Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Kinh Bát Đại Nhân Giác
Thích Viên Giác dịch và giải

1


Lờigiới thiệu

Hơn 2542 năm tồn tại và phát triển cùng nhân loại, triết lý Phật giáo được hình dung như một cội cây đang phát triển với đầy đủ cội gốc, thân, cành lá và hoa trái. Như thế khi truyền bá giảng dạy Kinh điển Phật giáo phải thể hiện tính chất thống nhất, dung thông các hệ tư tưởng Phật giáo và hướng đến giác ngộ giải thoát cho mọi người.

Những giáo án giảng dạy như thế ở Việt Nam ta còn rất hiếm. Thường do chúng ta chưa tổ chức được nhân sự chuyên trách hoặc do người làm công tác giảng dạy chưa được đào tạo đầy đủ, thiếu tài liệu, phương tiện và thiếu công phu để soạn giáo án. Vì tinh thần trách nhiệm, Đại đức Viên Giác lại dành nhiều tâm huyết để soạn thảo giáo án giảng dạy Kinh Bát Đại Nhân Giác cho Tăng Ni sinh Trường Cơ Bản Phật học Long An. Ban giám hiệu chúng tôi đã tham khảo và nhất trí chọn giáo án nầy với những đặc điểm sau :

1- Nội dung bố cục có khoa học, văn dịch sáng sủa, nghĩa lý súc tích, giáo lý kết hợp phong phú.

2- Qua chương một tác giả trình bày xuất xứ Kinh và so sánh với Kinh điển tương đồng, thể hiện tính chất dung thông các hệ tư tưởng Phật giáo.

3- Phần giảng dạy nghĩa lý Kinh thể hiện tính chất triết lý ứng dụng vào đời sống hằng ngày.

4- Tài liệu có thể phổ biến rộng rãi cho Tăng Ni, Phật tử nghiên cứu, học hỏi áp dụng tu tập.

Vậy chúng tôi xin tán dương công đức người biên soạn và trân trọng giới thiệu đến quí vị Tăng Ni, Phật tử đồng hưởng ứng tham khảo và cảm nhận điều lợi ích.

Mùa An Cư Kiết Hạ PL. 2542-DL. 1998
Hiệu Phó Học Vụ
Trường Cơ bản Phật học Long An
Tỳ Kheo Thích Minh Thiện

Dàn bài
CHƯƠNG I: NHẬN THỨC TỔNG QUÁT
--- o0o ---
I. Tác giả soạn dịch kinh Bát Đại Nhân Giác.
II. Xuất xứ của kinh.
III.Liên hệ kinh Bát Đại Nhân Giác và kinh Bát Niệm.
1. Những điểm giống nhau.
2. Những điểm khác nhau.
IV.Giới thiệu nội dung Kinh Bát Niệm của Trung A- Hàm.
V. Vài điều giải thích
1. Đối với Tăng Chi
2. Đối với kinh Di Giáo
3. Vấn đề vô dục
4. Vấn đề đời sống viễn ly
5. Vấn đề không hý luận.

CHƯƠNG II
KINH BÁT ĐẠI NHÂN GiÁC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
BÀI I : Trách nhiệm của người Phật tử
B. PHẦN NỘI DUNG
BÀI II : Điều giác ngộ thứ nhất
TU TỨ NIỆM XỨ
BÀI III : Điều giác ngộ thứ hai
TU HẠNH THIỂU DỤC
BÀI IV : Điều giác ngộ thứ ba
TU HẠNH TRI TÚC
BÀI V : Điều giác ngộ thứ tư
TU HẠNH TINH TẤN
BÀI VI : Điều giác ngộ thứ năm
TU HẠNH TRÍ TUỆļ/dt>
BÀI VII: Điều giác ngộ thứ sáu
TU HẠNH BỐ THÍ
BÀI VIII:Điều giác ngộ thứ bảy
TU HẠNH LY NHIỄM
BÀI IX : Điều giác ngộ thứ tám
TU HẠNH LỢI THA TUYỆT ĐỐI
C . PHẦN KẾT THÚC
BÀI X : Lời khích lệ tu tập
D . THAY LỜI KẾT LUẬN
Giới thiệu mẫu người lý tưởng

CHƯƠNG I:
NHẬN THỨC TỔNG QUÁT

I. TÁC GIẢ SOẠN DỊCH KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC

Kinh Bát Đại Nhân Giác do Ngài An Thế Cao dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán vào thời Hậu Hán đời vua Hán Tuyên Đế, niên hiệu Kiến Hòa năm thứ hai (147. TL).Ngài là Thái tử nước An Tức (nay là Ba Tư ). Ngài còn có tên là An Thanh hay An Hầu , nhường ngôi vua cho chú mà đi xuất gia. Ngài là một người con hiếu hạnh, kiến thức uyên bác, thông thiên văn địa lý , y dược và châm cứu. Đối với Phật học Ngài thông hiểu Tam Tạng Kinh Luật Luận nhất là đối với thiền học, đặc biệt Ngài hiểu cả tiếng chim thú. Ngay khi còn ở tại gia Ngài đã giữ gìn giới pháp tinh nghiêm, thâm cảm lẽ vô thường của đời sống, chí nguyện xuất gia canh cánh bên lòng. Vì vậy, sau khi mãn tang cha Ngài nhường ngôi cho chú. Đây là một yếu tố quan trọng : Ngài thấu hiểu vai trò người cư sĩ tại gia vẫn có thể tu hành thanh tịnh và làm lợi ích chúng sanh. Cũng có lẽ vì vậy mà Ngài đã thiết lập hướng đi kinh Tám điều Giác ngộ của Bậc Đại Nhân có đường lối tu tập đặc biệt so với kinh Nguyên thủy.

Ngài An Thế Cao đến Trung Hoa bằng đường biển vào năm 146-147, là người đầu tiên dịch số lượng kinh sách lớn ra Hán văn, nhất là các kinh sách về tu thiền. Vì vậy, Ngài được coi là người lập ra thiền tông vào thời kỳ đầu của Phật giáo Trung Hoa. Mặc dù đến Trung Hoa Ngài mới học Hán văn nhưng khả năng dịch thuật của Ngài rất chính xác như Ngài Đạo An nhận xét : "Trước sau truyền dịch đa số lầm lẫn,duy của Ngài dịch đứng đầu tất cả" (HT Trí Quang).Được như vậy là nhờ Ngài thành lập những bộ phận chuyên môn dịch kinh sách một cách có hệ thống. Cuộc đời của Ngài có nhiều kỳ tích đặc biệt như Ngài biết trước những duyên nghiệp của mình, Ngài đã sắp đặt mọi việc để kết thúc đời mình: "Ngài nhờ người bán rương thuê một người giúp việc và đặt tên cho người ấy là Phước Thiện,Ngài nói là "Thiện tri thức" của ta. Quả nhiên về sau người nầy đâm bên hông của Ngài và Ngài mất" (Trí Quang- Dịch giải Kinh Bát Đại Nhân Giác ) .

Ngài ở Trung Hoa hơn hai mươi năm (147-171) chuyên dịch kinh số lượng dịch từ 34 đến 40 bản chia làm hai loại : kinh tạng và các tác phẩm tu tập thiền định ,tiêu biểu như Kinh An Ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập, A Tỳ Đàm, Ngã pháp Tứ Đế, Thập nhị nhân duyên, Chuyển pháp luân, Bát thánh đạo, Thiền hành pháp tưởng, Tu Hành đạo…. Ngài được coi là vị Tổ khai sơn của Phật giáo Trung Hoa.

