Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
PHẬT GIÁO TRƯỚC NHỮNG VẤN ĐỀ 
DÂN SỐ, TIÊU THỤ VÀ MÔI TRƯỜNG

Rita M. Gross

Lưu truyền “Chủng Tử Giác Ngộ”: con đường Bồ Đề Tâm theo Đại Thừa và các động lực thúc đẩy sinh sản

Vài tôn giáo, kể cả các truyền thống chính tại Á Châu, mà Phật giáo cùng chung sống, đều răn dạy nối dỏi tông đường là một bổn phận tôn giáo. Đối với Phật Tử, việc có con không phải là một đòi hỏi tôn giáo chút nào.Theo quan điểm Phật Giáo, người ta không cần phải sinh con để hoàn thành một điều cao cả trong mạng lưới hổ tương cuả các sinh vật hữu tình hoặc là thực hiện được những điều đáng ca ngợi trong cuộc sống. Mặc dầu qua các lập luận bảo thủ, thật ra, đề cao độc thân tốt hơn là lối sống có gia đình, không có con tốt hơn là sinh con, phần lớn truyền thống Phật Giáo đề nghị sinh sản có thể gây trở ngại cho việc giúp đở thế giới hay là thực hiện những tiềm năng cao nhất của con người. Bởi vì cũng giống như những con người khác, điều quan trọng và thích thú cho Phật Tử là khi khám phá ra cái gì tạo cảm hứng cho họ giử gìn những lý tưởng tôn giáo mà không cần sinh sản và cũng  tìm hiểu các cuộc thảo luận của Phật Tử xem cách sinh sản nào thích hợp. 

Lời khuyên sinh con để nối dỏi ảnh hưởng khá mạnh trong một vài truyền thống và tác động thêm thái độ của giới khuyến khích sinh sản. Lời khuyên này luôn bao gồm cả những lý thuyết và thực hành, kể cả chê trách là bất hiếu và sai phạm nặng nề bổn phận đạo đức, khi người ta không có con trai, vì mọi người phải lập gia đình và sinh con và phụ nữ có ít hoặc là không có quyền chọn lựa nào hoặc theo một thiên hướng nào ngoài việc sinh con. Những truyền thống này lập luận rằng người ta phải sinh con để hoàn thành một nhiệm vụ một cách hiếm quý; nếu được, còn bao gồm những mệnh lệnh không nên sinh sản quá mức; điều này có thể mang đến một vài thái độ được ưa chuộng hơn, do từ những hình thái cực đoan đến biến dạng cuả Trung Đạo.Thật vậy, những truyền thống này làm nản lòng những nổ lực giới hạn sinh sản và làm cho những người muốn theo đuổi công việc này có cảm tưởng không đáng công nếu họ giới hạn sinh sản, kể cả người đã có con kế tự rồi. Phật Giáo coi việc quan tâm đến thừa tự như là một mở rộng lòng ích kỷ, việc coi mình là trung tâm gây ra đau khổ, nên không hề buộc tín đồ mình nên làm như thế. Phật Giáo đã là mục tiêu của nhiều sự chỉ trích từ những tôn giáo khác ở Á Châu, vì không đòi hỏi tín đồ phải sinh con.

Phật Tử bị coi là ích kỷ, vì không nhất thiết phải sinh con; sự chỉ trích này tại Á châu gây cho họ những cảm tưởng khó chiụ. Phật Tử có hai cách trả lời. Thứ nhất, cách đóng góp quý giá nhất trong mạng lưới liên đới thuộc thế giới hữu tình không hoàn toàn tùy thuộc vào sinh sản. Hơn nửa, sinh sản thường bị thúc đẩy bởi động lực ích kỷ cá nhân. Ta hãy thử nghiệm xét hai lập luận này kỷ lưởng hơn, vì tôi nghĩ rằng cả hai là quan trọng trong việc đương đầu lối đạo đức một chiều của phái đề cao sinh sản. 

