- Kinh Duy-ma
- Hòa thượng Thích Trí Quang dịch
giải
4
Nhìn Phật
Bất Động [^]
Đức Thế tôn hỏi trưởng giả
Duy ma, rằng trưởng giả muốn thấy Như lai, mà thấy Như lai bằng cách
nào? Trưởng giả thưa, con nhìn thấy thật tướng thân con thế nào thì
nhìn thấy đức Thế tôn cũng y như vậy. Con nhìn thấy đức Thế tôn trước
không đến, sau không đi, hiện không đứng. Con không nhìn thấy sắc, sắc
như, sắc tánh, không nhìn thấy thọ, tưởng, hành, thức, thức như, thức
tánh. Không phát sinh từ bốn đại chủng. Đồng đẳng không gian. Sáu quan
năng không dồn chứa. Đã siêu viêểt sáu quan năng. Không ở trong ba cõi.
Thoát ly ba thứ dơ bẩn (38) . Thuận theo ba cửa giải thoát. Toàn hảo ba
minh trí. Đồng đẳng vô minh. Không đồng nhất, không mâu thuẫn, không chủ
thể, không khách thể. Không phải khái niệm không, không phải khái niệm
chấp thủ. Không ở bờ bên này, không ở bờ bên kia, không ở giữa
dòng, vậy mà hóa độ chúng sinh. Quan sát tịch diệt mà không vĩnh diệt.
Không phải cái này, không phải cái kia, không lấy cái này, không lấy cái
kia. Không phải nhận biết bằng trí, không phải nhận thức bằng thức.
Không tối, không sáng. Không tên, không tướng. Không mạnh, không yếu.
Không sạch, không dơ. Không thuộc phương hướng, không tách phương hướng.
Không phải hữu vi, không phải vô vi. Không chỉ thị, không phô diễn.
Không phải bố thí hay keo lẫn. Không phải trì giới hay phạm giới. Không
phải nhẫn nhục hay sân hận. Không phải tinh tiến hay biếng nhác. Không
phải định ý hay loạn động. Không phải trí tuệ hay ngu si. Không thật,
không dối. Không đến, không đi. Không ra, không vào. Tất cả con đường
nói năng đều bị cắt đứt. Không phải ruộng phước hay phi ruộng phước.
Không phải thích ứng hiến cúng hay phi thích ứng hiến cúng. Không lấy,
không bỏ. Không có, không không. Đồng đẳng chân tế, bình đẳng pháp
tánh. Không thể cân, không thể lường, vượt quá mọi sự cân lường. Không
lớn, không nhỏ. Không thấy, không nghe, không hay, không biết. Thoát ly kết
buộc. Đồng đẳng trí giác. Bình đẳng chúng sinh. Với các pháp thì
không phân biệt. Không đánh mất, không dơ bẩn, không bực tức, không
thao tác, không phát động, không phát sinh, không hủy diệt, không e sợ,
không lo buồn, không vui mừng, không chán nản. Không đã có, không sẽ có,
không đang có. Không thể phân biệt biểu thị bằng mọi thứ ngôn ngữ. Bạch
đức Thế tôn, thân thể của Ngài là như vậy. Nên nhìn thấy như vậy.
Nhìn thấy như vậy là nhìn chính xác, nhìn thấy khác đi là nhìn sai lầm.
Lúc ấy tôn giả Xá lợi phất hỏi
trưởng giả Duy ma, trưởng giả chết từ thế giới nào mà sinh đến thế
giới này? Trưởng giả Duy ma hỏi lại, pháp của tôn giả được có chết
có sinh không? Không, tôn giả Xá lợi phất trả lời như vậy. Trưởng giả
Duy ma nói, nếu pháp không chết không sinh thì sao tôn giả lại hỏi con chết
ở đâu sinh đến đây. Thưa tôn giả, ý của tôn giả nghĩ thế nào, nhà
ảo thuật biến ảo ra nam nữ, thì có thể gọi nam nữ ấy là chết và
sinh không? Tôn giả Xá lợi phất nói không có chết và sinh gì cả. Kính bạch
tôn giả, ngài nghe Phật dạy các pháp đều như huyễn ảo chăng? Tôi nghe
đúng như vậy. Vậy, các pháp như huyễn ảo thì sao tôn giả lại hỏi con
chết ở đâu sinh đến đây. Kính bạch tôn giả, chết là bại hoại một
cách dối trá, sinh là liên tục một cách dối trá. Bồ tát chết mà không
chết gốc lành, sinh mà không sinh rễ ác. Bấy giờ đức Thế tôn bảo
tôn giả Xá lợi phất, có một thế giới tên là Diệu hỷ, đức Phật giáo
chủ hiệu là Bất động (39) . Trưởng giả Duy ma mất ở thế giới ấy mà
sinh đến thế giới này. Tôn giả Xá lợi phất thưa, thật là chưa từng
có, bạch đức Thế tôn. Vị trưởng giả này bỏ được thế giới thanh
tịnh mà sinh đến thế giới lắm điều tai hại này. Trưởng giả Duy ma nói
với tôn giả Xá lợi phất, tôn giả nghĩ thế nào, khi ánh sáng mặt trời
xuất hiện thì có ăn nhập với bóng tối không? Không, ánh sáng xuất hiện
thì bóng tối không còn. Mặt trời vì sao vận hành ở đại lục Diêm
phù? Vì muốn chiếu ánh sáng mà trừ bóng tối. Bồ tát cũng vậy, tuy sinh
thế giới dơ bẩn mà để giáo hóa chúng sinh, hủy diệt phiền não ám chướng
cho chúng sinh, chứ không phải ăn nhập với ám chướng.
