- Danh Lam Nước Việt
Võ Văn Tường và Huỳnh Như Phương
PHẦN II: CÁC CHU MIỀN TRUNG
- THỪA THIÊN - HUẾ
- Chùa
THIÊN MUϠ(LINH MỤ TỰ) [^]
Câu ca dao từ
bao đời đã để lại trong lòng người dân Huế và du khách đến Huế hình
ảnh một cảnh chùa thơ mộng.
Chùa tọa lạc trên đồi Hà Khê,
thuộc xã Hương Long, thành phố Huế.
Trong Ô Châu cận lục viết đời Mạc,
đã thấy ghi chép chùa Linh Mụ được Chúa Nguyễn Hoàng cho tái thiết vào
đầu thế kỷ XVII. Theo truyền thuyết, năm Tân Sửu (1601), Đoan Quốc Công
Nguyễn Hoàng nhân đi du ngoạn núi non sông biển, khi đặt chân đến đây,
thấy phong cảnh tuyệt đẹp, địa thế thật tốt. Vua nghe kể có người
trông thấy một bà già đầu tóc bạc phơ, mặc áo đỏ quần xanh ngồi
chơi ở đỉnh gò mà nói : "Rồi đây sẽ có chân Chúa đến dựng lại
chùa ở nơi này để tụ linh khí mà làm bền cho long mạch". Nói xong,
người đàn bà biến mất. Từ đó, dân chúng gọi tên núi là Thiên Mụ sơn,
và Chúa Nguyễn Hoàng cho dựng lại chùa, viết biển đề "Thiên Mụ Tự"
(đến đời vua Tự Đức, chùa được đổi tên là Linh Mụ Tự).
Ban đầu chùa còn đơn sơ, chưa có
những công trình kiến trúc và mỹ thuật nổi tiếng. Năm 1665, Chúa Nguyễn
Phúc Tần cho trùng tu chùa, qui mô kiến trúc còn nhỏ.
Năm 1695, Thiền sư Thạch Liêm tức
Thích Đại Sán, người Chiết Tây, Trung Quốc, thuộc phái Tào Động, được
Chúa Nguyễn mời sang Việt Nam lập đại giới đàn. Ngài là một danh nhân
đời nhà Thanh, đã được Chúa Nguyễn Phúc Chu mời làm trụ trì chùa
Thiên Mụ. Tháng 7 năm 1696, trước khi trở về Trung Quốc, Ngài đã truyền
giới Bồ-tát cho Chúa Nguyễn Phúc Chu, ban đạo hiệu là Thiên Túng Đạo
nhân, nối pháp đời thứ 30 Tào Động chánh tông. Từ chùa Thiên Mụ và
chùa Khánh Vân (Huế), Ngài có công truyền bá Thiền phái Tào Động ở đàng
Trong.
Năm 1710, Chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc
quả đại hồng chung nặng 3285 cân, là một tác phẩm mỹ thuật quí giá.
Tiếng chuông chùa từ đấy đã an nhiên trong lòng người dân xứ Huế, đã
đi vào thơ ca.
Thiên Mụ chung thanh
- Cao cương cổ sát trấn tiền xuyên
- Nguyệt tướng thường viên tự tại thiên.
- Bách bát hồng thanh tiêu bách kết
- Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên.
- Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm
- Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền
- Phật tích Thánh công thùy hải vũ
- Thiện nhân tăng quả phổ cai diên.
- (Thiệu Trị ngự đề)
Nghĩa là :
Tiếng chuông chùa Thiên Mụ
- Gò cao chùa cổ bên sông,
- An nhiên nguyệt tướng mặt vòng tròn gương.
- Niệm tan phiền não sầu thương,
- Ba ngàn thế giới tỉnh đường ba sinh.
- Chuông rền cảm giới u minh,
- Ban mai tiếng tụng hiển linh đạo huyền.
- Thánh công Phật tích lưu truyền,
- Nhân lành quả tốt khắp miền nước non.