Những kết luận này về sinh sản không hẳn là những giới hạn tiêu cực do những người không thiếu thiện chí dua ra. Đúng hơn, trong quan điểm Phật Giáo, những kết luận này bắt nguồn từ những kiến thức sâu xa của người biết mình trong tận cùng muốn gì và cái gì thỏa mãn những ước mơ thầm kín cuả mình. Phật Tử có thể nói rằng trong việc theo đuổi cùng lúc vừa tri thức và vừa từ bi, để đạt tới giác ngộ và ngay cả vượt qua nó, đó chính là điều làm thoả mãn những mơ ước sâu xa nhất của chúng ta, vì nó nói lên nhân tính cốt yếu của chúng ta. Trái với suy nghĩ khá phổ cập, cả Á Châu và Tây Phương, Phật Tử không sống theo một lối sống cho tiết chế, thiền định và suy ni?m chỉ nhằm những mục tiêu tự kỷ để tránh mọi khổ đau. Phật Tử không từ bỏ nối dỏi tông đường như một giá trị tối hậu, thay vào dó để tìm kiếm viên mãn cho riêng mình. Phật Tử cho là ta không bao giờ đạt được  viên mãn qua sinh sản, hoặc quan trọng hơn, qua sản xuất kinh tế và tiêu thụ; còn việc những theo đuổi này có thể phổ cập hay không hoặc là những truyền thống xã hội hay tôn giáo có đòi hỏi họ quá cứng rắn hay không là điều không quan trọng.Thay vào đó, chúng ta cần thực hiện tìềm năng tinh thần của chúng ta. Tìm kiếm mục tiêu của cuộc sống qua tiêu thụ hay sinh sản chỉ khuyến khích điều mà Phật Tử gọi là ái ngã, một khuynh hướng có cội rể sâu xa trong con người, chỉ coi mình là chủ yếu, mà cuối cùng chỉ gây khổ đau cho chúng ta. 

Đúng hơn, Phật Tử nhìn vấn đề nối dỏi là bình thường so với vun bồi và lưu truyền di sản chung của nhân loại và cung nhu quyền sinh sản so v?i sự tĩnh lặng và niềm vui giác ngộ. Thay vì tìm kiếm tự lưu truyền nòi giống qua sinh sản, Phật Tử nổ lực khơi động Bồ Đề Tâm, một hơi ấm quan trọng và lòng từ bi vốn có sẳn trong mọi chúng sinh. Theo cách nói đầy những ẩn dụ của Phật Giáo cổ truyền, chúng ta đã cưu mang Phật Tính (tathagata-garbha= Như Lai Mẩu). Chúng ta nguyện phát triển Bồ Đề Tâm với lòng từ bi nhằm theo đuổi buông xả toàn diện. Thay vì nhìn vấn đề chọn lựa này như một mất mát cá nhân, thì hãy xem đây như một tìm thấy bản sắc và mục đích cuả riêng mình đầy vui thú trong khi lạc lối lang thang và tìm kiếm di truyền không định hướng. "Hôm nay cuộc sống của tôi trở nên có giá trị" được đọc trong những nghi thức cầu nguyện tuân giử Bồ Đề Tâm, lời nguyện quan trọng trong Phật Giáo Đại Thừa. Làm theo lời nguyện này người ta được ca ngợi là đã đi vào trong con đường thuộc về gia đình và giòng dỏi của giác ngộ

Bồ Đề Tâm được coi như thừa kế chính và là tiềm năng cuả mọi sinh vật hữu tình, kể cả con người, thì việc đánh thức và nuôi dưởng Bồ Đề Tâm trong từng cá thể cũng như khuyến khích phát triển nó trong mọi chúng sinh là điều nuôi dưỡng liên tục truyền thống gia đình với tất cả những ý nghĩa sâu xa của nó; một ý nghĩa vượt qua mọi giới hạn chật hẹp của nòi giống gia đình, bộ lạc, đất nước hay chủng tộc.Qua phương cách diển dịch hiện đại thuật ngữ Bồ Đề Tâm cho thấy những giá trị này nuôi dưởng sự trường tồn những đặc điểm cao quý nhất của chúng ta: Bồ Đề Tâm luôn được dịch là “Tâm Thân tỉnh thức”, sư phụ tôi đôi khi dịch là "Chủng Tử Giác Ngộ”, một cách dịch nhằm nhấn mạnh đến Bồ Để Tâm như một trong những đường nét cố hửu căn cơ nhất trong con người và là một di sản cho mọi sinh vật hữu tình. Ai có thể lo âu nữa về di truyền nòi giống gia đình khi người ta có thể đánh thức, nuôi dưởng và lưu truyền các chủng tử giác ngộ?

