- Gương Lành Thánh Ðại Ca
Diếp (Mahà Kasapa)
Vị Tăng Thống Phật Giáo đầu tiên
- Tác giả: Hellmuth Kecker
- Diễn dịch: Nguyễn Ðiều (1992)
Phần 2
III. NHỮNG TIỀN KIẾP CỦA KASSAPA
(CA DIẾP) VÀ CỦA BHADDÀ KÀPILÀNÌ (MỸ HẠNH)
Vào thời đức Phật quá khứ tên
là Vipassì, tiền thân Ca Diếp (Kassapa) và Mỹ Hạnh (Bhaddà) đã sinh làm đôi
vợ chồng Bà-la-môn vô cùng nghèo khổ. Họ khốn khổ đến độ mà cả
hai chỉ có một mảnh vải che thân. Hễ chồng đi làm thuê, làm mướn kiếm
ăn, thì vợ phải chịu lõa lồ, ẩn thân trong chòi lá. Còn khi vợ ra đồng
gánh nước, hái rau, thì chồng phải trốn trong nhà, không dám gặp ai cả!
Vì "gia sản" của họ chỉ
có một tấm vải che thân, nên người đời đã gọi là "vợ chồng chỉ
có một cái khố " (Ekasàtaka)!
Ðối với chúng ta ngày nay, cảnh
cùng khốn cỡ ấy là một điều khó tưởng tượng được. Nhưng càng
khó tưởng tượng hơn nữa, là trên thế gian nầy, hẳn đã có những kẻ
bất hạnh như vậy, mà họ vẫn nhẫn nại, vui vẻ, tiếp tục kiếp sống.
Và tiền thân của hai vị Thánh trong Phật giáo chúng ta, là hai con người
đã trải qua quãng đời khốn khổ ấy! Ðức tính độc đáo đáng nói ở
đây là sự hòa thuận của đôi vợ chồng cùng đinh kia, được mô tả như
một thứ "hạnh phúc" căn bản có thể giúp họ vượt qua, chịu
đựng nổi một cuộc sống hoàn toàn đen tối!
Nhưng cả hai vợ chồng nghèo mạt
ấy đều đã được duyên may là sinh ra nhằm thời có đức Phật độ đời.
Họ một lòng thay phiên nhau người nầy đi nghe pháp thì người kia vui vẻ
ở nhà.
Ngày nọ, nhân nghe bài pháp của đức
Phật Vipassì thuyết về phước báu của sự dâng y, người chồng bỗng phát
tâm muốn bố thí. Nhưng nhìn lại mình chẳng có một vật gì cả ngoài
cái khố! - Thứ nhất, bố thí rồi lấy chi vợ che thân, lần sau đi nghe
pháp?! - Thứ hai, không khố thì cách chi ló mặt ra làm thuê làm mướn kiếm
ăn?!
Sự ngần ngại đã khiến cho người
cùng đinh đấu tranh với nội tâm quyết liệt. Anh tự nhủ "cái khố
này là vật chung của vợ ta và ta. Vậy để thuận vợ thuận chồng, ta hãy
về nhà hỏi ý kiến nàng. Nếu nàng đồng ý thì ta sẽ đem hiến vào lễ
dâng y!" Nhưng anh lại suy nghĩ: "Giả sử vợ ta không đồng ý thì
ta không còn hy vọng gì thực hiện hạnh bố thí hay sao!?"
Càng phân tích và đắn đo, anh càng
thấy: "Cái phúc mới khó tìm, chứ lòng ích kỷ thì hai vợ chồng anh
luôn luôn sẵn sàng dứt bỏ!... "
Ðoạn anh quá vui sướng với sự
chiến thắng được lòng mình, quên hết hoàn cảnh xung quanh là một buổi
đức Phật đang thuyết pháp. Anh bất thần chắp tay la lớn "Ta thắng
rồi, ta thắng rồi!... ".
Lúc ấy nhà vua cũng có mặt nghe
pháp. Tuy vua ngồi trên cao nhưng tiếng la của anh chàng "nhất khố"
vẫn thấu tai quân vương rất rõ. Vua liền ra lệnh cho vệ quan dẫn người
"làm ồn" đến hỏi rằng:
- Anh dân nghèo kia! Chỗ đức Phật
thuyết pháp là nơi tôn nghiêm, tại sao anh dám la lớn tiếng?
- Cúi tâu bệ hạ! Vì tiện dân hiểu
được một quả phúc trong lời Phật dạy, nên thỏa thích quá, quên mất
mình đang ở chỗ tôn nghiêm! Muôn lạy bệ hạ rộng dung!
Nhà vua nghe thế lấy làm lạ, bèn
hỏi tiếp:
- Ngươi bảo "hiểu được quả
phúc" mà la hoảng "ta thắng rồi, ta thắng rồi" là nghĩa làm
sao, hãy nói cho trẫm nghe?!
Anh chàng "nhất khố" vội
thành thật thuật lại ý định muốn hiến mảnh khố duy nhất của mình
vào lễ dâng y, và những do dự trong tâm anh trước hoàn cảnh vợ chồng
chỉ có một mảnh vải. Anh thuật trọn đầu đuôi, đến lúc anh dồn hết
nghị lực, chiến thắng được lòng ích kỷ của mình mà quên cả mọi vật
xung quanh, nên buộc miệng la lớn "ta thắng rồi, ta thắng rồi!
v.v..."
Nhà vua nghe xong hết tỏ vẻ nghiêm
khắc. Ðoạn vua hoan hỉ ban cho anh chàng Bà-la-môn "nhất khố" ấy
nhiều quần áo, và truyền quan thị vệ đưa vợ chồng anh vào cung phong
cho chức Nội Giám và Cung Nữ.
Thế là số phận bần cùng của đôi
bạn Bà-la-môn "nhất khố" kia chấm dứt từ đó!
Khi hết tuổi thọ, người chồng làm
Nội Giám, nhờ quả phúc bố thí không vị kỷ, do bài pháp của đức Phật
Vipassì, đã sinh lên cõi trời. Còn người vợ sinh là tiên nữ.
