Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
PHẬT GIÁO TRƯỚC NHỮNG VẤN ĐỀ 
DÂN SỐ, TIÊU THỤ VÀ MÔI TRƯỜNG

Rita M. Gross

Tình dục và Cảm thông: Vài Bình Luận Của Kim Cang Thừa

Kết hợp với việc phê bình của những người giới hạn hay từ bỏ sinh sản, thì giáo điều nối dõi tông đường chỉ là một trong nguồn quan trọng dựa trên tôn giáo của phong trào cổ vũ sinh sản. Những nguồn lập luận dựa trên các cơ sở khác thì ít nhất cũng tiềm tàng. Lập luận tôn giáo chống tình dục thì quá quen thuộc trong tôn giáo, kể cả trong giới cư sĩ Phật Giáo. Những sinh hoạt tình dục thường bị chê trách là một cái gì đó có vấn đề, xấu xa hoặc làm tổn hại tâm linh con người. Những xấu xa, sợ hải hay ngờ vực xoay quanh hoạt động và kinh nghiệm tình dục, tạo nên những lập luận hay quy luật tôn giáo, đưa tới những biểu thức hay nối kết biểu tượng, mà tất cả đều nhằm cổ vũ sinh sản, và trong đó có một vài tác dụng tiêu cực khác. Coi những kinh nghiệm tình dục như là một kết quả cần cấm đoán thì sẽ không thể nào phát triển tình dục trong ý thức và trách nhiệm. 

Điểm đầu tiên của những biểu thức quan trọng này phát sinh từ sự sợ hải chuyện tình dục, khi cho là có sự đồng nhất giửa tình dục và sinh sản. Trong một vài tôn gíáo niềm tin này quá mạnh. Một vài tôn giáo tán thành quan điểm ghi nhận mục đích chủ yếu, nếu không nói là giá trị duy nhất, cuả tình dục là sinh sản. Hoạt động tình dục mà không nhắm tới sinh sản chỉ đưa tới những bại hoại đạo đức hay tinh thần cho những ai đam mê tình dục.Tuy nhiên, những liên hệ tiềm tàng giửa sinh hoạt tình dục và sinh sản không đặt thành vấn đề và không nên tìm hiểu hoặc che lấp. Thủ dâm hay luyến ái với người cùng giới hoặc khác giới tính để không lo chuyện có con không được khuyến khích hoặc lên án.Tuy nhiên, hậu quả cuả những quan điểm này thường là lập luận hổ trợ giới cổ vũ sinh sản. Khuyến khích người ta nghĩ xấu về tình dục dường như không ngăn trở được những hoạt động tình dục một cách đáng kể. Nhưng vì người ta được học tập là luôn có mối quan hệ giữa tính dục và sinh sản, hoặc vì người ta bị cấm đoán tiến thêm một bước để tách biệt hai vấn đề này ra, những quan hệ tình dục đưa đến sinh suất cao độ, sẽ tạo nên một tình trạng gia tăng dân số quá mức, trong khi tình trạng tử suất lại xuống thấp.

Phá vở biểu thức đạo đức giữa tình dục và sinh sản là một công việc cốt yếu nhất; cho đến chừng nào mà chuyện quan hệ tình dục không sinh sản gây nản lòng hay bị kết án, thì tỷ lệ sinh suất còn tiếp tục lên cao. Biểu thức này dể bị phá vở khi ta tự hỏi vấn đề nền tảng đâu là chức năng chủ yếu của tình dục trong xã hội con người. Điều này rất rỏ, khi ta so sánh thái độ tình dục của con người với hầu hết các thú vật. Nhiệm vụ chủ yếu của tình dục trong xã hội con người là cảm thông và gắn bó. Không giống như chủng loài khác, hoạt động tình dục giửa con người với nhau có thể và thừơng xãy ra, kể cả khi không có thai nghén, dù là họ muốn, khi phụ nữ không có khả năng thụ thai. Những kinh nghiệm tình dục không sinh sản rất quan trọng trong sự gắn bó và cảm thông giữa những cặp vợ chồng và cho xã hội con người. Thêm vào đó, tình dục, khi đã được hiểu biết và kinh qua, là một trong những phương thức mạnh nhất trong cảm thông của con người. Thật vậy, sinh sản ít quan trọng hơn và thường ít là kết quả của hoạt động tình dục hiểu theo nghia cảm thông. Như vậy, khi đề ra quy luật quan hệ tình dục phải đưa tới tiềm năng sinh sản, nếu không hoạt động tình dục dẫn đến vẩn đục đạo đức hay tâm linh, thì thật là điều không thích hợp. Thay vào đó, tình dục với ý thức và biết sơ đẳng mọi phương thức kiểm soát sinh sản phải được coi là tình dục có đạo đức; hoặc là người ta chỉ có ý định mang thai trong trách nhiệm và có điều kiện thích hợp; cả hai cần được các tôn giáo khích lệ.   