Bấy giờ đại hội khao khát muốn
thấy thế giới Diệu hỷ, thấy đức Bất động như lai, thấy bồ tát
và thanh văn của thế giới ấy. Đức Thế tôn biết ý nghĩ của đại hội,
nên bảo trưởng giả Duy ma, rằng Thiện nam tử, hãy hiển thị cho đại hội
này về thế giới Diệu hỷ, về đức Bất động như lai, về bồ tát và
thanh văn của thế giới ấy. Đại hội này ai cũng muốn được nhìn thấy.
Trưởng giả Duy ma nghĩ mình đừng đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi ở đây
mà tiếp lấy thế giới Diệu hỷ, bao gồm thiết vi, núi sông, khe hang,
rào thác, biển cả, suối nguồn, tu di, thái dương, nguyệt cầu, tinh tú,
chư thiên, long chúng, quỉ chúng, thần chúng, cung điện Phạn thiên v/v; bao
gồm bồ tát, thanh văn, thành thị, thôn xóm, nam nữ, lớn nhỏ; đến cả
đức Bất động như lai và cây bồ đề của ngài, những hoa sen quí, tất
cả những gì có thể làm việc Phật bất cứ ở đâu. Có ba đường cấp
từ Diêm phù đến Đao lợi. Do các đường cấp ấy mà chư thiên xuống lễ
bái đức Bất động như lai, nghe và tiếp nhận kinh pháp Ngài nói. Người
Diêm phù cũng đi bằng đường cấp ấy mà lên đến Đao lợi, thấy hàng
chư thiên. Thế giới Diệu hỷ hoàn thành tất cả thành quả như vậy. Trên
đến hữu đỉnh, dưới đến thủy luân, ta hãy dùng tay phải ngắt lấy,
rồi, như cái vòng của người thợ gốm (40) , ta đem nhập vào thế giới
này. Ta hãy làm như cầm vòng hoa mà hiển thị cho đại hội. Trưởng giả
Duy ma nghĩ như vậy rồi nhập chánh định, hiện thần lực, dùng tay phải
ngắt lấy thế giới Diệu hỷ để vào thế giới này. Những vị bồ
tát, thanh văn và chư thiên có thần thông thì cùng nói, dạ, bạch đức Thế
tôn, ai lấy chúng con đem đi, xin Ngài cứu cho. Đức Bất động như lai nói
không phải Như lai làm, mà làm việc này là thần lực của trưởng giả
Duy ma. Những người chưa được thần thông thì không hay không biết mình
đi đến đâu. Thế giới Diệu hỷ tuy nhập vào thế giới này mà thế giới
này không thêm không bớt, cũng không dồn ép. Thế giới này vẫn nguyên trạng,
không có gì khác lạ. Lúc ấy đức Thích ca thế tôn bảo cả đại hội,
các người hãy nhìn đức Bất động như lai của thế giới Diệu hỷ, nhìn
thế giới tráng lệ, bồ tát tịnh hạnh và thanh văn thanh bạch của Ngài.
Cả đại hội đều nói, dạ, chúng con đã nhìn thấy. Đức Thích ca thế
tôn lại nói, nếu bồ tát muốn được thế giới thanh tịnh như vậy thì
phải tu học theo đường đi của đức Bất động như lai. Khi thế giới
Diệu hỷ hiện ra thế giới Sa bà này thì có mười bốn na do tha người
phát tâm vô thượng bồ đề, cùng nguyện sinh về thế giới Diệu hỷ. Đức
Thích ca thế tôn liền thọ ký, rằng các người sẽ được về đó. Thế
giới Diệu hỷ ở thế giới Sa bà này làm những sự lợi ích đáng làm rồi,
trở về chỗ cũ. Đại hội ai cũng thấy như vậy.