Rồi mãn kiếp thiên giới, cả hai
cùng giáng trần, sinh làm vua và hoàng hậu, cai trị vương quốc sung túc rộng
lớn. Cả vua và hoàng hậu đều thiện tâm hết lòng thương dân, nên bá
tánh được an vui, hạnh phúc. Ðặc biệt là đức vua cùng hoàng hậu luôn
luôn tôn kính những bậc Sa-môn, đạo sĩ có giới hạnh, đồng thời hết
lòng hộ độ các bậc Thánh nhân, nhất là chư vị Bích Chi Phật (hay còn
gọi là Phật Ðộc Giác).
Một tiền kiếp khác, tiền thân Mỹ
Hạnh (Bhaddà Kàpilànì) sinh làm mẹ một thanh niên Bà-la-môn, là học trò
của một vị Bồ Tát (Bodhisatta), (Bồ tát nầy về sau là đức Phật!).
Thanh niên nầy rất đẹp trai, hiền lành và nuôi hạnh xuất gia. Còn tiền
thân Ðại Ca Diếp (Kassapa) thì sinh làm cha, và A Nan Ðà sinh là con trai duy
nhất trong gia đình, tức là người thanh niên Bà-la-môn nói trên.
Người mẹ vốn muốn cho con trai mình
(tiền thân Ananda) trước khi trở thành đạo sĩ, hãy hưởng thụ những lạc
thú ở đời. Nhưng một biến cố đã làm cho thanh niên kia phát lòng nhàm
chán cảnh sống thế tục một cách quyết liệt! Ðó là vụ bà mẹ của
thầy người thanh niên bỗng đâm ra yêu thương chàng, rồi si tình với
chàng. Bà si tình đến độ có thể sẵn sàng giết chết con trai mình để
tránh gặp trong những vấn đề luyến ái. Thanh niên Bà-la-môn ấy quả là
một nạn nhân bị vướng trong một vở "kịch tình" đầy mù
quáng, dâm dật và táo bạo. Chàng rút được một bài học về sự nguy hiểm
của tật ô nhiễm dục lạc ở đời, nên sau đó chẳng bao lâu, chàng đã
thành công trong việc thuyết phục cha mẹ cho phép mình xuất gia, làm đạo
sĩ. (Theo Túc Sinh Truyện số 61: Jàtaka n. 61).
Còn một quá khứ khác thì tiền
thân Ca Diếp (Kassapa) và Mỹ Hạnh (Bhaddà) lại sinh làm đôi vợ chồng
Bà-la-môn có tất cả bốn người con. Bốn người con nầy về sau chính
là Thái tử Sĩ Ðạt Ta (Siddhatta), A Nậu Lâu Ðà (Anuruddha), Xá Lợi Phất
(Sàriputta) và Mục Kiền Liên (Moggallàna) trong giáo pháp của Phật Thích
Ca. Cả bốn người con ấy đều muốn xuất gia làm đạo sĩ. Thoạt đầu
họ bị cha mẹ là vợ chồng ông Bà-la-môn ngăn cản. Nhưng sau, nhờ nghe họ
giải rành lợi ích thiết thực của đời sống tu hành và những sa đọa
của cuộc đời dục lạc, nên chính vợ chồng ông Bà-la-môn cũng theo chân
bốn người con đi xuất gia luôn (Theo Túc Sinh Truyện số 509: Jàtaka n.
509).
Lại trong một tiền kiếp khác, cả
Ca Diếp (Kassapa) và Mỹ Hạnh (Bhaddà) đều đầu thai vào bụng của hai thiếu
phụ Bà-la-môn đứng đầu hai ngôi làng. Hai người chồng làm "xã trưởng"
của hai thiếu phụ nầy vốn là đôi bạn thân giao nên đã hứa với nhau
rằng: "Nếu hai đứa bé sinh ra là một trai và một gái thì họ sẽ trở
thành sui gia với nhau!". Rồi điều mong ước của họ đã đến.
Nhưng hai đứa trẻ ấy vốn là hậu
thân của hai vị tiên từ cõi trời Phạm Thiên giáng trần, nên chúng chẳng
những đã không mắc dính trong sự luyến ái, mà còn đồng loạt xin phép
cha mẹ được xuất gia làm đạo sĩ. (Theo Túc Sinh Truyện 540: Jàtaka n.
540).
Còn nói về sự lầm lỗi, hành động
trong ngu tối thì tiền thân Mỹ Hạnh (Bhaddà) đã phạm một lần. Ấy là
thời quá khứ xa xưa khi không có Phật Toàn Giác ra đời cũng như lúc
chánh pháp đã mạt, nhưng trên thế gian còn một vị Phật Ðộc Giác
(Paccekabuddha). (Phật Ðộc Giác là một Thánh nhân rất ít nói và hiếm khi
thuyết pháp cho ai!). Mỹ Hạnh (Bhaddà) ngẫu nhiên đã tái sanh làm một nữ
điền chủ. Một hôm do gây gổ với cô em dâu có sắc đẹp và đức hạnh,
thường xuyên cúng dường cho vị Phật Ðộc Giác khi Ngài đi khất thực.
Rồi người nữ điền chủ ấy vì ganh tị đã đem bùn đổ vào trong bát
của vị Phật Ðộc Giác, cốt ý chỉ để chọc tức cô em dâu kia. Nhưng
khi nghĩ lại thì bà liền hối hận, vội đến gặp vị Phật Ðộc Giác,
để xin lại bình bát, rửa sạch sẽ, rồi đặt nhiều thức ăn sang trọng
thơm ngon vào, và dâng lại cho "Vị đạo sĩ " (Bà điền chủ không
ngờ đó là một vị Phật Ðộc Giác).
Do nhân vừa lành vừa xấu ấy,
trong kiếp kế tiếp, tiền thân Mỹ Hạnh (Bhaddà) đã sinh làm một người
đàn bà rất xinh đẹp, nhưng trong người tiết ra một mùi hôi thối,
không ai dám ở gần lâu. Tiền thân Ca Diếp (Kassapa) lúc ấy là người chồng,
thoạt đầu vì mê sắc đẹp lấy nhau, nhưng về sau cũng không chịu nổi,
phải xa lánh.
Vì là một thiếu phụ xinh đẹp, bà
lại biết tẩm nhiều dầu thơm để che giấu "điểm yếu" của mình
nên sau đó bà vẫn được nhiều người đàn ông khác mến chuộng. Chỉ một
điều bất hạnh cho bà là ai cưới bà, rồi sau cũng phải bỏ! Bao nhiêu
cuộc tình hoa mộng của bà rồi cũng dẫn đến một kết thúc chia tay.