Quan điểm cho rằng tình dục phải đưa tới việc sinh con gắn liền đến những biểu thức khác mà trong cách hàm ý này cũng coi nhu là một hình thức khác của cổ vũ sinh sản. Khi tình dục không thể tách rời ra khỏi sinh sản, và khi người đàn bà không có bản sắc giá trị và được đề cao hay một vai trò văn hoá nào khác hơn là làm mẹ, thì hầu hết những người đàn bà đều muốn được làm mẹ. Thật vậy, bản sắc tiêu biểu và quen thuộc giữa phụ nữ và thân phận làm mẹ được công nhận là như vậy. Cách đây vài năm thôi, mọi người đều cho rằng tính cách thần thánh của người mẹ hẳn nhiên là làm cho ngưòi mẹ là Thánh Nữ. Tôi nhớ rõ thái độ này khá lan rộng khi tôi bắt đầu học cao học về lịch sử các tôn giáo. Tuy nhiên, giả định tất cả mọi bà mẹ là thần thánh chứng tỏ cho thấy là ngây thơ và có gắn liền với văn hóa. Khi tìm hiểu huyền thoại và biểu tượng về người mẹ thần thánh, nhất là thoát ra khỏi những tiêu biểu đặc trưng văn hoá về mục đích của phụ nữ, người ta khám phá tính cách thần thánh của phụ nữ có nhiều yếu tố khác đóng góp thêm vào cho trong đó, thay vì chính là người mẹ. Người mẹ là người bạn đời, người bảo vệ, người thầy, người hướng dẩn văn hoá, các loại nghệ thuật, bảo trợ tiền của... Những liên hệ của họ về các hoạt động văn hoá khác tùy thuộc vào bản chất thì cũng không phải nằm trong huyền thoại. Trong huyền thoại người ta bắt gặp một vài phụ nử thần thánh có sinh hoạt tình dục, nhưng không là những người mẹ hoặc là chuyên sinh sản không được đề cập. Hiển nhiên, những biểu tượng tôn giáo và huyền thoại về những phụ nữ có quan hệ tình dục mà không có con không hổ trợ cho cổ vũ sinh sản. Tuy nhiên, chú ý về cứu cánh là tất yếu. Cần phải cực kỳ thận trọng trong việc tái tạo tượng trưng thân phận làm mẹ trong ý nghĩa tranh đấu cho nữ quyền hiện đại, vì e rằng nhiều biểu tượng lại cũng cố thêm những đặc trưng cho là nguời đàn bà luôn là người mẹ, hiểu theo nghĩa đen. 