Đức Thế tôn bảo tôn giả Xá lợi
phất, tôn giả nhìn thấy thế giới Diệu hỷ và đức Bất động như lai
rồi, phải không? Dạ phải, con đã nhìn thấy. Bạch đức Thế tôn, con
nguyện cho tất cả chúng sinh đều được tịnh độ như đức Bất động
như lai, đều được thần lực như trưởng giả Duy ma. Bạch đức Thế tôn,
chúng con được thiện lợi mới gặp người như vậy mà thân gần tôn
kính. Chúng sinh có ai, hoặc bây giờ, hoặc sau khi đức Thế tôn nhập diệt,
mà được nghe kinh pháp này thì cũng là đã được thiện lợi, huống chi
nghe rồi tin hiểu, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, giải
thích, làm đúng. Nếu tay ai cầm được cuốn kinh này thì thế là đã cầm
được kho tàng pháp bảo. Ai nghiên cứu, thuộc lòng, giải thích, làm đúng,
thì thế là đã được chư Phật hộ trì, nghĩ nhớ. Ai hiến cúng những
người như vậy thì nên biết thế là hiến cúng đức Thế tôn. Ai sao giữ
kinh này thì thế là nhà họ có Phật. Ai nghe kinh này mà tùy hỷ thì thế
là thủ đắc trí tuệ toàn giác. Ai tin hiểu kinh này, dầu một bài bốn
câu chỉnh cú mà thôi, rồi loan báo và giải thích cho người, thì người
ấy đã được thọ ký vô thượng bồ đề.
Hiến Cúng Bằng Pháp [^]
Bấy giờ từ trong đại hội, Đế
thích thưa với Phật, bạch đức Thế tôn, tuy con từ đức Thế tôn và
ngài Văn thù nghe đến hàng trăm hàng ngàn kinh điển, nhưng chưa hề nghe
được kinh điển nói về thần lực siêu việt và thật tướng quyết định
như thế này. Theo chỗ con hiểu ý hướng của đức Thế tôn, nếu có
chúng sinh nào nghe được kinh điển này, tin hiểu, tiếp nhận, ghi nhớ,
nghiên cứu, thuộc lòng, thì chắc chắn được pháp thật tướng quyết định
mà không còn nghi ngờ gì nữa, huống chi còn làm đúng theo kinh dạy. Người
như vậy thì đóng nẻo đường ác, mở cửa đường lành, thường được
chư Phật hộ trì, chiến thắng ngoại đạo, đàn áp ma quân, tu luyện tuệ
giác, ở yên đạo tràng, đi theo dấu đi của đức Thế tôn. Bạch đức
Thế tôn, nếu ai tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, làm đúng
kinh dạy, thì con và tùy thuộc của con hiến cúng, cung phụng. Bất cứ
thôn xóm, thành thị, núi rừng, đồng nội, chỗ nào có kinh điển này,
thì con và tùy thuộc của con vì nghe pháp mà đến chỗ ấy. Rồi ai chưa
tin thì con làm cho họ tin tưởng, ai tin rồi thì con giữ gìn cho họ. Đức
Thế tôn dạy, tốt lắm, Đế thích, tốt lắm, đúng như ông nói; Như lai
tùy hỷ với ông. Kinh điển này diễn nói một cách phong phú về vô thượng
bồ đề là tuệ giác bất khả tư nghị của chư Phật quá khứ vị lai
và hiện tại. Do vậy, Đế thích, thiện nam hay thiện nữ nào tiếp nhận,
ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, hiến cúng kinh điển này, thì thế là hiến
cúng chư Phật cả ba thì gian.
Đế thích, giả sử chư Phật đầy
cả đại thiên thế giới như mía, tre, lau, lúa, mè, rừng, rú. Nếu có thiện
nam hay thiện nữ nào, hoặc một kiếp, hoặc dưới một kiếp, cung kính
tôn trọng, tán dương hiến cúng chư Phật ấy, cung phụng những thứ để
sống yên ổn. Khi chư Phật ấy nhập diệt, thì đem toàn thân xá lợi của
mỗi ngài mà dựng những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu, chu vi bằng
một đại lục nhân loại, cao đến Phạn thiên, trụ biểu tráng lệ. Dùng
mọi thứ hoa, hương, vòng hoa, cờ, phan, âm nhạc, tất cả đều tinh tế bậc
nhất, hiến cúng một kiếp hay dưới một kiếp. Đế thích, ý ông nghĩ thế
nào, người ấy gieo trồng phước đức như vậy nhiều không ? Đế thích
thưa, nhiều lắm, bạch đức Thế tôn; phước đức của người ấy nói cả
trăm ngàn ức kiếp cũng không hết được. Đức Thế tôn dạy, Đế thích,
ông nên biết thiện nam hay thiện nữ nào nghe kinh điển nói về sự giải
thoát Bất khả tư nghị này, nghe rồi tin hiểu, tiếp nhận, ghi nhớ,
nghiên cứu, thuộc lòng, làm đúng, thì phước của họ hơn phước của
người trước. Tại sao như vậy, vì tuệ giác bồ đề của chư Phật đều
xuất phát từ kinh điển này; tuệ giác bồ đề vô hạn thì phước đức
của người ấy cũng vô hạn.