Trong lúc bà đang tuyệt vọng thì một
ý nghĩ tự tử muốn lìa bỏ cuộc đời chợt đến. Bà tự nhủ "trước
khi nhắm mắt, ta hãy sử dụng một cách hữu ích những của cải nầy.
Ðoạn bà tập trung hết đồ nữ trang vàng, bạc, nhờ thợ đúc nấu chảy
đúc thành một viên gạch rất quý. Bà đem viên gạch rất quý ấy cúng dường
đến một tu viện, để xây vào trong một ngôi bảo tháp là chỗ tôn thờ
hài cốt của một đức Phật mới nhập diệt! Và viên gạch của bà là
viên gạch cuối cùng hoàn tất công cuộc xây dựng ngôi bảo tháp!
Lạ thay, sau khi làm xong việc lành
ấy, bà chưa kịp quyên sinh thì mùi hôi thối trên người bà tự nhiên biến
mất, thân thể trở thành thơm tho, và người chồng đầu tiên là tiền
thân Ca Diếp (Kassapa) đã trở lại tìm bà và sống chung một cách êm ấm
như thuở họ mới cưới!
Túc Sinh Truyện (Jàtaka) cũng ghi rõ:
Hai kiếp trước khi đến kiếp chót, tiền thân Ca Diếp (Kassapa) và tiền
thân Mỹ Hạnh (Bhaddà) đã tái sinh làm quốc vương và hoàng hậu, ngự trị
trong cung vàng điện ngọc ở Ba La Nại (Benares). Vì hoàng hậu là người rất
sùng bái chư vị Thánh Tăng, nên nhân có một đức Phật Ðộc Giác bất
thần viên tịch, bà đâm ra kinh cảm, chán nản cuộc đời phù du, rồi bỏ
ngôi hoàng hậu đi xuất gia, chăm chỉ tu thiền trên núi Hy Mã Lạp Sơn
(Himalaya). Khi mãn tuổi thọ, cả đức vua và bà đều được sinh lên cõi
trời Phạm Thiên. Và ở đó họ đã an hưởng một cuộc đời vô cùng trường
thọ (dài bằng vô số kiếp người, không thể nào đếm xiết!), cho đến
khi cả hai cùng giáng sinh xuống cõi trần, làm con trai và con gái trong hai
gia đình Bà-la-môn, rồi mang tên Pipphali Kassapa (Thường Tịnh Ca Diếp) và
Bhaddà Kàpilànì (Mỹ Hạnh).
Từ những Túc Sinh Truyện kể
trên, chúng ta có thể kết luận rằng: Trong hầu hết các kiếp quá khứ,
tiền thân của Ðại Ca Diếp và Thánh ni Mỹ Hạnh đã luôn luôn hưởng phúc
lành trên cõi trời Phạm Thiên, và tinh tấn gìn giữ đức hạnh khi làm người.
Ðó cũng chính là lý do mà kiếp chót họ đã xem thường danh vọng, lìa bỏ
của cải một cách dễ dàng. Nhất là khi họ đã là vợ chồng mà cũng có
thể giữ được nhục thân thanh tịnh, không cho nết dâm dục làm hoen ố
lục căn, để cuối cùng đạt được quả giải thoát cao nhất trong các
hàng Thinh Văn đệ tử Phật!
IV. CA DIẾP GẶP PHẬT
Tiếp tục câu chuyện, chúng ta hãy
quay lại, theo dõi bước chân của Ðại Ca Diếp (Mahà Kassapa) xem. Sau khi
chia tay với người "bạn đường", nguyện vọng tìm đạo đã
đưa ông về đâu?
- Theo kinh điển chép lại thì lúc
ấy quả đất đã rung động vì không chịu nỗi đức hạnh vô lượng và
đại chí xuất gia của đạo sĩ "Thường Tịnh Ca Diếp"!
Ðức Phật thấy rõ trạng thái ấy
và biết rằng: Một vĩ nhân đang đến cơ duyên gặp Phật và trở thành bậc
đại tông đồ. Ngài liền ra khỏi bồ đoàn (chỗ ngồi), rồi tiến ra
phía đường, đi khoảng năm dặm để hóa độ vị đại đệ tử sắp đến.
Một hành động nghinh đón đầy lòng từ bi mà sử sách sau nầy thường
nhắc lại! (Theo Túc Sinh Truyện số 469, đoạn mở đầu: Jàkata n. 469,
Introd.)
Ðịa điểm đức Phật đang truyền
đạo là Trúc Lâm Tịnh Xá, gần Vương Xá thành và hướng Phật đi gặp
Thường Tịnh Ca Diếp là hướng Nalanda. Do đó chúng ta có thể xác định
được lần gặp gỡ đầu tiên của đức Phật và vị tông đồ thứ nhất
nầy là khoảng giữa Vương Xá thành và Nalanda. (Nalanda về sau đó đã có,
một trường đại học Phật giáo quốc tế lớn nhất đầu tiên và là chỗ
phát xuất hầu hết những tài liệu nghiên cứu Phật giáo căn bản cho tất
cả các trường phái Phật học trên thế giới. Chính Trần Huyền Trang, đời
nhà Ðường ở Trung Hoa cũng là một học giả xuất thân từ Ðại viện
Phật giáo Nalanda nầy.)
Ði được khoảng năm dặm thì đức
Phật dừng chân, an tọa cạnh gốc một cây sung, chờ người đại đệ tử...!
Khi "Thường Tịnh Ca Diếp" (Pipphali Kassapa) đến nơi, thì ông nhìn
thấy dung mạo của đức Phật tỏa hào quang rực rỡ, phong thái siêu
phàm, thanh tịnh và giải thoát bao trùm cả thân thể, nên tự nhủ:
"Ðây hẳn là một siêu Thánh nhân, một bậc đại Giác ngộ! Ngài
chính là ánh sáng cứu khổ mà ta đang muốn tìm!"
Nghĩ thế, ông liền xụp lạy Phật
rồi tán dương rằng:
"Kính đảnh lễ đấng Cao thượng.
Ngài chính là Phật toàn giác, là Bổn sư của bần đạo!"
Ðức Phật liền đáp:
"Nầy Ca Diếp! Ông hãy ngồi xuống
đây! Như Lai có một của quý tặng ông! Ðó là pháp giải thoát mà ông sẽ
là người thừa hưởng!"