Biểu thức thứ ba quan hệ đến sự nuôi nấng trong người me , một đặc trưng quá quen thuộc trong tôn giáo cổ truyền, văn hoá dân gian và tâm lý học. Hậu quả tiêu cực và giới hạn cuả biểu thức này rất đa dạng, không phải vì ít nhất nó là đường lối mà biểu thức này giử vai trò trong chương trình hành động của giới cổ vu sinh sàn. Nếu nuôi dưỡng được định nghĩa một cách hạn hẹp, thì người nào muốn nuôi duởng sẽ thấy là không có cách nào khác hơn là chon lựa con đường làm bậc cha mẹ. Phương thức giửa nuôi dưởng con và làm cha mẹ hổ trợ cho định kiến chống lại giới không con đã được thảo luận, bởi vì thật dể dàng cáo buộc rằng họ là ích kỷ và không nuôi nấng. Tuy nhiên, điều hàm chứa quan trọng nhất trong phương thức này là sự hiểu biết giới hạn về nuôi dưởng. Nếu nuôi dưởng quan hệ chặt chẻ với điều kiện làm mẹ, thì các sự chăm sóc khác đều không được coi là nuôi dạy và cũng không còn khích lệ nửa, đặc biệt là ở những bậc nam giới. Giả đoán rằng dạy dỗ là một công việc chuyên môn hay một độc quyền và trọng trách cuả bà mẹ, đây là một di sản nguy hiểm nhất của những đặc trưng theo chế độ phụ hệ. Vì sức mạnh của khuôn mẩu này, người ta thường cho rằng khi các bà theo các phong trào tranh đấu nữ quyền không muốn lệ thuộc khuôn mẩu phụ hệ, cũng sẽ không nuôi dưỡng con cái. Nhưng hiển nhiên, những phê phán về các bà theo phong trào này không hẳn là chỉ trích vấn đề dạy dỗ thôi. Đó là một phê phán về những cung cách mà nam giới được miễn cho việc dạy dổ, mà chỉ giới hạn công việc cham sóc cho nữ giới, và rồi giam hảm họ trong ngục tù với vai trò trong khuôn mẩu phụ hệ. Tranh đấu cho nữ quyền không hẳn chỉ là giới hạn dạy dỗ hay ngay cả làm cản trở cho công việc ấy, nhưng là phải công nhận tính đa dạng của mọi hình thái nuôi dưởng và kỳ vọng rộng điều ấy được mọi người trong xã hội chấp nhận. Vì cham sóc là quý báo và thiết yếu cho sinh tồn con người, điều chỉ trích là những tư tưởng của chúng ta về những gì có nghiã là nuôi nấng phải vượt qua hình ảnh của nguòi làm mẹ, mà hướng tới những hoạt động khác như dạy dổ, chửa trị, chăm sóc môi trường, dấn thân vào những hoạt động xã hội.Tất cả con người, kể cả nam giới, đều được định nghiã là những người trực tiếp và hướng dẩn những kỷ thuật nuôi dưởng, hơn là giao khoán công việc này cho các bà mẹ, đây cũng là điều quan trọng không kém.

Vì một vài nguồn gốc của sự sợ hải, nghi ngờ và tội lổi về tình dục dựa trên trong tôn giáo, một loại gải pháp theo tôn giáo, mà đúng hơn là cần có một giải pháp thế tục và tâm lý. Quan điểm tình dục phải có ý nghiã đối vớí việc thảo luận về đạo đức tôn giáo, dân số, tiêu thụ và môi trường. Đánh giá tình dục theo tôn giáo như một biểu tượng thiêng liêng và kinh nghiệm này sẽ giúp nhiều hơn là gây tổn hại đến phát triển tâm linh, điều này cần nên đưa vào trong những nhận xét liên quan trong diễn đàn này. Kim Cang Thừa Phật Giáo, một hình thái cuối cùng cuả Phật Giáo Ấn Độ được phát triển, mà ngày nay rất quan trọng tại Tây Tạng và càng trở nên có ý nghiã tại Tây Phương, bao gồm như cả một giãi pháp... Không cần phải nói, điều chủ yếu là thảo luận về Kim Cang Thừa Phật Giáo phải tách rời ra khỏi những chuyện khêu gợi dục tình, mà thật sự làm căn gốc cho sợ hải và tội lổi về tình dục. 