II. XUẤT XỨ

Kinh Bát Đại Nhân Giác do Ngài An Thế Cao dịch vào thế kỷ thứ II. Mặc dù gọi là kinh nhưng không phải là một bản kinh theo truyền thống, tức là có Phật thuyết và đối tượng nghe thuyết, mà chỉ là những Phật ngôn hay những bài kệ cô đọng được rút ra từ kinh tạng, hoặc từ những ý nghĩa giáo pháp tâm đắc của tác giả. Hòa thượng Trí Quang trong tác phẩm: " Dịch giải kinh Tám Điều Thượng Nhân giác ngộ" nhận định : "Kinh nầy trích lục Phật ngôn mà tập thành không phải là một pháp thoại tức là một bản kinh. Do đó mà có bản ghi là " Hiền Thánh Đất Ấn biên tập". Tôi ước lượng có thể chính tác giả trích và dịch thành kinh nầy".(sđd). Đồng với quan điểm trên, H-T Thanh Từ cũng nhận xét : Ngài (An Thế Cao ) phương tiện rút từng phần tinh yếu của Phật pháp trong nhiều bộ kinh mà dịch, phân ra thứ nhất, thứ hai, thứ ba…. đến thứ tám tập thành kinh Bát Đại Nhân Giác để cho người mới phát tâm tu học, dễ nắm được những điểm cần yếu trong Phật pháp" (K. Bát Đại Nhân Giác giảng giải, NXB Thuận Hoá- Huế 1996 ).

Như vậy, bản Kinh Bát Đại Nhân Giác được xác định là trích lục từ các Phật ngôn ở trong các kinh, tác giả của việc trích lục và sắp xếp từ một đến tám là do chính Ngài An Thế Cao dịch và soạn.

Một vấn đề đặt ra là Ngài trích lục biên soạn từ kinh nào ? Tại sao lại tám điều chứ không bảy hay chín ?

Chúng tôi cho rằng Ngài An Thế Cao không hoàn toàn tự ý trích lục hay sáng tác mà có cơ sở để Ngài dựa vào đó mà xây dựng tám điều giác ngộ của Bậc Đại Nhân. Cơ sở nầy chính là kinh tạng A- Hàm ; chính xác là Kinh Bát niệm, tức là kinh tám điều suy niệm của Bậc Đại Nhân. Nội dung của kinh Bát niệm nêu lên tám điều suy niệm của một người trên đường giải thoát, nhờ suy niệm quán chiếu tám điều ấy mà được chứng đạt chân lý tối hậu. Tương đương với kinh Bát niệm của Trung A Hàm, kinh Tăng Chi (Anguttara Nikàya) chương tám pháp, phẩm Gia chủ, mục Anuruddha cũng đưa ra tám điều tư niệm của Bậc Đại Nhân, nội dung hoàn toàn giống nhau, đều thuộc về kinh Tạng Nguyên thủy. Cần nói thêm rằng trong Di Giáo tám công đức xuất thế chính là tám điều tư niệm nầy.

Như vậy, có thể nói Kinh Bát niệm của Trung A-Hàm và Kinh Anuruddha (Sutta) của Tăng Chi cũng như nhiều Kinh khác tương đương trong hệ thống Kinh tạng Nguyên thủy, đã làm cơ sở cho Ngài An Thế Cao soạn dịch Kinh Bát Đại Nhân Giác ra Hán văn.
III. LIÊN HỆ CÁC KINH BÁT NIỆM, ANURUDDHA SUTTA
VÀ KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
  1. Những điểm giống nhau
  1. Đề kinh : Kinh Bát Đại Nhân Giác dịch là Tám điều giác ngộ của Bậc Đại Nhân,kinh Bát niệm dịch là Tám điều suy niệm của Bậc Đại Nhân trong Anuruddha Sutta dịch là tám điều tư niệm của Bậc Đại Nhân. Từ giác ngộ, suy niệm hay tư niệm ý nghĩa là một. Kinh Bát Đại Nhân Giác có khi dùng Giác tri như điều một Giác ngộ, điều hai, ba bốn dùng Giác tri, điều năm Giác ngộ, điều sáu Giác tri, điều bảy Giác ngộ, điều tám Giác tri. Dùng từ ngữ Giác ngộ và Giác tri lẫn lộn có nghĩa là cả hai từ ngữ là một, cả hai đều chỉ cho trí tuệuán chiếu, là tư duy sâu sắc chớ không phải nhận thức thông thường. A-Hàm dịch Tư niệm hay Suy niệm cũng chỉ cho sự tư duy sâu sắc an trú đối tượng, là sự thấy rõ và thường xuyên đối tượng quán chiếu. Như vậy, Giác ngộ, Giác tri, Suy niệm, Tư niệm chỉ là một mà thôi.
  2. Tất cả các kinh trên đều dùng chữ Đại Nhân. Kinh Bát Niệm, Phật dạy : "Này A-na-luật-đà nếu thầy thành tựu tám suy niệm của Bậc Đại Nhân". Tăng Chi Phật dạy: "Này Anuruddha khi nào người suy nghĩ đến tám tư niệm nầy của Bậc Đại Nhân…."

    Như vậy đề kinh không có gì sai khác, có thể nói rằng đề Kinh Bát Đại Nhân Giác được dịch từ tám tư niệm của Bậc Đại Nhân trong kinh tạng Nguyên thủy.

  3. Nội dung kinh : Kinh Bát Đại Nhân Giác đưa ra tám điều thứ tự như sau :
    1. Tứ niệm xứ
    2. Thiểu dục
    3. Tri túc
    4. Tinh tấn
    5. Trí tuệ/li>
    6. Bố thí
    7. Yểm ly
    8. Tu Hạnh chịu thay. (lợi tha tuyệt đối)

Kinh Bát Niệm và Anuruddha Sutta :

    1. Vô dục (thiểu dục )
    2. Tri túc
    3. Viễn ly
    4. Tinh tấn
    5. Chánh niệm
    6. Định ý
    7. Trí tuệ/li>
    8. Không hý luận

Những điều giống nhau gồm có:

    1. Tu Tứ Niệm Xứ tương đương chánh niệm
    2. Thiểu dục tương đương thiểu dục hay vô dục
    3. Tri túc tương đương tri túc
    4. Tinh tấn tương đương tinh tấn
    5. Trí tuệương đương trí tuệ/li>
    6. 6. 7. và 8 không tương đương A Hàm và Nikàya

2. Những điểm khác nhau:

a.Về hình thức : Kinh Bát Đại Nhân Giác do Ngài An Thế Cao soạn dịch như một tác phẩm văn học trình bày ngắn gọn, ngôn từ văn vẻ, tương tự như những Phật ngôn của Kinh Pháp Cú , không nói riêng cho đối tượng cụ thể nào , không mang hình thức pháp thoại như những kinh truyền thống . Còn Kinh Bát Niệm và Anuruddha sutta là một thời pháp thoại do Đức Phật dạy trực tiếp Anuruddha và sau đó Ngài giảng rộng cho chúng Tỳ Kheo nên kinh mang hình thức truyền thống .

b.Về mặt nội dung : Kinh Bát Đại Nhân Giác có ba điều cuối là bố thí , yểm ly, tu chịu thay mà A Hàm không có . Ngược lại A Hàm có ba điều viễn ly , Định ý và không hý luận thì Kinh Bát Đại Nhân Giác không có .