Rồi đức Thế Tôn tiếp:
"Hãy rèn luyện lấy ông! Nầy
Ca Diếp! Thứ nhất là hai pháp ghê sợ và hổ thẹn tội lỗi. Hai pháp cao
thượng nầy phải luôn luôn có trong tâm các Sa-môn lão thành, các tu sĩ mới
nhập môn, hay các Tỳ-khưu trung niên trong Phật giáo, vì đó là căn bản của
phạm hạnh!
Thứ hai là pháp lành nào ông nghe
được của Như Lai, có khả năng đưa đến thiện nghiệp thì ông phải
tinh tấn ghi nhớ, tinh tấn suy gẫm và tinh tấn thi hành!
Thứ ba là định tâm biết mình,
tránh xa mọi nguyên nhân làm cho dễ duôi, nhất là làm cho người đời
khinh mạng và ỷ lại.
Ðây là những pháp mà ông phải thực
hiện!" (Theo chú giải thì khi ấy đức Phật đã dùng thần thông để
lộ ra ba mươi hai tướng tốt cho Thường Tịnh Ca Diếp nhìn thấy!)
Sau đó cả đức Phật và vị đệ
nhất đại tông đồ dời gót về hướng Vương Xá thành. Trên đường đi
đức Thế Tôn bỗng rẽ vào một gốc cây tỏ ý muốn nghỉ chân. Thường
Tịnh Ðại Ca Diếp lập tức lấy y ngự hàn của mình xếp lại bốn lần
để làm tọa cụ cho đức Phật ngồi. (Theo kinh điển Phật giáo thì đây
là một hành động tạo phúc vô cùng ý nghĩa của Ðại Ca Diếp trong kiếp
chót!).
Ðức Phật từ bi ngồi xuống, rồi
khen rằng:
"Nầy Thường Tịnh Ðại Ca Diếp!
Tấm y ngự hàn của ông xếp làm tọa cụ thật êm và tiện lợi!"
(Lời thêm của dịch giả: Có sách gọi tấm y
ngự hàn của Ðại Ca Diếp là thứ y vá nhiều lớp, tức y rách! Nhưng
theo chỗ sưu tầm của chúng tôi thì đó là một thứ y chống lạnh. Vì thời
cổ Ấn Ðộ, người ta thường cắt vải làm nhiều mảnh nhỏ, rồi bện
chồng lên nhau, cho dày, cho ấm!).
Lúc ấy Ðại Ca Diếp thưa:
"Bạch đức Bổn Sư! Xin Ngài từ
bi nhận lãnh tọa cụ, vừa là y ngự hàn này!"
"Này Ðại Ca Diếp! Nhưng Như
Lai chẳng có vật gì để tặng lại ông! Như Lai chỉ có mảnh y bằng vải
thô đã rách, đã cũ. Như Lai muốn biếu ông...!"
Thường Tịnh Ðại Ca Diếp vui mừng
tiếp nhận:
"Thật là hạnh phúc cho bần đạo,
được trao đổi y phục với đức Bổn Sư! Bần đạo sẵn sàng mặc tấm
y vải thô vừa rách, vừa cũ nầy, do đức Phật trao tặng!"
Trong Tam Tạng, sự trao đổi y phục
ấy, đã được xem như một "Vinh dự" lớn nhất mà đức Phật dành
cho Ðại Ca Diếp! Vì ngoài ông ta, không một đệ tử thứ hai nào của đức
Phật, được hân hạnh như thế!
Và sau lần trao đổi y phục ấy,
Ðại Ca Diếp phát nguyện thường xuyên thọ hạnh tu đầu đà (Dhutanga) Một
cách tu khổ hạnh, hạn chế sự đòi hỏi của xác thân rất hiệu nghiệm.
Cách tu "Khổ hạnh" nầy có mười ba chi, gọi là mười ba pháp tu
đầu đà, như sau:
1. Nhặt vải quấn tử thi, hay vải bỏ để khâu
lại làm y, chứ không dùng y mới (Pamsukùlika).
2. Chỉ sống với tam y (Tecìvarika), tức là chẳng
có y dự trữ (Tam y là Y Tăng Già Lê, Y Uất Ðà La Tăng và Y An Ðà Hội).
3. Phải khất thực mỗi buổi sáng mà ăn, trước
12 giờ trưa (Pindapàtika).
4. Khi đi khất thức, không được bỏ sót một
nhà nào cả (Sabbadàna Càrika): Ám chỉ sự hóa độ bình đẳng. Sa-môn
chân chính là người, không chọn nhà giàu, hay nhà có thiện cảm, để kiếm
thức ăn ngon, mà quên nhà nghèo, hay nhà kém từ tâm, có thể hiến thức
ăn dở!
5. Phải ngồi bán già hay kiết già mà thọ thực
và chỉ một lần, trước 12 giờ trưa. Khi đứng dậy thì không thể thọ
thực nữa (Ekàsanika).
6. Phải ăn trong bình bát (Pattapindika).
7. Chỉ nhận thức ăn vào bình bát từ tay thí
chủ vừa đủ và một lần thôi (Khalupacchà Bhattika).
8. Phải ở trong rừng, không được ngụ trong xóm
(Araĩĩika).
9. Lấy vật thiên nhiên như bóng cây che mưa, che
nắng, không dựng trại, cất cốc (Rukkhamùlika).
10. Nếu chẳng có rừng núi, chẳng có bóng cây,
thì phải kiên nhẫn ở trên quãng trống, không được tìm kiếm cho ra hang
hay động (Abbhekàlika).
11. Thường xuyên dùng nghĩa địa làm nơi hành
đạo (Sosànika).
12. Nếu Tăng đoàn chỉ định "Tỳ-khưu thọ
hạnh đầu đà phải ở chỗ nầy hay chỗ kia v.v..." thì hành giả phải
tuyệt đối tuân theo, không được trái lệnh! (Yathàsanthatika).
13. Chỉ ngồi mà không nằm (Nesajjika). Ý nói chỉ
dùng ba oai nghi đi, đứng và ngồi, chứ không nằm! Vì oai nghi nằm thường
làm cho con người ngủ say, quên mất việc hành đạo!
(Mười ba pháp tu đầu đà nầy do dịch giả sưu
tầm và bổ sung. Trong bản chính bằng tiếng Anh tựa là Mahà Kassapa của
Hellmuth Hecker không có).