(41) Đức Thế tôn dạy Đế thích,
quá khứ vô số kiếp, bấy giờ có đức Phật danh hiệu Dược vương, bậc
Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp,
bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc
Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người,
bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời. Thế giới của Ngài tên
là Đại trang nghiêm, thời kỳ của Ngài tên là Trang nghiêm. Ngài sống
lâu hai mươi tiểu kiếp. Thanh văn tăng của Ngài có ba mươi sáu ức na do
tha. Bồ tát tăng của Ngài có mười hai ức. Đế thích, bấy giờ có vị
luân vương tên là Bảo cái, đủ bảy thứ quí báu, thống trị cả bốn
đại lục nhân loại. Luân vương có một ngàn người con, đẹp, khỏe, khả
năng chiến thắng mọi kẻ thù nghịch. Luân vương Bảo cái cùng thân quyến
hiến cúng đức Dược vương như lai, cung phụng mọi sự để sống yên
ổn, tròn đầy năm kiếp như vậy. Qua thì gian ấy, luân vương Bảo cái
nói với một ngàn người con, rằng các con hãy như ta, đem tâm trí sâu xa
mà hiến cúng đức Thế tôn. Cả ngàn người con vâng mạng phụ vương, hiến
cúng đức Dược vương tròn đầy năm kiếp, tất cả yên ổn. Trong số
ngàn người con, có một vương tử tên là Nguyệt cái, ngồi nghĩ một mình,
coi có cách gì hiến cúng hơn nữa. Do thần lực của đức Dược vương,
trong không gian có thiên nhân bảo, rằng Thiện nam tử, hiến cúng bằng
chánh pháp thì hơn hết mọi sự hiến cúng. Vương tử Nguyệt cái tức
thì hỏi hiến cúng bằng chánh pháp là thế nào? Thiên nhân nói, vương tử
nên đến hỏi đức Dược vương như lai. Ngài sẽ dạy đầy đủ cho
vương tử về sự hiến cúng bằng chánh pháp. Vương tử Nguyệt cái liền
đến đức Dược vương như lai, lạy ngang chân Ngài, rồi đứng qua một
phía, thưa rằng bạch đức Thế tôn, trong mọi sự hiến cúng, sự hiến
cúng bằng chánh pháp là hơn cả, vậy hiến cúng bằng chánh pháp là thế
nào? Đức Dược vương như lai dạy, Thiện nam tử, hiến cúng bằng chánh
pháp là kinh pháp sâu xa của Như lai thuyết ra, thế giới khó tin khó nhận,
tinh tế khó thấy, trong sáng không bẩn, không phải chỉ có tư duy phân biệt
mà có thể thủ đắc. Kinh pháp ấy thuộc về kho tàng chánh pháp của bồ
tát. Kinh pháp ấy được khuôn dấu tổng trì đóng dấu, đưa đến địa
vị Không còn thoái chuyển, hoàn thành sáu độ, khéo phân biệt nghĩa, thuận
bồ đề pháp, đứng trên các kinh. Kinh pháp ấy làm cho nhập vào đại từ
bi, xa ma quân, khử tà kiến, thuận theo đạo lý duyên khởi chứ không chấp
bản ngã, không chấp linh hồn, không chấp sinh thể, không chấp sinh mạng,
phù hợp với không, không tướng, không tác, không khởi. Kinh pháp ấy làm
cho chúng sinh ngồi đạo tràng, chuyển pháp luân, chư thiên long thần đều
tán dương, khen ngợi. Kinh pháp ấy làm cho chúng sinh nhập vào kho tàng Phật
pháp, thống nhiếp trí tuệ của hiền thánh, thuyết minh đường đi của bồ
tát. Kinh pháp ấy căn cứ vào thật tướng các pháp mà nói rõ vô thường,
đau khổ, không thật, không ngã, dứt bặt, cứu được chúng sinh phá giới.
