- GIỚI LÀ BẬC THẦY CAO CẢ NHẤT (*)
Các vị Sa-di,
Đã một lần, quý vị quỳ trước
các vị Tam sư thất chứng để lãnh thọ mười giới Sa-di. Ngay từ giờ
phút đó, các vị đã
trở nên những người xuất gia chính thức, những
mầm non của Đạo pháp, những hạt giống Bồ-đề,
những hạt giống Thánh nhân. Trong giờ phút thiêng liêng đó, các vị đã không kể gì đến xác thân, tính
mạng hay bất cứ gì đi nữa trên thế gian này. Các vị đã xả thân để
cầu Giới, vì biết rằng, chính Giới pháp mới là pháp môn viên mãn nhất
để giải thoát chúng ta ra khỏi khổ triền phược, khỏi kiếp luân hồi
vô minh. Vì nghĩ đến sự cao quý của Giới pháp như thế, nên đã có những
phút chúng ta đem hết thành tâm thiện chí để lãnh thọ. Chính những Giới
pháp đó đức Phật đã thành tựu viên mãn
và sau bao nhiêu công phu tu hành, đạt chánh quả. Ngài đem Giới pháp đó dạy lại cho chúng ta, coi như là
pháp thân huệ mạng của chính Ngài. Bởi thế, sau khi Ngài
viên tịch, Giới pháp ấy vẫn tồn tại để dẫn dắt những kẻ hảo tâm
xuất gia, và trước khi sắp nhập Niết-bàn, đữc
Phật đã đinh ninh dạy bảo: “Sau khi Ta diệt độ, các ngươi hãy tôn trọng,
trân quý Ba-la-đề-mộc-xoa, như người đi trong đêm tối được gặp ánh
sáng, như người nghèo khó được gặp châu báu. Giới luật chính là đức
Thầy cao cả của các ngươi, dù Ta có ở đời cũng không gì
khác".
Giả sử chúng ta được duyê
n
may mắn, sinh vào thời đức Phật, thì chắc chắn chúng ta được nghe những
lời dạy ấy, tuân giữ giới pháp của Ngài và tôn Ngài làm đấng Đạo sư. Nhưng vì bạc đức vô duyên, chúng
ta phải sinh vào thời mạt pháp, mặc dù không gặp Phật, chúng ta vẫn
còn được phước duyên có những giờ phút được nghe Giáo pháp Ngài đã
dạy, biết những Giới luật Ngài đã truyền để chúng ta tôn thờ Giới
pháp làm đấng Đạo sư như Phật ở đời không
khác. Mộl người đi trong đêm tối, muốn khỏi sa hầm sỉa hố, cần được ánh đèn bao nhiêu thì
khi gặp được ánh đèn, họ sẽ quý
báu bấy nhiêu. Như kẻ nghèo khó đói rách cần tiền của
bao nhiêu, thì khi gặp tiền bạc sẽ giữ gìn cẩn trọng bấy nhiêu. Chúng
ta, những người tối tăm vì vô minh, đói khổ vì thiếu thốn sự giác ngộ,
sự giải thoát, cho nên chúng ta sẽ quý Giáo pháp của Phật không khác gì
những người đi trong đêm tối gặp được ánh
sáng, chắc chắn sẽ không để mất; kẻ nghèo gặp được châu báu sẽ bảo
tồn quý trọng nó. Thì người hảo tâm xuất gia cũng vậy, khi đã
biết Giới luật là phương pháp cao quý để ta nương theo, thì chắc chắn
chúng ta sẽ đem hết thành tâm thiện chí cầu lãnh thọ, bảo trì cho bằng
được. Huống chi đã là con người, không ai
không mang trong mình bao nhiêu tật xấu, bao nhiêu phiền não, tội lỗi. Nhưng
tội lỗi phiền não ấy, nếu không nhờ những pháp môn, những giới luật
ngăn ngừa thì chắc chắn đời đời chúng ta vẫn
là những con người quê hèn nghèo nàn, không bao giờ bước lên được con đường giải thoát giác ngộ.