Theo chú giải thì Sa-môn Ðại Ca Diếp,
đã phát nguyện thọ hạnh đầu đà thường xuyên kể từ đó, để xứng
đáng với sự tiếp nhận tấm y vải thô do đức Phật tự tay trao tặng.
Ðại Ca Diếp chính là vị Sa-môn
đầu tiên, có dũng chí thực hiện mười ba pháp đầu đà, khi đức Phật
chỉ dạy, đã phát triển tính tri túc, hạnh chối bỏ, và rèn luyện nghị
lực giải thoát. Ông cũng là bậc gương mẫu thứ nhất trong hàng Tăng chúng,
khiến cho hầu hết những đệ tử của ông đã noi gương ông tu hạnh đầu
đà trọn đời! (Theo Anguttara Nikàya: Tăng Chi A Hàm).
Vào ngày thứ bảy sau khi gia nhập
đạo Phật, Sa-môn Ðại Ca Diếp đắc quả A-la-hán, một phẩm Thánh cao nhất,
đã giải thoát ông khỏi mọi phiền não thô thiển lẫn vi tế.
Rồi một thời gian khá lâu sau nầy,
nhân trong một cuộc nói chuyện với A Nan Ðà, Trưởng lão Ðại Ca Diếp
đã thuật lại giai đoạn "vỡ lòng" tu Phật của ông như sau:
"Bảy ngày đầu, bần đạo thọ
dụng sự cúng dường của chư tín thí mà thân tâm chưa được giải thoát.
Nhưng qua ngày thứ tám, Thánh quả A-la-hán đã hiện hữu trong tâm!"
(Theo Samyutta Nikàya 16:11 - Tạp A Hàm 16: 11).
V. DUYÊN PHẦN CỦA ÐẠI CA DIẾP
TRONG HÀNG CÁC GIÁO ÐỒ CỦA PHẬT THÍCH CA
Những điển tích xưa nhất đã chứng
tỏ có một mối liên quan cộng nghiệp và luân hồi sâu xa giữa tiền
thân Ðại Ca Diếp và đức Bồ Tát tiền thân Phật Thích Ca. Mối liên
quan nầy dĩ nhiên đã nằm sâu trong những kiếp quá khứ. Và theo các Túc
Sinh Truyện kể rõ, thì có ít nhất mười chín kiếp, Ca Diếp và tiền
thân Phật đã tái sanh trong cùng một gia đình. Theo đó, có đến sáu lần,
tiền thân Ðại Ca Diếp đã sinh làm cha của đức Bồ Tát tiền thân Phật.
(Ghi trong các Túc Sinh Truyện số 155, 432, 509, 513, 524, 540). Và có hai lần họ
sinh làm anh em. (Ghi trong Túc Sinh Truyện số 488, 522). Còn hầu hết họ sinh
làm bạn hữu, hay làm thầy trò.
Do đó, chúng ta sẽ không lấy gì
làm ngạc nhiên khi chứng kiến Ðại Ca Diếp vào kiếp chót, vừa trông thấy
đức Phật, đã tỏ ra cảm mến, phục tòng và lập tức "nhận Phật"
là bậc Tôn Sư! (Giống như một niềm "trông đợi" từ nhiều kiếp
của hai bậc phạm hạnh đã đến lúc hội tụ chín muồi!)
Nếu xem kiếp chót là lần "đoàn
tụ" sau cùng, quý báu nhất của Ðại Ca Diếp với đức Phật, thì
chúng ta có thể nhắc lại những đoạn huấn dụ sau đây, để định được
vị trí của Ðại Ca Diếp trong khi đức Thế Tôn còn tại tiền:
"Nầy Ðại Ca Diếp! Ông hãy
thuyết pháp đi! Thuyết pháp đến chư Tỳ-khưu tăng, khuyến khích họ tinh
tấn trong chánh đạo! Nầy Ðại Ca Diếp, ông và Như Lai, một trong hai người
phải hướng dẫn Tăng chúng!" (Theo Tạp A Hàm 16: 6 - Samyutta Nikàya 16:
6).
Những lời nói đặc biệt trên đây,
đức Thế Tôn đã chỉ nói với Ðại Ca Diếp, chứ không thốt với ai
khác!.
Theo chú giải thì đức Phật sở
dĩ đã không "đề nghị" những nhiệm vụ (hướng dẫn Tăng chúng)
tương tự, đến Xá Lợi Phất (Sàrìputta) và Mục Kiền Liên (Moggallàna),
không phải vì đức Thế Tôn không tín nhiệm hai vị cao đồ này, mà vốn
là vì đức Phật biết trước hai Thánh Tăng ấy và Phật sẽ nhập diệt
trước Ðại Ca Diếp! Còn A Nan Ðà thì khi ấy chưa đắc quả A-la-hán!
Mặc dù đức Phật đã nhiều lần
xác nhận và khen ngợi khả năng nói pháp của Ðại Ca Diếp, nhưng có ba
trường hợp, vị tông đồ thứ nhất nầy vẫn ngần ngại không chịu
khuyên nhủ chư Tỳ-khưu tăng. Ông làm như vậy chẳng phải vì ông không sẵn
lòng, hay chẳng phải vì ông chểnh mảng trong việc giáo dục các thế hệ
trẻ, mà là vì ông biết chắc có một số Tỳ-khưu bất tuân chánh pháp!
Trường hợp thứ nhất, Trưởng lão
Ðại Ca Diếp đã nhận thấy: "Khuyên nhủ những Tỳ-khưu thường cãi
lại không thực tâm phục thiện, chẳng phải là một chuyện dễ! Chưa kể
những Tỳ-khưu nầy vốn từ chối, chẳng chịu nghe các hàng huynh trưởng
dạy dỗ, và tỏ ý khinh thường đồng đạo!". Trưởng lão Ðại Ca Diếp
còn nghe các Tỳ-khưu thiếu đức hạnh ấy khoe khoang rằng: "Chính họ
mới có tài luận đạo và thuyết pháp". Họ còn thách đố "Chúng
ta hãy thử thuyết pháp thi đua, xem ai giỏi hơn ai, ai có thể thuyết pháp
dài, duyên dáng và lời giảng nhiều văn chương hơn ai?"