Ma quân, ngoại đạo, và những kẻ tham trước, đều bị làm cho sợ hãi,
còn chư Phật hiền thánh thì ai cũng tán dương. Kinh pháp ấy chống khổ
sinh tử, chỉ vui niết bàn, do chư Phật trong mười phương ba đời tuyên
thuyết. Nếu nghe được kinh pháp như vậy mà tin hiểu, tiếp nhận, ghi nhớ,
nghiên cứu, thuộc lòng, dùng phương tiện lực mà phân tích, giải thích,
khai thị và giữ gìn kinh pháp như vậy cho chúng sinh, như thế gọi là hiến
cúng bằng chánh pháp. Lại nữa, đối với các pháp hãy thực tu đúng như
lời dạy. Hãy thích hợp mười hai duyên khởi mà tách rời tà kiến, được
vô sinh nhẫn. Quyết định không bản ngã, không sinh thể, nhưng đối với
quả báo duyên khởi thì không chống đối, không tranh biện, tách rời mọi
thứ sở hữu của bản ngã. Y theo nghĩa mà không y theo lời, y theo trí mà
không y theo thức, y theo kinh liễu nghĩa mà không y theo kinh không liễu nghĩa,
y theo pháp mà không y theo người. Thuận với thật tướng các pháp, không
hội nhập, không qui túc. Vô minh hủy diệt triệt để nên các hành cũng hủy
diệt triệt để, cho đến sinh hủy diệt triệt để nên lão tử cũng hủy
diệt triệt để. Hãy quan sát như vậy, như vậy duyên khởi không có cùng
tận, cũng không có phát khởi, như thế đó gọi là sự hiến cúng bằng
chánh pháp tối thượng. Đức Thế tôn bảo Đế thích, vương tử Nguyệt
cái từ nơi đức Dược vương như lai nghe pháp như vậy thì được đức
nhẫn nhu thuận, tức khắc cởi áo khoác quí báu và đồ trang sức mà hiến
cúng đức Dược vương như lai, rồi thưa Ngài, bạch đức Thế tôn, sau
khi Ngài nhập diệt, con sẽ làm theo sự hiến cúng chánh pháp mà hộ trì
chánh pháp. Nguyện xin đức Thế tôn đem uy thần mà thương tưởng xây dựng
cho con, làm cho con chiến thắng ma quân, tu hạnh bồ tát. Đức Dược
vương như lai biết tâm lý sâu xa của vương tử Nguyệt cái, nên thọ ký
rằng sau này ông sẽ là thành trì của chánh pháp. Đế thích, bấy giờ vương
tử Nguyệt cái thấy pháp thanh tịnh, nghe Phật thọ ký, nên đem đức tin
mà xuất gia, tu tập pháp lành. Tinh tiến không bao lâu, tỷ kheo Nguyệt cái
được năm thần thông, đủ bồ tát đạo, được tổng trì, hùng biện bất
tận. Sau khi đức Dược vương như lai nhập diệt, tỷ kheo Nguyệt cái sử
dụng thần thông, tổng trì và hùng biện của mình, trọn vẹn mười tiểu
kiếp phân bố pháp luân mà đức Dược vương như lai đã chuyển. Tỷ kheo
Nguyệt cái vì giữ gìn chánh pháp mà nỗ lực tinh tiến, nên chính cái
thân ấy đã làm cho trăm vạn ức người đứng nơi vô thượng bồ đề mà
không còn thoái chuyển, làm cho mười bốn na do tha người phát khởi một
cách sâu xa tâm chí thanh văn duyên giác, làm cho vô lượng chúng sinh được
sinh chư thiên. Đế thích, luân vương Bảo cái lúc ấy có phải ai đâu,
mà chính là vị đã được thành Phật với danh hiệu Bảo diệm như lai. Còn
ngàn vương tử là ngàn đức Phật trong Hiền kiếp, đầu tiên là đức Ca
la, cuối cùng là đức Lâu chí. Trong đó, tỷ kheo Nguyệt cái chính là bản
thân của Như lai.
Đế thích, hãy nhận thức cái điều
cốt yếu đó. Rằng trong mọi sự hiến cúng, hiến cúng chánh pháp mới
là tối thượng, mới là bậc nhất, không gì có thể sánh bằng. Do vậy,
Đế thích, hãy đem sự hiến cúng chánh pháp mà hiến cúng Như lai.
Ký Thác Từ Tôn [^]
Bấy giờ đức Thế tôn nói với
Di lạc đại sĩ, Như lai ngày nay đem cái pháp vô thượng bồ đề đã tập
hợp trong vô số kiếp mà ký thác cho đại sĩ. Kinh pháp như thế này, sau
khi Như lai nhập diệt, trong thời kỳ cuối cùng của Phật pháp, đại sĩ
hãy vận dụng thần lực mà lưu hành tại đại lục Diêm phù, đừng để
mất đi. Trong thời kỳ sau này, sẽ có thiện nam thiện nữ, có thiên long
quỉ thần, có càn thát bà, la sát, v/v, phát tâm vô thượng bồ đề, ưa
thích kinh pháp vĩ đại. Nếu để cho họ không nghe được kinh pháp như thế
này thì họ mất lợi ích tốt đẹp. Nếu họ nghe được kinh pháp như thế
này thì chắc chắn tin tưởng và thích thú nhiều lắm, phát tâm hiếm có,
đem đỉnh đầu của mình mà tiếp nhận, rồi tùy người thích ứng ích lợi
như thế nào mà giảng giải phong phú. Di lạc đại sĩ, nên nhận thức bồ
tát có hai sắc thái. Sắc thái thứ nhất là ưa thích văn từ hay ho. Sắc
thái thứ hai là không e ngại ý nghĩa sâu xa mà lại chính xác nhập vào.