Nên yếu điểm đầu tiên của
Phật chế Giới luật là muốn cho ta gạt bỏ tục tình quê hèn, tạo đức tốt, lập chí nguyện lớn lao. Ở đời, những vị
quân tử thánh nhân hằng mong mỏi lập ba điều bất hủ: “Lập công, lập
đức, lập ngôn”, vậy thì người xuất gia chúng ta chắc chắn cũng muốn
lập những công đức sự nghiệp lớn lao. Nhưng dù muốn lập những
sự nghiệp lớn lao mà không giữ Giới luật, cứ bê tha theo tục tình, thả
lỏng thân khẩu ý theo thói thấp hèn thì biết bao giờ chúng ta mới có thể
lập được chí nghiệp, bao giờ mới xả bỏ được
những tục tình quê kịch, đã bấy nay nhận chìm trong thói đời?
Cho nên, một người đã có thành tâm thiện chí muốn làm đệ tử của đức Phật, thì trước hết phải giữ Giới
để ngăn ngừa tội lỗi, xả bỏ tục tình để trở thành một người
toàn thiện. Khi cá nhân đã trở nên toàn thiện toàn mỹ, mới có thể đặt lên đó những hạnh nghiệp giải thoát, cầu
Bồ-đề đạo, cứu độ chúng sinh.
Yếu điểm thứ hai là, người đệ tử xuất gia của Phật,
sống trong một đoàn thể không phải một người, hai người, mà
ngay trong thời Phật tại thế đã có đến 1.250 người tùy tùng xuất gia. Với một số đông đệ tử như thế, nếu không
có Giới luật thì biét căn cứ vào đâu để hòa hợp với nhau, tương
ưng với nhau và tu học với nhau? Mỗi người khi ấy sẽ hành động mỗi
cách, ngôn ngữ mỗi cách, thì làm sao tạo thành một giáo đoàn gương mẫu
để truyền bá Giáo pháp, để tiến tu đạo nghiệp?
Nếu chúng Tăng không có một kỷ luật giới pháp để mỗi người răn dè
tuân giữ, thì chúng Tăng sẽ trở thành một chúng Tăng ô hợp. Khi đã là một chúng Tăng ô hợp thì
cá nhân đã không được tu học, mà đoàn thể ấy cũng không ích lợi
gì? Huống chi một đoàn thể cầu giải thoát mà lại có thể ô hợp được chăng? Chắc chắn là không.
Vì vậy, mười hai năm sau khi thành đạo, với một số đồ chúng xuất gia và tại gia đã
đông, đức Phật đã tùy căn cơ chúng sinh mà lần lượt chế ra những
Giới luật. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, những Giới luật ấy đã được
Tôn giả Ưu-ba-li kết tập thành Ngũ giới, Bát giới, Bồ-tát tại gia giới,
và 10 giới, 250 giới cho hàng xuất gia Tỳ-kheo và 348 giới cho Tỳ-kheo-ni.
Những Giới luật đó trải qua thời gian và không
gian đến nay vẫn còn tồn tại, cho chúng ta có thể nghe thấy một
phần nào những gì đức Phật đã dạy lúc sinh thời.
Những giới pháp đó, hàng tại gia cũng như xuấl gia, ai tuân giữ được
thì đều xứng đáng là con Phật. Sự thành tâm thiện chí của đệ tử Phật đối với Giới pháp của Ngài chính
là sự cúng dường cao quý nhất, bởi vì khi một người xuất gia có tác
phong tề chỉnh, gương mẫu thì có thể thay thế Phật ở cõi Ta-bà. Giữa
thời mạt pháp, giáo pháp của Phật nhờ đó mà tồn tại mãi. Giới luật
tạo cho con người trở thành đức hạnh, giải thoát,
gương mẫu. Chính thời đức Phật cũng nhờ một vị Sa-môn oai nghi tề chỉnh,
dáng điệu giải thoát, cảm kích được sự xuất gia của Ngài. Vậy
thì ngày nay, nếu một vị xuất gia tề chỉnh, biểu hiện sự giải thoát
ly trần, chắc chắn sẽ gây được nhiều
ấn tượng giải thoát trong lòng nhiều người. Do đó đức Phật đã nhiều phen dạy chúng ta phải
tôn sùng quý trọng Giới luật, như trong Thiện kiến luật, Ngài đã dạy
Tôn giả A-nan: "Có 5 điều làm cho Giáo pháp Như Lai tồn tại lâu bền;
ấy là :
Thứ nhất, hàng đệ tử biết tuân giữ Tì-ni giới luật.