Khi đức Phật được Ðại Ca Diếp
thuật lại chuyện này, Ngài liền cho triệu tập những Tỳ-khưu cứng đầu
và ngã mạn để răn bảo, đem họ trở về với hạnh tu khiêm nhường, dẹp
bỏ tật xấu "xem một vài khả năng phàm tình như những chân lý giải
thoát" (Theo Samyutta Nikàya 16.6 - Tạp A Hàm 16. 6). Kết quả Ðại Ca Diếp
đã nhờ tính nhẫn nại mà dùng từ bi pháp của đức Phật phục thiện
được một số Tỳ-khưu lầm lạc, thay vì Trưởng lão đối địch tranh
luận hay chỉ trích như họ.
Trường hợp thứ hai, Ðại Ca Diếp
đã gặp phải một nhóm Tỳ-khưu ương ngạnh, khinh thường mọi hậu quả
tương quan, không tin vào điều tốt, nghiệp xấu, không biết hổ thẹn và
ghê sợ tội lỗi, không sẵn sàng tìm hiểu thế nào là điều ngay lẽ thật!
Trước một hiện tượng đáng tiếc như thế, Ðại Ca Diếp đã đưa ra một
nhận xét tổng quát, không nhắm vào một cá nhân nào hết. Ông nói:
"Tình trạng suy đồi hạnh kiểm
của những Tỳ-khưu vô ý thức đó, có thể ví như vầng trăng đang khuyết
dần. Một tinh cầu mỗi ngày một đi vào trong quỹ đạo bị che mất ánh
sáng, không còn sự lộng lẫy, không còn niềm tin, không còn hy vọng viên
dung, không còn động lực đưa đến thánh nghiệp, và không còn ý chí giải
thoát!" (Theo Samyutta Nikàya 16. 7 - Tạp A Hàm số 16. 7).
Còn trường hợp thứ ba thuật lại
khi ấy đức Phật, đứng trước sự do dự phải hướng dẫn các Tỳ-khưu
"bất cần tiến bộ" của Ðại Ca Diếp, Ngài đã đích thân khuyến
cáo chư Tỳ-khưu tăng lầm lạc khuyên họ phải trở về với chính hạnh,
và Phật không tiếp tục "nài ép" Ðại Ca Diếp làm việc ấy nữa!
Phật dạy:
"Nầy Ðại Ca Diếp! Thật là
đáng khen, khi có những Sa-môn chỉ thích ẩn cư trong rừng vắng, chỉ sống
bằng khất thực, chỉ dùng y cũ, chỉ có tam y, chỉ thích cô độc...! Những
Sa-môn nầy luôn luôn tri túc và ít ham muốn, luôn luôn chuyên cần trong phạm
hạnh và đề cao đời sống đơn giản, luôn luôn ôn hòa và vui vẻ...! Khi
những Sa-môn như thế đi đến đâu thì họ được các hàng cư sĩ hay xuất
gia đón tiếp một cách mừng rỡ và kính trọng, xem họ như những Thiên
chúng, rồi phần đông tự động rủ nhau bắt chước họ, hành trì chánh
pháp, để được lợi ích cho mình, và làm gương cho những người khác!
Ðây là chân hạnh phúc!"
- Nầy Ðại Ca Diếp! Nhưng cũng có
những kẻ được thiên hạ đón tiếp một cách long trọng, hay được nhiều
người biết danh, chỉ vì họ không thích đời sống đạm bạc, không
thích đời sống trau dồi nghị lực. Họ được nổi tiếng vì tật
"muốn gì được nấy", vì họ có nhiều tiền bạc, và vì lòng
tham thúc đẩy họ cái gì cũng dám làm! Rồi những hạng thấp thỏi, lặn
hụp trong dục lạc, xã hội lấy họ làm gương, cố gắng chạy theo sự
thỏa mãn phàm tục, cho đến khi gục ngã trong đau khổ và thất vọng!
- Nầy Ðại Ca Diếp! Nếu chân hạnh
phúc nói trên được lợi lạc và trường tồn như thế nào, thì đau khổ
và tuyệt vọng do lòng tham gây ra cũng nguy hiểm và dai dẳng như thế ấy!
(N. Ð. giải dịch theo hai đoạn Phật ngôn trong Samyutta Nikàya số 16: 8 - Tạp
A Hàm 16: 8).
Một lần nọ Ðại Ca Diếp hỏi Phật:
"Bạch Ðức Thế Tôn! Vì lẽ
gì trước đây Phật chỉ chế ít điều răn thì có nhiều người tự tu
chứng quả A-la-hán, còn bây giờ Phật dạy đầy đủ giới luật, mà lại
ít người đắc được quả ấy?"
Ðức Phật trả lời:
"Nầy Ðại Ca Diếp! Hiện tượng
suy đồi đạo hạnh giải thoát tuy có xuất hiện trong thời Phật tại tiền
(vì ác nghiệp quá dày của tam giới chúng sinh) nhưng chánh pháp đang còn
tiếp tục ban hành. Vì vậy nên luật răn mỗi ngày một nhiều so với số
Thánh nhân đạt được cứu cánh!
"Nầy Ðại Ca Diếp! Vào thời
mạt pháp chánh hạnh sẽ không còn nữa, sẽ bị người đời khinh bỉ,
nguyền rủa. Thay vào đó, tà đạo sẽ được đề cao, sẽ được phần
đông tranh nhau bắt chước! Như một tai biến đảo lộn tứ đại (Ðất,
nước, lửa và gió) trên địa cầu nầy: Cuồng phong, đại hỏa, hồng thủy
và động đất sẽ xảy ra cùng một lúc làm cho cõi người tận diệt như
thế nào, thì tình trạng tà đạo, ác nghiệp cũng làm cho xã hội, loài người
đen tối, khủng hoảng, thống khổ chìm đắm trong phiền não cùng cực như
thế ấy!
- Nầy Ðại Ca Diếp! Thời mạt
pháp là thời có năm điều hại sẽ thịnh hành là:
1. Người đời không còn tin tưởng vào Phật
là bậc Chánh giác, đã diệt tận phiền não, giải thoát khỏi sinh tử
luân hồi!
2. Người đời không còn tin tưởng vào Chánh
pháp là con đường đưa đến diệt khổ.
3. Người đời không còn tin tưởng vào các bậc
phạm hạnh là các hàng Sa-môn hay cư sĩ tinh tấn thực hành chánh pháp.