Ngược lại, những động lực thúc đẩy sinh sản thường hoàn toàn chật hẹp và thiếu sáng suốt. Một vài truyền thống tôn giáo đã phê bình tiêu thụ vật chất như phản tác dụng tâm linh: Vài truyền thống khác lại cho sinh sản chỉ nhắm lòng ích kỷ và cuối cùng thì không toại nguyện; hoặc sinh sản quá mức sẽ tạo nên cùng túng về tinh thần hay tâm lý cũng giống như tiêu thụ quá mức.Tuy nhiên, Phật Giáo chỉ rõ rằng sinh sản được thúc đẩy từ những động lực vị kỷ, đặc biệt do những mơ uớc di truyền nòi giống và bành trướng tộc họ. Và mơ ước vị kỷ luôn tạo nên đau khổ, đó là điều theo giáo lý cơ bản nhất của Phật Giáo. Biểu lộ chổ yếu về sự đa cảm của mình và thèm muốn được sinh sôi nẩy nở, rồi đặt tên cho nó một cách chính xác hay dẹp bỏ những lý tưởng hóa sai lạc về sinh sản quá mức là một điều quá trể. Lý tưởng hoá này thuộc về quan điểm cổ vu sinh sản, nó thúc đẩy nhiều người chấp nhận sinh sản mà trách nhiệm làm cha mẹ không hẳn là một đường hướng quan trọng. Cho rằng sinh sản đều có lợi luôn luôn là một ảo tưởng, kể cả ngay trong thời kỳ mà mật độ dân số ổn định và không hại đến môi sinh; tiếp tục thúc đẩy hay đòi hỏi mọi người sinh sản để di truyền nòi giống trong hoàn cảnh hiện nay là vô trách nhiệm. 

Thường thì các bậc cha mẹ dược thúc đẩy bởi mơ uớc duy trì nòi giống, nên cố sao sinh con mình như một bản sao chép lại hình ảnh cuả mình, hơn là sinh con và cho phép nó tự tìm ra một lối sống cá nhân độc đáo trong cuộc đời. Niềm đau khổ bắt nguồn từ những động lực thúc đẩy sinh sản như vậy thường không được để ý và kéo dài qua nhiều thế hệ. Khi người nào đó được cha mẹ dạy nên có con để thay thế cha mẹ và bắt con theo những giá trị và lối sống của mình, đó là điều mà tôi không làm được. Tôi đã quá quen thuộc vớí những cơn thịnh nộ của cha mẹ giáng xuống cho con cái khi nhận ra rằng con cái không còn ràng buộc và làm tròn điều mình đặt ra. Kinh sách Phật Giáo viết quá nhiều về đề tài này. Thông thường, hiếm muộn là cảm xúc nung nấu làm cho người ta ham muốn sinh con.Thật ra, tâm trạng của một số người muốn sinh con hoàn toàn xa rời sự tĩnh lặng được Phật Giáo đề cao.Tôi hoàn toàn nghi ngờ đối về sự quân bình tâm lý và trong sạch trong những động lực cuả một số người, khi mà họ cần và mong muốn có con. Theo kinh nghiệm của tôi, hầu hết giới trẻ có học ở thành phố nghĩ rằng kiểm soát sinh sản là vấn đề sinh tử - cả đối với một vài thành phần khác trong dân chúng - nhưng những động lực của họ cho sinh sản càng nhiều càng tốt là điều không thể nào kiềm chế được. Mức chống đối và ngăn ngừa đã nảy ra ý kiến là có lẽ họ bị thúc đẩy bởi mơ ước di truyền nòi giống hơn thay vì tu tập Bồ Đề Tâm, điều này thuyết phục tôi rằng những nghi ngờ của tôi là đúng.Tôi càng đào sâu mối nghi ngờ của mình hơn nửa, khi những người này chịu bỏ ra chi phí tốn kém và chịu dau để được sinh con, thay vì nhận một đứa con nuôi trong những đứa trẻ hiện nay dang cần được nuôi dưởng trên thế giớí. Cuối cùng, một số người đã sinh con và cũng không hề có những quyết định riêng mình về việc này mà chỉ do những áp lực từ tôn giáo, gia đình hay bộ lạc đè nặng. Thay vào đó, họ bị thúc đẩy bởi những vị kỷ tập thể, mà hoàn toàn không khác gì với vị kỷ cá nhân. Giống như mọi hình thức của vị kỷ, vị kỷ tập thể cũng gây ra đau khổ.