Thứ hai, tịnh Tăng thà
nh chủng.
Dù chỉ có năm người xuất gia mà giữ giới thanh tịnh, thì đó là một
yếu tố quan trọng để giáo pháp tồn tại lâu bền.
Thứ ba là truyền thọ bất diệt. Nếu ở trung quốc có người
lập giới đàn truyền thọ giới xuất gia,
ở biên quốc năm người, sự truyền thọ như thế dưới hình thức mười
người hay năm người, từ chỗ này đến chỗ khác,
quốc độ này đến quốc độ khác, cũng là yếu lố khiến Phật
pháp trụ thế lâu dài.
Thứ tư là hạnh nghiệp thanh tịnh.
Khi đã lãnh thọ giới pháp, thì giới pháp chính là những mối ưu
tư những mục tiêu tuân hành. Nếu chúng Tăng phạm giới mà liền biết
sám hối, tập chúng 20 người theo Luật định, để
xuất tội nặng những vị Tỳ-kheo phạm giới, khiến cho những vị ấy
cũng được thanh tịnh như bao nhiêu vị Tỳ-kheo khác, thì đó là yếu
tố làm cho Giới pháp tồn tại lâu bền.
Thứ năm là
trú trì vĩnh cửu.
Tóm lại, nếu có năm người cho đến
nhiều hơn nữa mà đều nhất tâm giữ luật, biết sợ phạm giới, sám hối
những điều đã
phạm, thì đó là những yếu
tố quan trọng khiến Phật pháp tồn tại trong thời gian 5.000 năm. Năm ngàn
năm mà từ trước tới nay chúng ta thường nghe nhắc đến trong các buổi
lễ Phật, chính là căn cứ vào các yếu tố căn bản giữ giới, tu giới,
xuất giới khi phạm tội, thanh tịnh tập chúng ấy. Giữ được những yếu
tố ấy một cách viên mãn tức là bảo vệ Phật pháp được vững
bền trong thế gian này.
Các vị đã thọ Sa-di từ lâu, có
người hai năm, có người năm bảy năm. Trong thời gian ấy, tcòn nhỏ, song
các vị cũng đã
ở trong dòng Phật pháp, cũng như chúng tôi, như bao
nhiêu vị Thượng tọa, Đại đức khác. Hôm nay sắp
thọ Tỳ-kheo giới, rời khỏi tuổi thiếu niên để trở nên một người
thanh niên trong hàng xuất gia, thành một vị Đại
đức, một người lớn trong Phật giáo, tất nhiên các vị phải
thành tâm chú ý tuân hành nhiều hơn nữa những giới pháp mà Phật đã dạy.
Đó là 250 giới mà tam sư thất chứng sẽ truyền trao cho các vị chốc nữa
đây. Hai trăm năm mươi giới luật tuy nhiều,
nhưng căn bản không ngoài mười giới mà các vị đã thọ trong lần
thọ Sa-di giới, mà
nói tóm lại, cũng không ngoài bốn tánh giới "Sát, Đạo,
Dâm, Vọng". Bốn tánh giới ấy là chính yếu, 250 giới là những điều
luật tạo thành vị Tỳ-kheo gương mẫu đầy đủ
oai nghi trong các việc “ăn, mặc, ở” của người xuất gia.