Sự khác biệt giữa hai kinh qua ba điều trên nói lên sự khác biệt về xu hướng tu tập và hành đạo của Nguyên thủy và Đại thừa hay nói cách khác giữa một vị Tỳ Kheo và một vị Bồ Tát. Qua sự khác biệt trên chúng ta có một vài nhận xét sau :

Về căn bản tu tập thì cả hai kinh đều giống nhau, những đức tính căn bản của người tu hành gồm có : Thiểu dục, tri túc , chánh niệm, tinh tấn, trí tuệđều được đề cập trong hầu hết kinh tạng Phật giáo. Bởi vì đó là những bước đi phải có và đủ mới bước lên thánh đạo, dù là Nguyên thủy hay Đại thừa .

Con đường tu tập của Bát Đại Nhân Giác không qua thiền định. Trong khi đó yếu tố thiền định trong kinh Bát Niệm là chủ yếu. Mục tiêu của Phật là phát triển trí tuệkhả năng đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Có thể do định phát tuệ nhưng có thể do quán niệm mà phát tuệ hoặc cũng có thể do đại nguyện mà tuệ sanh. Con đường quán niệm và đại nguyện là con đường của Bát Đại Nhân Giác.

Hạnh bố thí là hạnh chung của người Phật tử không kể là tại gia hay xuất gia. Thông thường thì người xuất gia thực hành pháp thí, người tại gia thì thực hành tài thí. Bố thí là một trong sáu hạnh Ba La Mật trong truyền thống Đại thừa rất được nhấn mạnh. Người Phật tử tại gia có điều kiện hơn để bố thí, vì theo kinh văn thì chủ yếu là bố thí vật chất.

Hạnh yểm ly hay ly nhiễm chính là xa rời năm dục, đối với người xuất gia thì đây là bước đầu, nhưng đối với người tại gia là bước quan trọng vì họ sống giữa thế tục, kinh văn đặt vấn đề nầy vào vị trí thứ bảy tức rất coi trọng nó. Cho nên hạnh nầy như là dành cho người cư sĩ, chính cư sĩ mới dấn thân vào cuộc sống để thực hành Bồ Tát hạnh, họ sống thế nào để như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Hạnh tu chịu thay là nguyện thay cho chúng sanh chịu khổ để cho chúng sanh được hạnh phúc, đây là hạnh lợi tha tuyệt đối, là lý tưởng của Bồ Tát, là một hạnh nguyện vĩ đại, phải là người có tâm từ bi lớn và trí tuệớn mới thực hành nổi. Một trong những Bồ Tát tiêu biểu cho hạnh nầy là Bồ Tát Địa Tạng. Ngài Địa Tạng phát đại nguyện rằng khi nào địa ngục hết chúng sanh thọ khổ Ngài mới thành Phật. Con đường Bồ Tát rất coi trọng về nguyện lực, từ nguyện lực mà tuệ giải thoát sinh và dĩ nhiên công hạnh tu tập phù hợp với người cư sĩ tại gia sống trong biển khổ. Đây là pháp môn tu tập đặt biệt của Phật Giáo.

Tóm lại ba hạnh sau cùng của kinh Bát Đại Nhân Giác biểu hiện hành động của một vị Bồ tát đi vào cuộc đời hóa độ chúng sanh, chúng ta cũng nhận thấy rằng hình ảnh một vị Tỳ Kheo rất khó xông xáo vào đời sống, vị cư sĩ có nhiều điều kiện hơn. Tôi có cảm tưởng rằng tác giả đã gửi gắm lý tưởng nầy cho người cư sĩ hơn là người xuất gia. Hòa thượng Tinh Vân, trong tác phẩm " Mười bài giảng kinh Bát Đại Nhân Giác" Ngài nói : " Phần đông các Đại đức đều thừa nhận kinh nầy rất thích hợp cho hàng Phật tử tại gia thọ trì …. Theo tôi ( Ngài Tinh Vân ) nghĩ, kinh này là một quyển bảo điển tối trân quý để kiến lập nhân sinh Phật giáo, tu học tại gia Phật giáo" ( Minh Quang dịch ). Mẫu người lý tưởng của Bát Đại Nhân Giác là một người cư sĩ thực hiện lý tưởng giải thoát ngay trong đời sống vốn nhiều ô nhiễm và khổ đau. Đó là mẫu người tiêu biểu cho hạnh nguyện và giải thoát. Trong Phật Giáo đại thừa Bồ Tát cư sĩ được đề cao như trường hợp Duy Ma Cật, vị trí của ông được coi là siêu việt hơn các vị Bồ Tát xuất gia. Phật Giáo Bắc Tông, Tỳ Kheo thường thọ thêm Bồ Tát Giới nhưng rõ rằng là hoạt động rất hạn chế. Trong Bồ Tát Giới cũng dành khá nhiều giới được coi là của người cư sĩ. Sự bao hàm đường lối của người xuất gia và tại gia vào trong con đường Bồ Tát hạnh làm cho các tác phẩm Đại thừa trở nên bao quát, phong phú, rộng rãi nhưng cũng tạo ra một vài trường hợp thiếu nhất quán.

Đối với ba đức tính thuộc A- hàm và Nikàya mà Bát Đại Nhân Giác không có là : Sống viễn ly, thiền định và không hý luận. Ba đức tính nầy có giá trị khác : Hình ảnh của một vị Tỳ Kheo sống ở trong rừng hay xóm làng vắng vẻ, không thích tụ hội đông người, nhờ đó vị Tỳ Kheo dễ dàng tu tập tâm định và chứng đạt chân lý, từ đó thấy rõ bản chất của các pháp, chấm dứt những hý luận vô ích những tư duy huyễn hoặc, đạt được an lạc tịch tĩnh Niết Bàn. Đó là hình ảnh của Tăng bảo, biểu tượng của đạo đức và giải thoát. Đó không phải là lối sống của mọi người, chắc chắn không phải là lối sống của người cư sĩ. Có người cho rằng đời sống như vậy hơi tiêu cực chỉ lợi ích cho bản thân mình…. Thật ra nếu sống tiêu cực và chỉ lợi ích cho mình làm sao mà giải thoát được ! Nếu sự giải thoát khổ đau cho chúng sinh mà không dựa trên căn bản giải thoát tự thân thì chỉ xây dựng lâu đài trên cát. Tám điều tư niệm của Bậc Đại Nhân trong A- Hàm và Nikàya Đức Phật dạy cho Ngài Anuruddha và chúng Tỳ kheo, nhờ hành trì tám điều ấy mà Ngài Anuruddha đắc quả A La Hán, đại chúng Tỳ kheo cũng nhờ hành trì tám điều nầy mà thành tựu được Bậc Đại Nhân tức quả A La Hán hay đang hướng về quả A La Hán.

Qua trình bày trên chúng ta đừng vội so sánh và phê bình hình ảnh của vị Tỳ Kheo là Tiểu thừa hay vị Bồ Tát là Đại thừa. Vì như vậy ta chưa hiểu hết vấn đề, chúng ta không thể coi pháp môn nào cao hơn pháp môn nào. Bởi lẽ, tất cả mọi pháp môn mà Đức Phật dạy đều là phương tiện là chiếc bè để qua sông, dòng sông sanh tử. Mục đích chung và tối hậu là giải thoát Niết Bàn.