Khi kêu gọi công nhận việc thúc đẩy sinh sản là không thuyết phụ, điều này cũng hàm chứa lời đề cao và công nhận giá trị một lối sống không sinh sản, gồm cả lối sống luyến ái của người đồng tính và  khác tính. Một trong những vũ khí tâm lý mạnh nhất cuả phe cổ vu sinh sản là không khoan dung cho sự dị biệt trong các lối sống và dèm pha những ngưòi có lối sống không giống ai. Những người dù  không có con cũng cần được đề cao, khi họ có đóng góp to lớn vào sự lưu truyền cho những tiếp nối tinh thần giác ngộ, thay vì khai trừ và chỉ trích. Là một phụ nữ luôn hiểu rộng để đóng góp những tài năng của tôi trong sinh vật hữu tình, tôi có lẽ không cần phải có con. Tôi đã quen với thành kiến nhằm chống lại những người đàn bà không muốn con do chính họ tự chọn lựa. Khởi đầu là sự cào nhào từ bố mẹ đẻ hay bố mẹ chồng khi cho rằng họ mong muốn biết bao việc có cháu để nối dỏi và cảm tưởng xấu hổ khi không có.Tiếp đến là những phản ứng liên tục cho rằng con cái lơ là không theo đuổi ý định có con, và cuối cùng tiếc nuối cho là chỉ vì lòng vị kỷ. Rồi thì sự cô đơn, cảm giác bị ruồng bỏ bắt nguồn từ bạn bè, vì quá bận rộn với đời sống gia đình riêng tư. Và cuối cùng, đặc biệt nhất là hầu hết những người đàn ông trung niên ích kỷ, bê tha, mà mục tiêu của họ trong mối giao tiếp là lập một gia đình thứ hai với những người đàn bà trẻ, lối sống này được một số người chấp nhận. Thuyết cổ vũ sinh sản theo phụ hệ có khuynh hướng xâu xa dễ đưa tới những định kiến như thế. 

Dĩ nhiên, không cần phải nói, sinh sản có thể nằm trong một chương trình thích hợp với việc tu tập của Phật Tử và nhiều tư tưởng tranh đấu cho phụ nử cuả Phật Tử hiện đaị đang khám phá ra những đặc điểm trong việc sinh sản như là vấn đề trong tu tập của Phật Tử. Theo quan điểm của tôi, sinh sản là một chọn lựa đầy giá trị của Phật Tử và là một lối sống chấp nhận được; nó được thúc đẩy bởi những giáo lý Phật Giáo nhu vị tha, buông xả, từ bi và Bồ Đề Tâm, không phải bởi những đòi hỏi của xã hội và tôn giáo, những quy ước hay những phong tục tập quán, những mơ ước bị ép buộc, những ngăn trở sinh lý hay là những ước mơ vị kỷ di truyền nòi giống.Tôi tin tưởng rằng bậc làm cha mẹ luôn có sẳn những động lực thúc đẩy buông xã và từ bi, mặc dầu không phải bất cứ ở đâu, các bậc cha mẹ nào cũng đều giống nhau.Trong công việc của tôi là một nhà khoa học tôn giáo và Phật Tử tranh đấu nữ quyền, tôi luôn nhấn mạnh đến nhu cầu giới hạn sinh sản và sản xuất kinh tế, cũng như quan tâm đến sự chia sẽ trách nhiệm một cách công bình giửa nam và nữ giới để các cu si có thể tu tu tập được.