4. Người đời không còn tin tưởng vào giới luật
là nền tảng của mọi tiến hóa.
5. Người đời không còn tin tưởng vào thiền
định là phương tiện duy nhất để thanh tịnh nội tâm, tiêu trừ phiền
não.
- Nầy Ðại Ca Diếp! Tuy nhiên,
ngày nào Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, thiện nam và tín nữ còn tin tưởng trọn vẹn
hay tin tưởng một phần nào vào năm giá trị nói trên thì ngày ấy ánh
sáng giải thoát vẫn còn, và vô minh không thể nào độc quyền làm khổ
thế gian được! (Diễn giảng theo ý đoạn Phật ngôn trong Samyutta Nikàya
16:13 - Tạp A Hàm 16:13).
Một điều đáng nhắc lại ở đây
là: Dựa theo ý đoạn Phật ngôn nói trên thì Tăng già không phải là
thành phần duy nhất có thể bảo tồn chánh pháp. Khi các hàng xuất gia, tu
sĩ trở thành dễ duôi, khinh thường giới luật, không thực hành hạnh tu
giải thoát, mà các hàng Phật tử tại gia còn tin tưởng vào năm giá trị
nói trên thì thời mạt pháp hoàn toàn vẫn chưa xuất hiện!
Liên quan đến những đoạn kinh nằm
trong tập Kassapa Samyutta (Ca Diếp Tuyển Pháp), ghi lại những lời khen ngợi
của đức Phật về đời sống khổ hạnh, thường xuyên thọ pháp đầu
đà của Ðại Ca Diếp, thì một lần nọ, nhân nhìn thấy Sa-môn Ðại Ca
Diếp mặc y quá rách, vá không biết bao nhiều lần, dày cộm, khi cọ xát
có thể gây thương tích ngoài da. Ðức Phật đã khuyên vị đại đệ tử
thứ nhất nầy như sau:
"Nầy Ðại Ca Diếp! Nay tuổi
ông đã cao, cần giữ gìn sức khỏe để tiếp tục con đường tu tập,
Như Lai khuyên ông nên nhận y lành của tín thí dâng cúng, và thọ thực nơi
nhà của các hàng Phật tử, khi họ thành tâm thỉnh mời! Như Lai cũng khuyên
ông không nên ở sâu trong rừng, một cách cô lập, phòng khi đau ốm, thiện
nam tín nữ có thể hay biết mà hộ trì...!
Nhưng Ðại Ca Diếp đã chân thành
trả lời:
"Bạch đức Bổn Sư! Ðã từ
lâu, bần đạo vốn quen với nếp sống ẩn tu trong rừng vắng, vốn thuần
thục với bước chân khất thực độ đời, và vốn bình thản dưới lớp
y phục tuy rách nát nhưng còn che được tấm thân. Trong đời sống thanh tịnh
ấy, bần đạo đã tìm ra sự an lạc cao thượng và bần đạo cũng khuyên
những ai hữu duyên với mình nên thực hành như thế! Trong nội tâm của bần
đạo, hạnh phúc chính là sự giảm thiểu ham muốn, tự mãn với những vật
chất gì mình đang có, giác tỉnh và chuyên cần trong chánh niệm!"
"Nầy Ðại Ca Diếp! Ông hãy
thuyết minh đi! Thuyết minh thật rõ ràng vì sao ông thực hành như thế?"
- "Bạch đức Thế Tôn! Có hai
lý do cao thượng khiến cho đệ tử dũng mãnh giữ phạm hạnh đầu đà
nghiêm túc:
- Một là để đạt được chân hạnh
phúc và giải thoát cho chính mình ngay kiếp này.
- Hai là bởi lòng từ bi, muốn tự
thân làm gương lành cho các thế hệ mai sau trong ba cõi!"
Ðức Phật liền tán thán:
"Thật là những lời lẽ quý
báu! Nầy Ðại Ca Diếp! Các điều ông vừa thốt là những Thánh ngôn, diễn
đạt trọn vẹn một phạm hạnh đem lại an vui và hạnh phúc cho chính
mình và cho mọi loài chúng sanh trong tam giới! Phạm hạnh ấy không nên
gián đoạn! Gương sáng ấy không nên để bị che mờ!" (Diễn dịch
theo Tạp A Hàm 16: 5 - Samyutta Nikàya 16:5).
Rồi đức Phật tuyên bố trước các
hàng Tăng chúng rằng:
"Nầy chư Tỳ-khưu! Sa-môn Ðại
Ca Diếp là một người hằng tri túc với y phục nào mình đang có, tri túc
với thực phẩm nào mình hành khất được, tri túc với chỗ ngụ nào
mình đang ẩn tu, và tri túc với thuốc men nào mình có thể tìm ra! Trước
bốn món cần dùng tối thiểu đó, ông không bao giờ biểu lộ một đòi hỏi
gì không xứng đáng với phẩm hạnh của một Sa-môn! Rồi khi ông không
có được bốn thứ nhu cầu khiêm nhượng như thế, tâm tư ông cũng chẳng
vọng động. Hay lúc ông có đủ cả bốn thứ, tinh thần ông vẫn bình thản,
không mắc dính, không say đắm, không vì vậy mà mất thanh tịnh, không
quên mình xem thường những cám dỗ vật chất trần tục! Do tấm gương sáng
đó, Như Lai long trọng tán dương; không có một đệ tử thứ hai nào trong
Phật giáo nhiều thiện hạnh hơn ông! Nầy chư Tỳ-khưu! Như Lai rất khen
ngợi và khuyến khích những ai hằng cố gắng bắt chước công phu tu tập
của Sa-môn Ðại Ca Diếp!" (Diễn dịch theo Phật ngôn trong Tạp A Hàm
16:1 - Samyutta Nikàya 16: 1).
Ngoài những đức tánh đáng ca ngợi
làm gương cho các hàng xuất gia nêu trên, Ðại Ca Diếp còn có nhiều phẩm
hạnh cao thượng khác đối với các giới thiện tín. Ông đối xử một cách
bình đẳng với tất cả mọi người, giàu cũng như nghèo, nhiều thiện
tâm cũng như ít thiện tâm, nhã nhặn cũng như cộc cằn. Khi vào xóm khất
thực, hoặc được mời đi thọ bát, ông không bao giờ lưu ý tín thí là
hạng người nào trong xã hội, giàu sang hay hèn hạ, dâng cúng đồ ngon hay
dâng cúng đồ dở, dâng cúng một cách kính trọng hay tỏ vẻ lạnh lùng
v. v...! Ðối với ông, tất cả đều là những người có duyên lành và
ông phải hóa độ! Ðức Phật đã ví ông như vầng trăng rằm, êm dịu
chiếu xuống muôn loài vạn vật, không phân biệt đẹp xấu, mạnh yếu,
cao lớn, thấp bé, dơ sạch, hay xa gần...