III GIỚI THIỆU NỘI DUNG KINH BÁT NIỆM CỦA A HÀM

1. Phần duyên khởi

Đức Phật đang ở tại Bà Kỳ Sấu trong Ngạc Sơn Bố Lâm, vườn Lộc Uyển. Bấy giờ Tôn Giả A- Na- Luật Đà ở tại Chi Đề Sấu trong rừng Thủy Chử . Tôn Giả đang thiền tư như sau : " Đạo do vô dục mà chứng đắc chứ không phải do dục. Đạo do tri túc mà chứng đắc chứ không phải do không nhàm chán . Đạo do viễn ly mà chứng đắc chứ không phải do sự ưa tụ hội, sống ở chỗ tụ hội, hòa đồng nơi tụ hội . Đạo do tinh cần mà chứng đắc chứ không do nơi biếng nhác . Đạo do chánh niệm mà chứng đắc chứ không do nơi tà niệm. Đạo do định ý mà chứng đắc chứ không do nơi loạn ý . Đạo do trí tuệ mà chứng đắc chứ không phải do ngu si" .

2. Phần nội dung

Đức Thế Tôn biết được nội dung tư duy của Tôn Giả A Na Luật Đà, nên Đức Thế Tôn đến gặp Tôn Giả, tán thán bảy điều mà Tôn Giả đang thiền tư, đồng thời Ngài dạy cho Tôn Giả thêm điều thứ tám rằng :" Ngươi hãy thọ trì thêm suy niệm thứ tám của Bậc Đại Nhân là đạo do không hý luận chứ không phải do hý luận, thích hý luận, thực hành hý luận mà chứng đắc" .

Đức Thế Tôn khích lệ thêm rằng nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm của Bậc Đại Nhân thì có thể chứng đắc tứ thiền và thành tựu bốn tăng thượng tâm một cách dễ dàng, sống an lạc ngay trong hiện tại. Tôn giả sẽ mặc y phấn tảo mà chẳng khác nào mặc hoàng bào, ăn cơm khất thực mà chẳng khác nào cao lương mỹ vị, ngủ dưới gốc cây mà chẳng khác nào lầu son gác tía, nằm ngồi chỗ cỏ rơm chẳng khác nệm ấm chăn êm.

Nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm của Bậc Đại Nhân thì ở phương Đông, Tây, Nam, Bắc hay bất cứ ở đâu Tôn giả vẫn được an lạc, không có các tai họa đau khổ.

Nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm của Bậc Đại Nhân thì thiện pháp ngày đêm được tăng trưởng không có dừng lại và suy thoái.

Nếu Tôn Giả thành tựu tám suy niệm của Bậc Đại Nhân thì đối với hai quả sẽ được một : Hoặc là được cứu cánh trí ngay trong hiện tại, hoặc nếu còn hữu dư thì được A Na Hàm.

Sau khi Đức Thế Tôn khích lệ Tôn giả A Na Luật Đà, Ngài trở về triệu tập chúng Tỳ Kheo và thuyết tám điều suy niệm của Bậc Đại Nhân một cách chi tiết hơn :

Đạo do vô dục : Vị Tỳ Kheo chứng đắc vô dục, tự biết mình chứng đắc vô dục, không làm cho kẻ khác biết mình vô dục. Đối với sự chứng đắc về tri túc, viễn ly, tinh cần, chánh niệm, định ý, trí tuệ và không hý luận cũng như vậy, gọi là đạo do vô dục.

Đạo do tri túc: Tỳ kheo thực hành tri túc, áo để che thân, ăn để nuôi thân, sàng tọa, dược phẩm cũng vậy.

Đạo do viễn ly : Tỳ kheo thực hành viễn ly thành tựu hai hạnh viễn ly : Viễn ly thân và viễn ly tâm.

Đạo do tinh cần : Tỳ kheo thực hành tinh cần đoạn trừ ác bất thiện pháp, tu các thiện pháp, thường tự khởi ý chuyên nhất, kiên cố, vì các gốc rễ thiện mà không hề nề hà khó nhọc.

Đạo do chánh niệm : Tỳ kheo quán nội thân như thân, nội thọ như thọ, nội tâm như tâm, nội pháp như pháp.

Đạo do định ý : Tỳ kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp cho đến chứng đắc tứ thiền thành tựu và an trú.

Đạo do trí tuệ : Tỳ kheo tu hạnh trí tuệ quán pháp hưng suy, chứng đắc trí , thánh tuệ, minh đạt, phân biệt rõ ràng để dứt sạch khổ đau.

Đạo do không hý luận : Tỳ kheo tâm ý thường diệt hý luận, an lạc trú trong Vô dư Niết bàn, tâm thường lạc thú, hoan hỷ ý giải.

3. Phần kết luận

Đức Thế Tôn dạy đại chúng xong, Ngài cho biết Tỳ kheo A Na Luật Đà thành tựu tám suy niệm của Bậc Đại Nhân, sau đó an cư tại Chi- Đề- Sấu trong rừng Thủy Chử. Vị Tỳ kheo ấy đã tự thân chứng đắc và an trú vô thượng phạm hạnh.

Đại chúng Tỳ kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.

V. VÀI LỜI GIẢI THÍCH

1. So sánh với Kinh Tăng Chi

Kinh Tăng Chi III, chương tám pháp phẩm Gia Chủ, mục Anuruddha. Nội dung kinh hoàn toàn giống nhau về đại thể và có khác nhau một vài chi tiết như : A-Hàm nói vô dục, Tăng Chi là ít dục. Về tri túc, Tăng Chi giải thích đủ về " tứ vật dụng" của một Tỳ kheo gồm thực phẩm, y áo, sàng tòa, dược phẩm, còn A- Hàm chỉ nói ăn và mặc. Về điều ưa sống viễn ly A Hàm giải thích là thân và tâm đều viễn ly, còn Tăng Chi đề cập đến trường hợp nhiều người đến thăm hay vấn đạo vị Tỳ kheo nhưng tâm vị ấy thuận về viễn ly, hướng về viễn ly, thuyết pháp liên hệ đến viễn ly, đây là một chi tiết rất hay. Về chánh niệm A- Hàm đề cập đến Tứ niệm xứ, còn Tăng Chi nói một cách tổng quát rằng thành tựu niệm tuệ tối thắng, ức nhớ tùy niệm những điều đã làm, đã nói dù đã lâu. Về điều thứ tám không hý luận, Tăng Chi giải thích đoạn diệt hý luận, tâm được phấn chấn, tịnh tín, an trú hướng đến cứu cánh phạm hạnh, còn A- Hàm giải thích tâm ý thường diệt hý luận, an lạc trú trong Vô Dư Niết Bàn.

Tóm lại sự khác biệt thuộc A- Hàm và Nikàya là không đáng kể, chỉ có tính cách sử dụng ngôn ngữ mà thôi .