Ưa thích văn từ hay ho là bồ tát mới tu học. Một cách không e ngại, nhập
vào kinh pháp sâu xa và không nhiễm trước như thế này, nghe rồi thì tâm
trí thanh tịnh, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, làm đúng
kinh dạy, thì nên nhận thức họ là bồ tát tu học đã lâu. Di lạc đại
sĩ, lại có hai điều nữa gọi là người mới tu học, không thể quyết
định đối với kinh pháp sâu xa này. Ấy là một, đối với kinh pháp sâu
xa này, chưa nghe thì nghe rồi kinh hoảng, hoài nghi, không thể thuận theo,
phỉ báng, không tin, và phát ngôn rằng kinh pháp này tôi chưa nghe nói đến
bao giờ, từ đâu mà có ra đây. Hai, gặp người hộ trì và giải thích
kinh pháp sâu xa này thì không những không chịu thân gần, tôn kính, phụng
sự, mà có khi còn công kích. Có hai điều như vậy thì biết đó là bồ
tát mới tu học, tự thương tổn, không thể thuần hóa tâm mình trong kinh
pháp sâu xa này. Di lạc đại sĩ, lại có hai điều nữa, bồ tát tuy tin hiểu
kinh pháp sâu xa này mà vẫn tự thương tổn, không thể thực hiện vô sinh
pháp nhẫn. Hai điều ấy, một là khinh dễ bồ tát mới tu học mà không
giảng giải cho họ, hai là tin hiểu kinh pháp sâu xa này mà lại phân biệt,
chấp trước.
Di lạc đại sĩ nghe đức Thế tôn
dạy như vậy thì thưa Ngài, bạch đức Thế tôn, thật là chưa từng có.
Như đức Thế tôn đã huấn dụ, con sẽ tránh xa những điều bất thiện
như vậy, kính giữ pháp vô thượng bồ đề mà đức Thế tôn đã tập hợp
trong vô số kiếp. Trong thì vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào tìm cầu
đại thừa, thì con sẽ làm cho chính tay của họ có được kinh pháp này.
Con sẽ đem lại cho họ sức mạnh ký ức, làm cho họ tiếp nhận, ghi nhớ,
nghiên cứu, thuộc lòng, loan báo và giải thích rộng rãi. Bạch đức Thế
tôn, sau này, trong thời kỳ cuối cùng của Phật pháp, nếu có ai có khả
năng tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, loan báo và giải thích
về kinh pháp này, thì nên nhận thức toàn là thần lực Di lạc xây dựng.
Đức Thế tôn dạy, tốt lắm, Di lạc, tốt lắm; như lời đại sĩ nói,
Như lai tùy hỷ cho đại sĩ.
Các vị bồ tát khác cũng chắp tay
mà thưa Phật, bạch đức Thế tôn, sau khi Ngài nhập diệt, chúng con cũng
lưu hành kinh pháp vô thượng bồ đề này trong mọi thế giới. Chúng con lại
mở mắt dắt đường cho những người thuyết pháp có được kinh pháp
này.
Lúc ấy bốn vị Thiên vương cũng
thưa Phật, bạch đức Thế tôn, bất cứ chỗ nào, thành thị hay thôn
xóm, núi rừng hay đồng nội, ở đâu có cuốn kinh pháp này, có người
nghiên cứu và thuộc lòng, loan báo và giải thích, thì chúng con sẽ huy động
thuộc hạ của chúng con, vì nghe pháp mà đến chỗ ấy, hộ trì người
ấy, làm cho trong phạm vi một trăm do tuần, không một ai rình được cơ hội
thuận tiện mà tác hại.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy tôn
giả A nan, tôn giả hãy tiếp nhận kính giữ kinh pháp này, lưu hành rộng
rãi. Tôn giả A nan thưa Phật, dạ, bạch đức Thế tôn, con nguyện tiếp
nhận và kính giữ kinh pháp chính yếu này. Bạch đức Thế tôn, kinh pháp
chính yếu này nên mệnh danh là gì? Đức Thế tôn dạy tôn giả A nan, kinh
pháp chính yếu này tên là Trưởng giả Duy ma tuyên thuyết, cũng tên là
Pháp môn giải thoát bất khả tư nghị. Tôn giả hãy tiếp nhận và kính
giữ như vậy.