Phật tử đề cao và khích lệ một lối sống buông xả, theo Trung Đạo, có tri thức, từ bi và phát triển Bồ Đề Tâm. Tuy nhiên, trong một vài quốc gia Phật Giáo, lối sống tu độc thân trong các tu viện đuợc ưa chuộng hơn khác lối sống khác. Mặc dầu các sử sách của Phật Giáo không ghi đầy đủ không phải trong tất cả, mà trong một vài xã hội Phật Giáo, sự chọn lựa lối tu (trong tu viện) này rất thích hợp với nữ giới, khi họ không còn coi việc sinh con như là làm tròn bổn phận nửa, trong khi nam giới lại luôn coi việc nối giõi mang bầu là điều toại nguyện. Trong thế giới Phật Giáo hiện đại, lối sống tu trọn đời nơi tu viện ít phổ biến và ít bền bỉ, nhưng phong trào tu thiền cuả các cư sĩ Phật Giáo hiện đang lan rộng mạnh mẻ, không phải chỉ trong Phật Tử Tây Phương mà ngay tại Á Châu, không phải chỉ nam mà cả nử cư sĩ.Tu tập thiền định nghiêm chỉnh rất là khó khăn và mất nhiều thì giờ. Khi các cư sĩ dấn thân vào đường tu tập, họ phải giới hạn mọi hoạt động khác vừa kinh tế và sản xuất sao cho thích hợp. Cả hai việc tiêu thụ quá mức và thặng dư dân số, hai thành tố tác hại đang lan tràn trên thế giới có thể được kiềm chế lại cùng lúc, khi ta nhận chân ra giá trị của tiềm năng con người hướng về thức giác, từ bi và nổ lực thực hiện. 

Tri thức gíác ngộ giúp ta nhận ra sự tương thuộc của chúng sinh và vượt qua ảo tưởng về sự chọn lựa cá nhân mà cho rằng không ảnh hưởng gì đến phần còn lại trong mê trận của cuộc đời. Từ bi giác ngộ giúp ta yêu thương chúng sinh, mà không hẳn là những người trong gia đình, bộ lạc, đất nước hay nòi giống, mà chính vì họ đáng được chăm sóc và quan tâm. Phần lớn nổi khổ đau trong thế giới sẽ giảm đi đáng kể  nếu phuong cách buông xả theo Trung Đạo được phổ biến sâu rộng, nó giúp cho con người hiểu phải làm gì về tiêu thụ và sinh sản. Theo quan điểm nhà Phật về Bồ Đề Tâm, chủng tử giác ngộ do kế thừa hoặc di truyền từ sinh vật hữu tình, không thể bị huỷ diệt, giúp cho cuộc đời có ý nghĩa viên mãn khi nó phát triển từ bi và trở nên hữu ích, - không phải vì di truyền trong ích kỷ, đù đó là ích kỷ cá nhân hay là di truyền gia đinh, bộ lạc hay đất nước.Trong trường hợp này, điều không hiểu được là tại sao lòng từ bi không được coi như là một cái gì đó mà người ta có bổn phận phát huy, nhung đúng hơn, được coi như sự kế thừa, mà sẽ khám phá điều này làm cho cuộc đời có giá trị và vui thú hơn. Cổ vũ sinh sản khi được coi như một bổn phận tôn giáo hay một nghiã vụ có thể không liên hệ gì đến với việc một tín đồ lo luu truyền giác ngộ. Bỏ di định kiến cổ vũ sinh sản và đề cao những đóng góp cho lưu truyền giác ngộ, không phải chỉ vì di truyền thừa tự, con người có thể làm và ung dung để trở thành bậc cha mẹ, hay có thể sinh con một cách tự do, thoát rời mọi động lực chỉ bắt nguồn từ những ràng buộc, bổn phận hay truyền tự trong ích kỷ. Còn những người nào làm khác hon, có những đóng góp khác quan trọng hon trong thế giới sinh vật hữu tình, thì cũng cần được vinh danh tương tự như vậy.  

Tác phẩm và tác giả | Đại ý | 1 | 2 | 3 | 4 |

 


Vào mạng: 5-10-2004

Trở về mục "Diễn đàn"

Đầu trang