2. So sánh với kinh Di Giáo

Kinh Di Giáo đưa ra tám công đức xuất thế như sau : ít ham muốn, biết đủ, siêu thoát (viễn ly) , tinh tấn , chánh niệm, thiền định, trí tuệ và không hý luận. Tám công đức xuất thế nầy chính là nội dung kinh Bát niệm hay tám điều suy niệm của Bậc Đại Nhân, có thể nói kinh Bát niệm là xuất xứ của tám công đức xuất thế trong kinh Di Giáo. Trong tác phẩm dịch giải kinh Di Giáo, H.T. Trí Quang viết : " Công đức xuất thế cũng gọi là công đức thượng nhân. Các bậc Thượng Nhân ( Đại Nhân ) thường dùng tám công đức nầy để tự giác, tự soát, hầu nuôi lớn phương tiện và thành tựu cứu cánh"."Tám công đức nầy liên hệ và tương đồng với mười pháp của Đại Bát Niết Bàn". Ngài Thế Thân trong tác phẩm Di Giáo kinh luận đã chia tám pháp công đức này thành hai phần :

Phần một là bảy pháp đầu gọi là nuôi lớn phương tiện.

Phần hai là pháp thứ tám gọi là thành tựu cứu cánh.

Như vậy pháp không hý luận có ý nghĩa rất lớn trong tám công đức.

Tám công đức xuất thế trong kinh Di Giáo về tiêu đề và thứ tự hoàn toàn giống kinh Bát niệm chỉ có sự khác biệt chút ít về giải thích.

3. Vấn đề vô dục

Thông thường chúng ta hiểu vô dục là không tham dục, hoặc ít dục là ít sự ham muốn về các nhu cầu ăn, mặc, ngủ nghỉ, dược phẩm (đối với Tỳ Kheo ) hoặc ít ham muốn hưởng thụ dục lạc, giác quan như ngũ dục…. Nhưng khi giải thích vô dục, Đức Phật dạy vô dục trong nghĩa rất rộng mang tính triết học hơn, tức là những sở đắc, kết quả tu tập, những thành tựu trong quá trình quán chiếu, thiền định, những công hạnh đạt được đều không chấp thủ, không được khoe khoang hay khởi ước muốn mọi người biết đến mình, đến thành quả của mình. Đó gọi là vô dục. Đây là một định nghĩa về vô dục rất đặc biệt mà ở nơi khác không có. Qua định nghĩa này có thể làm tiêu chuẩn cho chúng ta về mẫu người tu tập và giải thoát. Vị ấy không khoe khoang về các thành quả của mình, kể cả các thành quả về giới, về định, về tuệ và về giải thoát.

4. Vấn đề sống viễn ly

Đây là vấn đề được coi trọng trong quá trình tu tập theo truyền thống Nguyên thủy, các kinh cả A- hàm và Nikàya đều nói đến rất nhiều , cho nên thường bị các bộ phái cấp tiến phê phán cho rằng xa rời quần chúng, ích kỷ, làm cho Phật giáo không phổ cập mọi người. Thật ra đời sống viễn ly rất cần thiết cho hành giả tu tập đoạn trừ ái dục, nếu đang tu tập thiền định mà bị quấy rầy hoặc chi phối bởi ngoại cảnh thì công phu thiền định sẽ mất. Đức Phật và Thánh tăng thời xưa dù sống viễn ly mà vẫn hoá độ chúng sanh, nhờ viễn ly mà "Tùy duyên" vẫn giữ được "bất biến" . Nếu đừng quá cường điệu, cực đoan thì đời sống viễn ly là tốt cho cả hai mặt tự lợi và lợi tha. Kinh Tăng Chi khi đề cập đến hạnh viễn ly cho rằng khi tiếp xúc với mọi người mọi giới hoặc làm việc mà tâm vẫn an trú, hướng về viễn ly hay nói cách khác nếu giữ tâm vững chãi không bị ngoại cảnh tác động thì dù gặp cảnh nào cũng không bị rối loạn, đó là ý nghĩa của viễn ly. Như vậy cũng có thể nói hạnh ly nhiễm của kinh Bát Đại Nhân Giác cũng có thể coi là tương đương hạnh viễn ly này. Điều thứ bảy giác ngộ đã nói lên xu hướng và quyết tâm từ bỏ năm dục thực hành phạm hạnh ngay trong đời sống thế tục, đó là hạnh viễn ly đặc biệt.

5. Vấn đề không hý luận

Trong Kinh Bát Niệm có nói rõ, Tôn Giả Anuruddha tư duy bảy pháp, Đức phật xuất hiện dạy Tôn Giả tư niệm thêm pháp thứ tám là : " Đạo do từ không hý luận mà chứng đắc". Vậy vấn đề không hý luận rất quan trọng và siêu việt nếu so với các vấn đề trên. Anuruddha thiền tư không phát hiện đạo lý này, mà nhờ Đức phật dạy, cho biết giá trị của không hý luận rất cao . Không hý luận là gì? Nghĩa đen là không nói chơi hay luận bàn một cách vô ích . Kinh Bát Niệm giảng rằng : " An lạc trú trong vô dư Niết Bàn , tâm thường lạc thú, hoan hỷ ,ý giải". H.T. Trí Quang nói rất rõ ý nghĩa của không hý luận : " Hý luận nghĩa đen là bàn chơi Hý luận diễn biến từ sự bàn cãi chơi đùa đến sự thảo luận vô ích đến vấn đề đặt sai vấn đề , cuối cùng thì chính là sự thảo luận và đặt vấn đề thực chất đã không như thực . Chính cái nghĩa sau này cho thấy tất cả những cái gì thuộc phạm vi tư duy, mô tả thuộc " Tâm hành xứ" và " Ngôn ngữ đạo" đều là Hý luận . Vậy không hý luận là " Bất tư nghì" là ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, đó là cứu cánh hay tự tánh siêu thoát như ở đây nói , là giải thoát Niết Bàn như kinh Đại Niết Bàn nói, là Không của Bát Nhã nói, là Trung đạo của Trung Luận nói : " Hý luận là ngôn ngữ của tư tưởng, thực chất của tư tưởng là đối chiếu, diễn dịch : Có-không, cũng có cũng không - không phải có , không phải không . Nhưng sự đối chiếu diễn dịch này không ngừng ở đây mà còn tiến xa hơn nữa…. Tư tưởng và ngôn ngữ tư tưởng như vậy gọi là hý luận. Trí tuệhuộc lãnh vực này gọi là trí tuệuot; (dịch giải kinh Di Giáo- Trí Quang )

Tóm lại vấn đề không hý luận là vấn đề cứu cánh siêu việt đúng như kinh Bát niệm giải thích là an lạc trú trong Vô Dư Niết Bàn, tâm thường lạc thú ý giải. Đó là cứu cánh giải thoát , là nội dung chứng đắc của một vị A La Hán.


 

CHƯƠNG II:
GIẢI THÍCH NỘI DUNG KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC

Kinh Bát Đại Nhân Giác, bố cục thành ba phần :

- Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ.

- Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy.

- Phần ba là phần khuyến khích tu tập theo tám điều giác ngộ ấy, phần này coi như là phần kết thúc của kinh.

Để giải thích sát với kinh văn chúng tôi trình bày theo cách thông thường, nghĩa là mỗi bài gồm phần chánh văn, dịch nghĩa, giải thích và kết luận.


A. PHẦN MỞ ĐẦU
BÀI I
I. CHÁNH VĂN
Vi Phật đệ tử
Thường ư trú dạ
Chí tâm tụng niệm
Bát Đại Nhân Giác.

II. DỊCH NGHĨA

Là đệ tử của Đức Phật thì ngày cũng như đêm chí thành đọc tụng và quán niệm tám điều giác ngộ của Bậc Đại Nhân.