Biểu tượng và thực hành tình dục thanh cao, như đã được tìm thấy trong Kim Cang Thừa Phật Giáo Tây Tạng là điều hoàn toàn xa lạ trong các truyền thống tôn giáo, kể cả những truyền thống đã quen thuộc với quần chúng phương Tây. Trong Kim Cang Thừa Phật Giáo có một ưu điểm quen được sánh đôi, trí thức và từ bi được nhân cách hoá như là đàn ông và đàn bà. Không những cả hai được nhân cách hóa, cả hai được tô vẻ và tạc tượng khi họ yêu nhau, thường được gọi là những hình tượng yab-yum. Hình tượng này thường được sử dụng làm cơ bản cho tu tập suy niệm và thiền định, kể cả tự tưởng tượng khi cặp này đang yêu nhau. Sau một vài năm làm việc với những hình tượng này cá nhân tôi hoàn toàn bị thu hút bởi sức mạnh khai phóng và an lạc trong các biểu tượng này. Thay vì coi tình dục là một chuyện riêng tư và một cái gì đó rắc rối, có lẽ là sự xoá tội, tình dục cần phải được mô tả công khai như một biểu tượng của chân lý tôn giáo thâm sâu nhất và như một thực tập thiền định cho việc phát triển sự giác ngộ bẩm sinh của con người 

Một trong những ám chỉ sâu xa nhất cuả hình tượng yab-yum và chủ điểm của nó là mối quan hệ nền tảng của con người, thực tại này thường được biểu tượng hoá nhu là mối quan hệ chồng vợ bình đẳng, nam và nữ được coi như hai người bạn đời, cùng hợp tác và cùng chung vui với nhau. Điều này tương phản rõ nét với khuynh hướng nhằm giới hạn biểu tượng tôn giáo trong mối quan hệ cha mẹ với con cái hoặc là như giửa Đức Chúa Cha và Con hay Đức Mẹ va Con. Đây là điểm quen thuộc trong các truyền thống tôn giáo. Nó cũng tương phản mạnh mẽ đối với sự ghê tởm của tình dục kỳ diệu, mà cũng là một vấn đề trong các tôn giáo này. Ngườì ta phải suy đoán rằng ca ngợi công khai tình dục như là kinh nghiệm thiêng liêng và tạo thông cảm và chuyển hoá sâu xa giữa đôi bạn tâm linh, nó sẽ làm suy giảm đáng kể thuyết cổ vu sinh sản, mà thuyết này dựa trên niềm tin tình dục mà không sinh sản là sai lầm. 

Trong phạm vi những quan hệ nhân sinh hơn là những biểu tượng tôn giáo- tới một chừng mực mà cả hai có thể tách ra được-, biểu tượng này, theo Kim Cang Thừa Phật Giáo, đã dẩn nam và nữ đến một khà năng kết hợp thành đôi vợ chồng cùng trong tâm linh và cùng theo một pháp môn. (Vấn đề đồng tình luyến ái có thể được không là một câu hỏi khó trả lời). Mối quan hệ như thế không phải là những thoả thuận riêng tư thông thường hoặc dự phóng lãng mạn và khao khát, mà là một tình bạn đồng song, một sự giúp đở lẩn nhau trên con đường tu tập tâm linh. Tình dục được coi như một yếu tố nội tại, nhưng không hẳn là nề tảng cho một mối quan hệ như thế. Dầu tương đối bí truyền, mối quan hệ này đã và đang được công nhận và đề cao trong Kim Cang Thừa Phật Giáo Bắc Ấn Độ cũng như Phật Giáo Tây Tạng. Phật Tử Tây Phương bắt đầu khám phá hoặc khám phá lại tiềm năng này, một khả năng kết hợp vợ chồng như một mối quan hệ đồng môn giữa hai con người cùng tìm kiếm một con đường và cũng là một phương cách tìm hiểu và cảm thông với Ềtha nhânỂ sâu thẩm trong thế giới hiện tượng. Xưng tụng mối quan hệ này sẽ làm giảm đi đáng kể những thành kiến cuả giới đề cao sinh sản khi đề cập tới vai trò tình dục trong đời sống con người, cũng như đóng góp quan trọng vào việc tạo lập một khuôn mẩu trong tình tương quan đầy lành mạnh, trân trọng và bình đẳng giữa nam nữ.   

Tác phẩm và tác giả | Đại ý | 1 | 2 | 3 | 4 |

 


Vào mạng: 5-10-2004

Trở về mục "Diễn đàn"

Đầu trang