Với thành tâm thiện chí, 10 giới
Sa-di các vị đã giữ được, thì 250 giới, các vị cũng sẽ giữ được
dễ dàng. Một khi các vị đã dõng mãnh phát tâm xả thân cầu giới
như Tổ sư đã xả thân cầu giới, thì chắc chắn các vị sẽ giữ trọn
Giới pháp của Phật không gì khó khăn. Mà khi đã giữ giới một cách
viên mãn thì tất nhiên chúng la sẽ trở nên những trưởng tử của đức
Phật, hà đảm Như Lai huệ mạng. Một người trưởng
tử như thế, nhiều người trưởng tử như thế, sẽ khiến Phật pháp
được bền lâu, báo đáp thâm ân của đức Phật một cách viên
mãn.
Khi trở thành những vị Tỳ-kheo,
Đại đức, sẽ có những Giới luật mà các vị cần phải chú hết tâm
ý để tuân hành. Do đó, khi sắp đến trước thập sư để lãnh thọ
giới pháp, các vị sẽ qua một lần hạch hỏi về những già nạn, nghĩa
là những điều mà nếu mắc phải, sẽ là những chướng ngại khiến cho các vị không thọ giới được.
Những già nạn ấy, các vị phải chú tâm trả lời một
cách thành thật. Phần lớn những già nạn ấy đều dễ hiểu, chỉ có
vài điều cần chỉ trước để khi hỏi tới, các
vị có thể hiểu và trả lời một cách mau chóng. Các Ngài sẽ hỏi
các vị có phạm "biên tội" không? Trong đây, danh từ "biên tội"
có nghĩa là Phật pháp được ví như biển lớn, nếu kẻ nào phạm phải
bốn giới trọng: Sát, Đạo, Dâm, Đại vọng ngữ
thì sẽ bị coi như đã bị loại ra ngoài biển Phật pháp. Một già
nạn khác: các vị có phải tặc trụ thọ giới không? Có nghĩa là những
kẻ chưa thọ giới, giả vờ đã thọ để vào làm giặc, phá hoại trong
Phật pháp. Những kẻ ấy, không vì mục tiêu giải thoát mà vì một dụng
tâm tầm thường nhỏ hẹp, nên khi vào Đạo thì không có tư cách,phá giới,
phá kiến, làm cho Phật pháp vì họ mà bị hủy hoại. Nếu các vị quả
thật nhất tâm cầu Giới, vì muốn giải thoát, muốn trở nên một ông
"Thầy" chân chính, thì các vị hãy mạnh mẽ trả lời
"Không". Một già nạn khác nữa là: Các vị có phải là nội ngoại
đạo phá giới không? (có nghĩa là kẻ ngoại đạo,
giả xuất gia thọ giới rồi trở về ngoại đạo, sau một thời gian, gặp
cơ hội thọ giới, cũng xin vào thọ lại, ấy là kẻ nội giáo mà lại
là ngoại đạo). Còn nhiều già nạn khác nữa... Các già nạn trên đây
là những điều có thể hơi khó hiểu với các vị.
Tựu trung thâm ý của đức Phật là muốn một vị Tỳ-kheo tiêu biểu
Phật ở thế gian, là trưởng tử của Phật, phải là một người hoàn
toàn mang tâm niệm chính đáng xuất gia. với lòng tôn thờ Phật pháp,
hoài bão hoằng dương Chánh pháp, chứ không thể là một kẻ xuất gia với
tâm niệm tặc trú.
Các vị sẽ thành thật trả lời những già nạn ấy trước
Thập sư. Khi qua những già nạn ấy rồi, tức là các vị đã hết chướng
ngại, đã đủ tư cách thọ lãnh giới pháp để trở thành những vị Tỳ-kheo
tương lai của Phật giáo.
Giờ thọ giới sắp bắt đầu.
(*) Trên đây là lời Khai đạo giới tử tại giới đàn
Vĩnh gia chùa Tỉnh giáo hội và Phật học viện Phổ Đà–Đà Nẳng, từ
ngày 18 đến 22 tháng 9 năm Canh Tuất (17 đến
21-10-1970).
Mục Lục
| 1 | 2 | 3
| 4 | 5 | 6