III. GIẢI THÍCH NỘI DUNG

Lời mở đầu ngắn gọn và đơn giản, có tính cách giới thiệu chủ đề, không như phần mở đầu của các kinh khác thường có. Điều nầy chứng tỏ Ngài An Thế Cao đã trích lục, soạn thảo tám điều giác ngộ, Ngài chủ động giới thiệu để người đọc có thể đi thẳng vào nội dung.

Mặc dù ngắn gọn nhưng tha thiết, vừa nói lên trách nhiệm và bổn phận của người phật tử vừa chỉ dẫn những điều cụ thể phải thực hành .

Trách nhiệm của người Phật tử là gì ? Ở đây không nói là người xuất gia, vậy từ Phật tử chỉ chung cho tại gia và xuất gia. Mang danh con của Phật thì phải thể hiện tính của Phật, đấy là chỗ khác biệt giữa người Phật tử và không là Phật tử ; đấy là trách nhiệm của người Phật tử, những biểu hiện ở hành vi và ngôn ngữ cũng như tâm ý của người Phật tử luôn có sự cao thượng, lợi ích và hạnh phúc cho những người xung quanh.

Để xứng đáng với danh nghĩa là con của Phật, người Phật tử phải có quá trình tu tập bản thân ; không phải tụng kinh, niệm Phật theo thời khóa nhất định mà sự tu tập ấy phải diễn ra mọi lúc, mọi nơi. Vì vậy, lời mở đầu gọi là Trú Dạ, là ngày cũng như đêm. Như vậy mới đủ năng lực chuyển hóa tính phàm phu của mình.

Tụng niệm không có nghĩa là đứng trước bàn Phật tụng kinh gõ mõ là đủ. Tụng là đọc tụng, còn niệm là an trú tâm vào đối tượng, còn gọi là chánh niệm, là hướng tâm, an trú tâm vào đối tượng, ở đây chính là Tám Điều Giác Ngộ của Bậc Đại Nhân. Do tụng và niệm thường xuyên làm huân tập chủng tử thiện pháp, trí tuệgày càng lớn, thân tâm càng thanh tịnh, càng ngày càng gần với tính Phật như vậy xứng đáng là con của Phật .

Bậc Đại Nhân là người lớn, là người trưởng thành, chỉ cho những người không còn bị sai khiến hay bị chế ngự bởi các phiền não, dục vọng .Theo truyền thống Đại thừa thì chỉ cho Phật và Bồ Tát, theo truyền thống Nguyên thủy, đó là những vị chứng quả A La Hán hay trên đường chứng quả A La Hán .

IV KẾT LUẬN

Lời mở đầu Kinh Bát Đại Nhân Giác tuy ngắn gọn nhưng nói lên được mục đích và yêu cầu của một người Phật tử . Dù tại gia hay xuất gia người Phật tử cần phải tu tập quán chiếu ngày đêm các thiện pháp để tăng trưởng công đức và thành tựu cứu cánh Niết Bàn .

Điều quan trọng là những gì mà chư Phật, các bậc Thánh hiền đã tu tập, đã thành tựu thì con của Phật phải làm theo, không nhiều thì ít để phần nào xứng đáng với danh xưng Phật tử.


B. PHẦN NỘI DUNG KINH
Bài II
I . CHÁNH VĂN
Đệ nhứt giác ngộ
Thế gian vô thường
Quốc độ nguy thúy
Tứ đại khổ không
Ngũ ấm vô ngã
Sanh diệt biến dị
Hư ngụy vô chủ
Tâm thị ác nguyên
Hình vi tội tẩu
Như thị quán sát
Tiệm ly sanh tử

II. DỊCH NGHĨA

Điều thứ nhất, giác ngộ rằng cuộc đời là vô thường, vũ trụ mong manh tạm bợ . Sự cấu tạo của bốn đại là trống rỗng và có tác dụng gây đau khổ, tập hợp năm ấm là vô ngã, sinh diệt thay đổi không ngừng, không thực và không có chủ thể . Tâm ta là cội nguồn phát sinh điều ác, thân ta là nơi tích tụ tội lỗi. Quán chiếu như thế dần dần thoát ly sanh tử .

III. GIẢI THÍCH NỘI DUNG

Điều giác ngộ thứ nhất, được coi là tu quán Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứ là pháp tu đặc biệt của Phật giáo, là pháp môn quan trọng, là con đường duy nhất dẫn đến Niết Bàn ( Ekayana ). Tác dụng của pháp quán này được Đức Phật dạy rất rõ trong Kinh Niệm Xứ, Trung A Hàm 98 . " Nếu Tỳ Kheo nào trong từng khoảnh khắc lập tâm chánh trụ nơi bốn Niệm Xứ, nếu buổi sáng thực hành như vậy thì buổi tối liền được thăng tấn. Nếu buổi tối thực hành như vậy thì nhất định sáng hôm sau sẽ được thăng tấn" (Trung A Hàm I. T578). Nội dung của chánh niệm chính là quán niệm về Tứ Niệm Xứ. Vì vậy điều thứ nhất giác ngộ được coi là tương đương với chánh niệm của kinh Bát Niệm, phép quán niệm về bản chất của vũ trụ nhân sinh được đưa vào đầu tiên nhằm củng cố cái nhìn của người Phật tử bằng chánh kiến, là sự nhận thức rõ về sự vật hiện tượng. Quán niệm không phải là cái suy nghĩ hay nhận thức thông thường mà là ý thức về đối tượng, duy trì ý thức ấy trên đối tượng, đồng thời đi sâu vào lòng đối tượng ấy, nhờ đó mà ta có cái nhìn rõ về đối tượng. Kết quả của sự quán chiếu đối tượng như thế là sự hợp nhất giữa chủ thể và đối tượng, ta hiểu đối tượng như chính ta.

Đối tượng của sự quán chiếu thứ nhất là nhân sinh và vũ trụ :

" Cuộc đời là vô thường
Vũ trụ mong manh tạm bợ".

Quán chiếu về tính cách vô thường của đời sống con người và hoàn cảnh mà con người đang sống làm cho ta thấy rõ bản chất của sự vật. Chúng ta đau khổ vì chúng ta ngu si không thấy rõ tính chất vô thường mong manh tạm bợ của cuộc đời, vì không thấy rõ nên ta tham đắm chấp thủ cuộc đời rằng cái này là ta, là của ta, từ đó phiền não sinh ra : tham, sân, kiêu căng, hoànghi, sợ sệt ….

Thân thể là vô thường : Đây là điều dễ hiểu dễ thấy nhưng ít người chấp nhận một cách sâu sắc, có sinh thì có già, có bệnh và chết. Sự chuyển biến hủy hoại theo thời gian của thân thể là một sự thật khách quan . Sự đau khổ của chúng ta không phải là do tính vô thường của thân thể mà chính là do chấp thủ, tham đắm vào thân thể mà đau khổ phát sinh .

Tâm lý là vô thường: Tâm của ta không đứng yên một chỗ mà là chuyển biến liên tục như dòng nước chảy xiết buồn, vui, thương, ghét, giận, lo lắng, những quan điểm, khái niệm đúng, sai, tốt, xấu thay đổi không ngừng nhấp nhô như sóng biển bất tận, vui đó rồi buồn đó, thương rồi giận…. không ai làm chủ được tâm lý của mình.