Phật nói:
- Lúc Sa-môn Ðại Ca Diếp đi khất
thực, từ nhà nầy sang nhà khác, tâm ông không mắc dính, không phân biệt,
không tự xiềng xích với những thí vật bất ngờ sắp đến cho ông. Ông
chỉ nghĩ rằng: "Hãy để cho những ai, có thiện tâm cầu phúc, được
làm phúc! Hãy để cho những ai xứng đáng cúng dường nhận sự cúng dường!
Sa-môn Ðại Ca Diếp luôn luôn hài lòng và hoan hỷ, khi các đồng đạo
được tín thí hộ trì đầy đủ! Ông vui mừng như chính ông được dâng
cúng đầy đủ! Một Sa-môn như thế quả thật xứng đáng cho các hàng thiện
nam tín nữ thí thực hằng ngày!
- Khi Ðại Ca Diếp thuyết pháp ông
không dụng tâm dùng những lời lẽ "thuận tai" người nghe, để làm
hài lòng họ, mong họ nhìn nhận mình là Sa-môn nhiều đức hạnh, hay để
khiến họ thán phục mình là một bậc tài giỏi. Ông chỉ cố gắng làm
cho thiện nam tín nữ hiểu rõ lời Phật dạy. Mục đích duy nhất của
ông là soi sáng chân lý trong tâm tư của các hàng Phật tử, hầu sau khi
nghe, họ sẽ tinh tấn thực hành, mà không bỏ qua. Nghĩa là Ðại Ca Diếp
luôn luôn thuyết pháp trong nguyện vọng giúp ích người đời, và bằng một
lòng từ bi vô lượng, (Theo Samyutta Nikàya 16: 3, 4 - Tạp A Hàm 16: 3, 4).
Tuy nhiên thành công độc đáo nhất
của Ðại Ca Diếp (Ðã được chính đức Phật nhiều lần khen ngợi và
xác nhận "tương đương với Ngài") vẫn là khả năng điều khiển
thiền lực của ông một cách tức khắc và như ý muốn! Trong tạng Kinh cũng
ghi: Ðại Ca Diếp có thể, bất cứ lúc nào, nhiếp tâm giác tịnh, vượt
qua bốn chân tố vi tế nhất, tạo ra "vật chất" là tứ đại (gồm
đất, nước, lửa, gió) một cách dễ dàng! Vì vậy, đối với ông, sự hội
nhập tâm linh vào các bậc thiền Vô sắc, chấm dứt những vọng động tại
các căn, không cho lục trần ảnh hưởng vào Lục thức, để đạt đến Lục
thông (Chalabhìĩĩà) là một pháp mà ông vô cùng viên thục! Thiền pháp nầy,
về phương diện đời sống, có thể giúp cho hành giả đạt đủ sáu loại
thần thông siêu đẳng. Còn về phương diện giải thoát tâm linh, nó là
Thánh pháp duy nhất đưa họ đến tận "ngưỡng cửa" Hữu dư Niết
bàn (Nirvàna) ngay trong cuộc đời làm Sa-môn hiện tại. (Theo Samyutta Nikàya
16:9 - Tạp A Hàm 16: 9). Ðây quả là một công phu tột đỉnh của Ðại Ca
Diếp, xứng đáng được xem ngang hàng với thiền lực của một vị Phật
Tổ! Và vì công phu nầy vốn có đặc tính tương đương với công phu của
một vị Phật nên nội tâm của Mahà Kassapa (Ðại Ca Diếp) lúc nào cũng
thanh tịnh, mọi tham muốn thông thường, cho dù là những tham muốn thuộc
phạm vi dinh dưỡng hay duy sinh, cũng không thể nào tái phát, để lung lạc
tâm trí của Ðại Ca Diếp. Kết quả, ông đã tùy tiện khép mình vào tất
cả khuôn pháp khổ hạnh một cách dễ dàng mà không gây một phản ứng vật
lý vào cho chính bản thân ông, hay tạo ra một phán xét nào trong cộng đồng
những đệ tử của ông, trước mười ba pháp tu đầu đà quá khắc khe do
ông quyết tâm thực hiện!
Theo một số câu thơ (Gàthàs) của
chính Ðại Ca Diếp, được lưu lại trong những Tôn Túc Kệ Ngôn
(Theragàthà), thì ông đã nhiều lần ca ngợi sự tịnh lạc trong các bậc
thiền (Jhànas). Ðại Ca Diếp chính là người đã đi từ sự "dồi dào"
nầy, đến sự "dồi dào" khác: Khi ở đời thì ông đã sống
trong cảnh dồi dào tiền của và danh vọng. Lúc làm Sa-môn thì ông lại dồi
dào an lạc trong các bậc thiền. Còn xa hơn nữa, xuyên qua những kiếp quá
khứ trên nhiều cõi trời, nhất là cõi Phạm Thiên, ông dù đã tái sinh
trong tiên cảnh, vẫn không say đắm với những lạc thú hiếm có ấy. Ngược
lại, ông đã là một vị trời "tịnh hạnh" hơn những vị trời
khác! Ðiều nầy không nên làm cho chúng ta quan niệm rằng Ðại Ca Diếp vốn
có một căn tính nghiêm khắc đối với tất cả mọi loài. Trong một biến
cố vào kiếp chót, khi Ðại Ca Diếp đã khiển trách một cách gay gắt những
Tỳ-khưu dễ duôi, không có nghĩa là ông muốn tỏ ra mình là một nhà mô
phạm, mà ông chỉ khiển trách với tinh thần muốn giúp ích cho những người,
nếu thả trôi, sẽ không bao giờ đạt được Thánh quả! Chính A Nan Ðà,
một đại cao đồ của đức Phật, về sau tự mình chứng đạo giải thoát,
một phần cũng nhờ noi gương và nghe lời khuyên nhủ của Ðại Ca Diếp vậy!.
Lời nói đầu
| Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4