Khi đức Thế tôn tuyên thuyết
hoàn tất kinh pháp này, thì trưởng giả Duy ma, đại sĩ Văn thù, tôn giả
Xá lợi phất, tôn giả A nan, v/v, cùng với chư thiên, nhân loại, tu la, tất
cả đại hội nghe những điều đức Thế tôn tuyên thuyết, ai cũng rất
hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhận và phụng hành.
22.10.2535
Viết Tắt [^]
- La : La thập
- Huyền : Huyền tráng
- Triệu : Tăng triệu
- Cơ : Khuy cơ
Ghi Chú [^]
- Ghi Chú (1)
- Triệu giải: đại trí là nhất thế chủng trí,
bản hạnh của đại trí là lục độ, lục thông. Huyền dịch: nghiệp đại
thần thông.
-
- Ghi Chú (2)
- Là Thiên đế thích hay Đế thích.
-
- Ghi Chú (3)
- Nói rõ là chánh định tụ: người đã chắc chắn
thuộc nhóm đã theo chánh pháp - Trái lại là tà định tụ.
-
- Ghi Chú (4)
- Đọc niệm xử (= niệm trú) đúng hơn.
-
- Ghi Chú (5)
- Huyền dịch: khéo nói mật ý.
-
- Ghi Chú (6)
- Tham khảo Huyền dịch mà dịch. Nếu theo Triệu
giải thì chỉ là tham gia tư pháp.
-
- Ghi Chú (7)
- La giải: không phải như nội quan của Tàu, mà
ở Ấn độ dùng những người nhiều đời trung lương, kỳ cựu và có đức
để làm nội quan dạy bảo cung nữ.
-
- Ghi Chú (8)
- Sinh mệnh (thọ, thọ giả tướng), tái sinh (bổ
đặc dà la: nhân, nhân tướng).
-
- Ghi Chú (9)
- Động lực (phong đại, động).
-
- Ghi Chú (10)
- La giải: là giếng khô trên gò. Xưa có tội nhân
chạy trốn, bị cho voi say đuổi theo. Cấp bách quá, người này nhảy xuống
giếng khô. Lưng chừng giếng có 1 cái giây cỏ mục, người ấy nắm lấy.
Dưới có rồng độc ngước lên, ngang người có 5 rắn độc muốn cắn. Lại
có 2 con chuột gặm nhấm giây cỏ mục. Giây cỏ sắp đứt, voi say đã đến
ở trên. Nguy khốn cùng cực như vậy thì trên giếng có cây, từ cây ấy
rơi xuống những giọt mật, vào miệng người ấy: người ấy quên cả
nguy khốn. Giếng là sinh tử. Voi say là vô thường. Rồng độc là đường
dữ, 5 rắn độc là 5 uẩn, giây cỏ mục là sinh mệnh, 2 con chuột là
ngày tháng, những giọt mật là ngũ dục. Huyền dịch và Cơ giải: như cấp
bậc xuống giếng. Ấn độ xưa làm giếng, xoi giếng đặt ván làm cấp bậc
để xuống lấy nước. Cấp bậc ấy rất dễ hỏng.
-
- Ghi Chú (11)
- Chính văn là đệ tử. Thanh văn là nghe tiếng
nói của Phật mà ngộ đạo, vậy thanh văn chính nghĩa là đệ tử.
-
- Ghi Chú (12)
- Sinh thể: chúng sinh. Sinh mệnh: thọ mạng. Tái
sinh: nhân.
-
- Ghi Chú (13)
- La giải: tiếp xúc là chứng đắc.
-
- Ghi Chú (14)
- Huyền dịch: đem pháp tánh bình đẳng vô gián
mà nhập giải thoát.
-
- Ghi Chú (15)
- Có bản chép thêm: không không thủ đắc đaÍo quả.
-
- Ghi Chú (16)
- Dám xuất gia trong ngoại đạo, với sự hết lòng
hóa cải cho họ.
-
- Ghi Chú (17)
- Nói tổng quát, đây là những nghịch hành mà có
khi vì sự ích lợi chúng sinh và Phật pháp buộc phải làm như vậy.
-
- Ghi Chú (18)
- Phi thời ở đây là công hạnh chưa đủ mà mong
kết quả có được, là chưa cùng cực 3 giải thoát môn mà nửa đường
thủ chứng. La giải và Triệu giải như vậy.
-
- Ghi Chú (19)
- La giải là cái mừng được thiền định và cái
mừng chứng thật tướng.
-
- Ghi Chú (20)
- Dịch sát chính văn là không nói tội nhập vào
quá khứ. La giải và Triệu giải : không nói tội thường còn, di chuyển từ
vị lai đến hiện tại, từ hiện tại vào quá khứ. Huyền dịch đơn giản:
không nói tội có di chuyển.