Tình cảm là vô thường: Tình thương của cha mẹ đối với con cái, vợ đối với chồng, anh em, bạn bè, quê hương đất nước….không có gì là chắc chắn bền bỉ. Tình yêu rồi thù hận, trung thành rồi phản bội, thương nhau lắm cắn nhau đau ...

Tài sản tiền bạc là vô thường: Có rồi không, được rồi mất, giàu rồi nghèo, hết sức mong manh tạm bợ, dễ bị lửa cháy, nước trôi, nhà nước tịch thu, trộm cướp và con cái phá tán.

Danh vọng địa vị là vô thường : Công danh sự nghiệp chức tước địa vị thăng giáng vô thường, vinh quang rồi tủi nhục, kính trọng hay khinh bỉ không có gì tồn tại mãi.

Hoàn cảnh vô thường: Hoàn cảnh xã hội, đường lối sách lược luôn luôn thay đổi, đất lở, sông bồi, núi non hay biển cả, mây gió trăng sao đều luôn luôn chuyển biến "thương hải biến vi tang điền" là điều thường thấy.

Tất cả đều nằm trong qui luật : vô thường, hoại diệt. Quán chiếu về tính chất vô thường của vũ trụ nhân sinh không nhằm mục đích đưa đến thái độ bi quan yếm thế mà chính là hướng dẫn ta có cái nhìn chính xác về sự thật của đời sống. Nhờ có cái nhìn rõ ràng và sáng suốt như vậy mà ta được an ổn, trầm tĩnh, không ưu tư sầu muộn, đau khổ về đời sống, ta đạt được giải thoát, tự do. Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy :

"Hãy nhìn như bọt nước
Hãy nhìn như huyễn cảnh
Quán nhìn đời như vậy
Thần chết không bắt gặp"

Đối tượng quán chiếu tiếp theo là bốn đại và năm uẩn để thấy được tính chất vô ngã của chúng, nghĩa là thấy được sự trống rỗng không có chủ thể của bốn đại và năm uẩn. Bốn đại là bốn nguyên tố vật chất theo quan điểm triết học Ấn Độ cổ đại tất cả hình thể vật chất đều do sự cấu thành của bốn nguyên tố nầy. Nhưng khi diễn tả sự cấu thành thân thể con người, đạo Phật không dừng ở đó mà thêm hai nguyên tố nữa là không đại và thức đại. Năm uẩn là năm nhóm tạo thành con người gồm: Sắc, thọ, tưởng, hành , thức. Sắc là thân thể bao gồm bốn đại ở trên; thọ là nhóm cảm giác; tưởng là nhóm tri giác; hành là nhóm động lực tâm lý và thức là nhóm nhận thức. Nói một cách tổng quát thì con người do bốn đại và năm uẩn cấu thành, ngoài bốn đại và năm uẩn không có cái gì gọi là con người cả.

Quán chiếu về bốn đại tức là bốn yếu tố vật chất để thấy rõ bản chất trống rỗng của chúng. Cần chú ý là vật chất ở đây chỉ cho thân thể của ta. Thân ta nếu phân tích sẽ thấy nó gồm có đại địa, tức xương thịt, các chất rắn; Thủy đại tức nước tiểu, mồ hôi, nước mắt nói chung là chất lỏng; Hỏa đại là hơi ấm, nhiệt độ thân thể, còn nhiệt độ là còn sống; Phong đại là thể khí như không khí để thở, khoảng không chứa đựng các loại khí…. Nếu bốn yếu tố nầy đầy đủ điều hoà thì thân thể ta khỏe mạnh, nếu một trong bốn yếu tố mất thăng bằng thì thân thể bị bệnh hoặc khó chịu ngay. Bản chất của chúng là không có tự tính, chúng phải dựa vào nhau mà tồn tại hay nói cách khác chúng tồn tại do duyên sinh. Vì vậy không có gì là chắc chắn bảo đảm, chúng vô thường. Thân thể chúng ta là vô thường như phép quán đầu tiên, chúng vô thường vì chúng trống rỗng, nghĩa là vô ngã. Chúng vô ngã vì chúng tồn tại có điều kiện. Đó là qui luật của thực tại. Vì vậy kinh văn nói :" Sự cấu tạo của bốn đại là trống rỗng". Sự vô thường, vô ngã của bốn đại là qui luật khách quan, nhưng tại sao trong kinh văn cho là "khổ" ? Thực ra cái khổ không do vô thường hay vô ngã của thân thể mà do nhận thức chấp thủ rằng thân thể là thường, là ngã, là tôi, là của tôi mà sinh ra cái khổ, nên kinh văn (được) dịch là "có tác dụng gây ra đau khổ". Vậy đau khổ ở đây là do không quán chiếu để thấy rõ bản chất của thân thể (hay của bốn đại) là "vô ngã" mà chấp vào nó nên "khổ".

Quán chiếu về bốn đại tức là quán chiếu về yếu tố sắc uẩn trong năm uẩn. Tiếp tục quán chiếu về bản chất của con người chính ta, bằng cách soi chiếu sâu sắc vào năm uẩn, về mặt tinh thần, tâm lý thì được chia thành bốn nhóm:

1. Nhóm cảm giác (Vedanà) : Là thọ hay cảm thọ. Nhìn sâu vào nhóm cảm thọ ta sẽ nhận diện bộ mặt thật của chúng; chúng sinh trưởng và hoại diệt như thế nào ? Cảm thọ có nhiều loại, khái quát có ba loại chính : Cảm thọ khổ, cảm thọ vui sướng, cảm thọ trung tính (không khổ, không vui). Một cảm giác sinh khởi nó tùy thuộc các điều kiện nhân duyên. Nó không tự tồn tại và không có giá trị lâu bền. Một cảm giác dễ chịu thoải mái do đâu mà sinh ? Nguồn gốc của nó có thể từ vật chất như ta có một món tiền lớhay một bữa ăn ngon chẳng hạn. Nguồn gốc của nó có thể từ tâm lý như khi ta thương yêu hay thưởng thức một bài thơ hay, ta khoan khoái dễ chịu. Quán chiếu sâu hơn ta thấy các cảm thọ còn tùy thuộc rất nhiều yếu tố như không gian, thời gian, trình độ văn hóa, thời tiết, điều kiện xã hội….. rõ ràng là cái cảm giác buồn hay vui chứa đựng cả một bầu trời duyên sinh chỉ cần thiếu đi một yếu tố, chi tiết nào đó cảm thọ vui sẽ giảm hoặc mất đi. Vậy ở trong cảm thọ cái gì là cái ta, cái của ta ? Chúng không thực và không có chủ thể.

2. Nhóm tri giác: (Tưởng - sannakhandha) Chúng là sự nhận thức, sự cấu thành khái niệm về đối tượng là vật lý hay tâm lý . Đây là nhóm nhận thức sau khi các giác quan tiếp xúc với ngoại cảnh ; nó thu nhận đối tượng và biểu tượng hóa cái đối tượng của giác quan . Tưởng thiết lập cơ sở các dữ liệu cho nhận thức lý luận, cho sự nhận thức sâu hơn về thế giới vật lý hay tâm linh . Nhóm tri giác có sáu loại tượng ưng với sáu giác quan tiếp xúc với sáu đối tượng mà sanh nhận thức về các đối tượng ấy .

