,
Cầu cho tất cả đều an lạc."
(Kinh Từ bi - Mettâ Sutta)
51. Phải làm gì
khi trong nhà có người chết ?
[ * đầu trang ]
- Khi biết người thân sắp từ trần thì người
trong nhà không nên kêu khóc mà nên xếp dọn chung quanh chỗ người chết,
trang trí tượng Phật hay hoa, mời thầy hoặc người mà người sắp chết
kính mến đến để khuyên bảo người sắp chết không nên sợ hãi, buồn
rầu mà nên nhớ lại những công đức đã làm và nhất tâm thiền định
hay niệm Phật. Ngay lúc người thân gần trút hơi thở cuối cùng, tất cả
mọi người trong nhà họp lại, tỉnh táo niệm Phật để cho người thân
chết một cách nhẹ nhàng an lành. Nên để người chết nằm yên vài giờ,
không nên đụng mạnh vào thân thể vì có thể làm cho người đang mất
đau đớn mà sinh nóng giận, có hại. Nên tổ chức lễ an táng một cách
giản dị, ít tốn kém. Tránh ma chay, đãi đằng linh đình. Cũng không nên
tiêu phí quá nhiều trong việc xây cất mồ mả. Nếu giầu có nên làm việc
phước thiện để hồi hướng công đức cho người chết.
Tính theo ngày chết, cứ bảy ngày thì làm một
lễ cầu siêu giản dị (cắm hoa, thắp hương và ngồi tưởng niệm và nếu
có thể thì tụng kinh Từ bi) một lần để tưởng nhớ, cầu nguyện cho
người thân, đủ 49 ngày thì thôi. Về lễ cầu siêu thì có thể tổ chức
tại nhà hoặc ở chùa. Ngoài bàn thờ Phật nên thiết một bàn thờ nhỏ
gồm có hình ảnh người thân đã mất, nến, hoa và hương. Nếu có thầy
chủ lễ thì quí, không thì bà con trong gia đình và đạo hữu tụnh kinh cầu
siêu và quán từ bi (mettâbhâvanâ) để cầu
cho người chết được sinh về nơi an lành.
52. Phật tử phải đối với người khác tư tưởng, khác đạo
như thế nào ?
[ * đầu trang ]
- Đối với người khác đạo, khác tư tưởng,
phật tử không nên kỳ thị, kiêu hãnh mà nên chân thành tìm hiểu so sánh
tư tưởng hay tín ngưỡng của người khác. Nhất quyết không nên tranh luận
với mục đích chống đối, chinh phục hay khinh miệt tín ngưỡng, tư tưởng
của kẻ khác. Cũng như người yêu hoa, mình có quyền yêu thứ hoa mà mình
thích nhất nhưng không ai lại chê bai thứ hoa mà người khác thích. Phật
tử yêu kính đạo Phật nhưng luôn luôn tìm hiểu, khoan dung và tôn trọng
tư tưởng cũng như tín ngưỡng của người khác.
Chân thành cảm
ơn cư sĩ Lại Như Bằng đã gởi tặng phiên bản điện tử của quyển sách
này.
| Phần I | Phần II |