-
- Ghi Chú (21)
- La giải: pháp là thường lạc ngã tịnh của vọng
tưởng. Bịnh là vọng tưởng. Nói không có pháp ấy, không có nghĩa pháp
ấy có mà làm cho không đi, mà là không đi, trừ khử đi cái vọng tưởng.
-
- Ghi Chú (22)
- Phan duyên (níu vin) là mô tả sự biết.
-
- Ghi Chú (23)
- Triệu giải: chưa thâm nhập thật tướng, thấy
có chúng sinh (kiến) mà sinh yêu thương (ái).
-
- Ghi Chú (24)
- Vòng (luân) chính nghĩa là bánh xe, nhưng có lẽ dịch
là vòng thì đúng hơn. Tôi không rõ kyՠthuật làm gốm, nên không rõ dụng
cụ và cách sử dụng dụng cụ này. Cũng không có giải thích nào rõ
ràng. Đại khái đó là dụng cụ trong tay phải của người thợ gốm, xoay
rất nhanh, phóng ra lại trở lại.
-
- Ghi Chú (25)
- Đúng chính văn, và tham chiếu Huyền dịch, thì
phải dịch "chịu nổi". Nhưng tôi muốn chuyển ý nên dịch
"làm được".
- Ghi Chú (26)
- Chính văn là Phật đạo. Danh từ này có nghĩa là
tuệ giác của Phật, là đường đi của Phật... Tôi lấy nghĩa thứ hai, vì
hợp với văn ý của phẩm này hơn. Huyền dịch là bồ đề phần, tức giác
phần, quá xa văn ý phẩm này. Nhưng câu mở đầu, Huyền dịch: Lúc ấy
ngài Diệu cát tường hỏi ngài Vô cấu xưng, bồ tát làm sao trong Phật
pháp đến được nẻo đường rốt ráo? Ngài Vô cấu xưng thưa, nếu bồ
tát đi theo nẻo đường không nên đi thì trong Phật pháp mới được rốt
ráo. Chính lời dịch này cho thấy cái đề Phật đạo xác đáng hơn, và
đề ấy dịch là đường đi của Phật hơn là dịch tuệ giác của Phật.
-
- Ghi Chú (27)
- La giải: là được vô sinh pháp nhẫn.
-
- Ghi Chú (28)
- Triệu giải: là các đạo giáo. Chính văn là chư
đạo, có thể hiểu và dịch là các đường sinh tử, là các đạo giáo.
Tôi chọn nghĩa thứ nhất.
-
- Ghi Chú (29)
- Huyền dịch: chân lý.
-
- Ghi Chú (30)
- La giải: không bẩn nhưng tắm cho mát (cho hết chướng
ngại).
-
- Ghi Chú (31)
- Chính văn là nhất tâm. Huyền dịch là bồ đề
tâm, chính xác hơn nên tôi chọn.
-
- Ghi Chú (32)
- Huyền dịch: ý thích siêu việt (thắng ý lạc).
-
- Ghi Chú (33)
- Huyền dịch: lấy sự sống trong sạch mà làm chăn
gối.
-
- Ghi Chú (34)
- 3 chỉnh cú 24 - 26 này là nói về tam tai: đao
binh, tật dịch, cơ cẩn. (chiến tranh, nhiễm độc, nhân mãn).
-
- Ghi Chú (35)
- Số lượng = các hành, đối chiếu Huyền dịch mà
biết như vậy.
-
- Ghi Chú (36)
- 8 pháp này phân theo Huyền dịch.
-
- Ghi Chú (37)
- Triệu giải: thiền định tuy vui nhưng ở yên
trong ấy thì đại đạo bất thành, nên thấy như địa ngục. La giải: Thiền
định có 3: của đại thừa, của nhị thừa và của phàm phu. Phàm phu thì
ngã mạn, nhị thừa thì tự lợi, toàn là phá hoại đạo căn vô thượng,
nên bồ tát coi như địa ngục.
-
- Ghi Chú (38)
- Thái hư giải: là hoặc, nghiệp, khổ.
-
- Ghi Chú (39)
- Chính văn là Vô động. Vô động cũng dịch là Bất
động mà phổ thông hơn.
-
- Ghi Chú (40)
- Coi lại ghi chú 24 .
-
- Ghi Chú (41)
- Đoạn này là phụ lục 3 của bản dịch Pháp hoa
của tôi, nhưng phụ lục 3 ấy là trích Pháp hoa bản Tấn dịch (Chính
9/99-100).
-oOo-
Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết
Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help
File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ 29-4-2000
Tổng Quan | Phần I | Phần II | Phần III | Phần IV |