Cũng như thọ (cảm giác ), nhóm tưởng đòi hỏi và tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhiều điệu kiện nhân duyên, sự cấu thành nhận thức, khái niệm về sự vật là như thế nào ; tùy thuộc vào yếu tố không gian, thời gian, thời tiết, điều kiện văn hóa, xã hội …..ở trong chúng không có cái gì gọi là bền vững hay riêng lẻ.

3. Nhóm tạo tác tâm ly ( Hành – sankhàra) hành là quá trình tạo tác tâm lý, một loại ý định ,chủ tâm . Thực ra thọ hay tưởng đều thuộc về hành nhưng thọ và tưởng không tạo tác kết quả nghiệp nên được tách riêng . Hành mới có tác dụng tạo nghiệp đưa đến thiện , ác và tái sanh .

Những hiện tượng tâm lý gọi chung là tâm hành, Duy thức học gọi là tâm sở – cảm giác và tri giác không phải là những hoạt động ý chí nên không bao gồm trong hành uẩn . Hành uẩn gồm những tâm lý phát sinh động lực và tạo tác dụng thúc đẩy năng lực đi tới như tham dục, sân hận, hãm hại hoặc ước muốn, tin tưởng , tinh tấn …. Những hoạt động tâm lý thuộc hành uẩn diễn ra khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu đối tượng giác quan .Ví dụ khi mắt thấy sắc đẹp sinh ra tham muốn , sự vướng mắc vào đối tượng tham đắm hay giận hờn, nó tùy thuộc rất nhiều điều kiện khác nhau, nói cách khác nó cũng do duyên sinh không có yếu tố tạo tác tâm lý nào là cố định, tự phát . Chúng tùy thuộc vào nhân duyên mà sinh và nhân duyên mà diệt .

4. Nhóm thức (Vinnàna ) : Thức là một phản ứng căn bản khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, gồm sáu loại : Nhãn thức, nhĩ thức ,tỷ thức, thiệt thức , thân thức và ý thức . Về sau Đại thừa duy thức triển khai thêm hai thức nữa là Mạt na thức và A lại gia thức , gọi một cách tổng quát là tâm vương . Cần phân biệt thức uẩn và tưởng uẩn. Thức thì nhận biết đối tượng - sự hiện diện của đối tượng . Ví dụ khi mắt thấy sắc, thức nhận thức về sự hiện của một đối tượng như bông hoa chẳng hạn. Còn tưởng là tri giác sẽ nhận ra đấy là hoa hồng hay hoa lài, màu đỏ hay màu trắng.

Thức theo Phật giáo không phải là một linh hồn tồn tại độc lập, Đức Phật dạy : " Thức được gọi tên tùy theo điều kiện nhờ đó mà đó sinh khởi: Nhờ con mắt và đối tượng con mắt mà thức phát sinh, gọi là nhãn thức ….". Thức tồn tại nhờ sắc …nhờ thọ … nhờ hành …." Như vậy thức không tồn tại độc lập và không có cái ngã trong thức .

Tóm lại quán chiếu để thấy rõ bốn đại và năm uẩn là trống rỗng , là vô ngã, là duyên sinh. Nhờ thấy rõ bản chất của chúng mà đoạn trừ được tham ái và chấp thủ vào chúng. Khi đã buông xả ý niệm về thân tôi, về tôi, về tự ngã của tôi thì mọi ảo tưởng về thân sẽ tan biến gọi là đoạn trừ thân kiến, bước đầu của bậc Kiến đạo.

Đối tượng quán chiếu thứ ba là khía cạnh bất thiện của thân và tâm, cũng có nghĩa phải thấy rõ mặt tiêu cực, nguy hiểm của thân và tâm để mà đề phòng, hạn chế xu hướng phát triển của chúng.

Kinh văn dạy : "Phải quán chiếu tâm ta là cội nguồn phát sinh điều ác, thân ta là nơi tích tụ tội lỗi". Trước hết cần xác định rằng : Điều ác, điều bất thiện là do tâm tạo tác chứ không phải từ bên ngoài phát sinh, đây là lập trường căn bản của giáo lý về nghiệp. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy : "Trong các pháp tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm nhiễm ô để nói năng hay hành động thì kết quả đau khổ đi theo như bánh xe lăn theo con vật kéo xe… Nếu đem tâm thanh tịnh để nói năng hay hành động thì kết quả hạnh phúc đi theo như bóng theo hình". Thiện, ác, đau khổ hay hạnh phúc đều xuất phát từ tâm ý. Tuy nhiên ở đây kinh chỉ đề cập đến khía cạnh bất thiện, đau khổ mà thôi. Từ những nhận thức sai lầm dẫn đến các tâm lý bất thiện tham, sân, si, mạn, nghi, tạo thành động lực cho ác nghiệp. Cũng cần phải thấy rõ sức mạnh của nghiệp bất thiện nó có mặt từ quá khứ , tức là nhiều đời kiếp về trước nên khó đoạn trừ , đừng chủ quan, hời hợt và coi thường chúng ; có quán chiếu sâu sắc mới thấy những tiềm ẩn vi tế , gốc gác sâu xa của chúng . Thân thể là nơi tích tụ tội lỗi , đây cũng là quán chiếu để thấy rõ mặt tiêu cực của thân . Thân vật lý nó có những quy luật tồn tại riêng của chúng ; chúng có những nhu cầu (tồn tại ) sinh tồn . Những đòi hỏi thỏa mãn nếu ta không nhận ra đâu là nhu cầu thực và chính đáng , đâu là nhu cầu giả tạo không cần thiết của thân thì rõ ràng ta bị thân lôi cuốn vào tội lỗi . Phần lớn những tội lỗi sinh ra do thân làm động cơ, làm điều kiện ; tất cả những nhu cầu ăn , mặc thỏa mãn sinh lý , những lạc thú đều từ thân , do thân . Vì vậy , không nên coi thân là quan trọng mà phải thấy rõ chúng đề sử dụng chúng như là phương tiện tu tập và hành đạo .

IV . KẾT LUẬN

Điều giác ngộ thứ nhất là quán chiếu để thấy rõ pháp ấn : Vô thường, khổ , không, vô ngã ở nơi thân tâm của con người với mục đích bỏ những vướng mắc tham đắm, chấp thủ đối với con người và cuộc đời. Duy trì sự quán chiếu ấy trên đối tượng thân, tâm, hoàn cảnh của mình ; mình sẽ có thái độ ứng xử thích hợp với chân lý. Đây không phải là lối nhìn bôi đen đời sống, là lối nhìn tiêu cực, mà chính là cách nhìn của tuệ nhãn đầy tích cực, nó có tác dụng mang lại sinh lực cho chúng ta. Con người đau khổ mất mát sinh lực chính là do nhìn đời ngược lại. Thành tựu các "niệm xứ" như kinh đã dạy, tức là bước vào Thánh đạo, không có con đường nào khác. Nhãn quan của đạo Phật về cuộc đời quá rõ như kinh Kim cương dạy:

" Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán".

http://buddhismtoday.com/viet/kinh/dt/034-batdai1.htm


Phần 1 | Phần 2 | Phần 3

 


Cập nhật: 1-12-2000

Trở về mục "Kinh điển"

Đầu trang