- (Nguyễn Quảng Tuân dịch)
Năm 1714, Chúa Nguyễn Phúc Chu
lại tiếp tục cho xây dựng thêm nhiều công trình huy hoàng, tráng lệ. Đó
là lần trùng tu qui mô nhất gồm : cổng tam quan, điện Thiên vương, điện
Ngọc Hoàng, điện Thập Vương, nhà thuyết pháp, lầu Tàng kinh, lầu
chuông, lầu trống, nhà Vân Thủy, nhà thiền, điện Đại Bi, điện Dược
sư, tăng phòng … Chúa lại cho mở an cư kiết hạ trong vườn Tỳ Da suốt
3 tháng, và cho người sang Trung Quốc thỉnh Tam Tạng kinh Luật, Luận Đại
thừa hơn một ngàn bộ đem về lưu giữ tại chùa.
Vào đầu thế kỷ XIX, các vua nhà
Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng đã cho trùng tu, sửa sang chùa. Giữa là điện
Đại Hùng, phía sau là điện Di-lặc, điện Quan Âm và Tàng Kinh. Hai bên
là điện Đại Hùng và điện Thập Vương.
Đến năm 1844, vua Thiệu Trị cho dựng
tháp Từ Nhân (về sau đổi tên là tháp Phước Duyên), bảy tầng, cao 21m,
bằng gạch, mỗi tầng thờ một pho tượng Phật. Đã 150 năm qua, tháp Phước
Duyên ngày ngày soi bóng xuống dòng sông Hương , gây nhiều cảm xúc khó tả
cho biết bao du khách đến với cố đô. Trước tháp, vua cho dựng đình Hương
Nguyện ba gian, sườn bằng gỗ chạm khắc tinh xảo. Hai bên, dựng hai nhà
bia ghi kiến trúc tháp Phước Duyên, đình Hương Nguyên và nhiều bài thơ của
vua Thiệu Trị.
Qua đầu thế kỷ XX, chùa bị hư hỏng
nặng do cơn bão năm Giáp Thìn (1904). Vua Thành Thái đã cho trùng tu chùa
vào năm 1907 và cho đến ngày nay, qua công lao của Hòa thượng Thích Đôn Hậu
cùng nhiều Tăng, Ni, Phật tử, du khách xa gần, ngồi chùa cổ Thiên Mụ
được xây dựng lại, tuy không còn qui mô to lớn như trước, nhưng vẫn
trang nghiêm, hùng tráng.
Du khách đến thăm chùa, sau khi bước
lên 15 bậc tam cấp ở cổng tam quan sẽ gặp nền đá của đình Hương
Nguyện xưa kia và tháp Phước Duyên. Hai bên đình Hương Nguyện cũ có hai
nhà bia, và hai bên tháp Phước Duyên có một nhà bia và một nhà chuông thời
Chúa Nguyễn Phúc Chu. Sau lưng tháp là một tấm bia nhỏ.
Sau khi tham quan các công trình có
tính chất lưu niệm ở khu vực phía ngoài, du khách vào phía trong cửa Nghi
Môn cũng được bao quanh bằng khuôn tường xây đá. Ở đây có các điện
Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm, nhà trai, nhà khách, vườn
hoa. Sau cùng là tháp mộ Hòa thượng Thích Đôn Hậu nằm giữa vườn thông.
Điện Đại Hùng ở chùa Thiên Mụ
được bài trí đơn giản. Tượng đức Phật Di-lặc được tôn trí ở tiền
điện, hai bên có chuông và khánh đá. Ở căn giữa, trong án thờ được
chạm khắc công phu và sơn son thếp vàng lộng lẫy là tượng Tam Thân
(Pháp thân, Ứng thân, Hóa thân), phía trước là tượng đức Phật Thích-ca.
Ngoài cùng là bàn chuông, mõ. Gian hai bên thờ Bồ-tát Văn-thù, Bồ-tát Phổ
Hiền.
Du khách đến chùa không quên đến
bên trái tháp Phước Duyên, xem bài minh ở tấm bia được dựng vào năm
1715, thời Chúa Nguyễn Phúc Chu, ca ngợi ngôi danh lam cổ tự bậc nhất
này.
- … Phía Nam nước Việt chừ, núi sông đẹp đẽ,
- Ngôi chùa hùng tráng chừ, cửa Thiền nắng chiếu,
- Tánh vốn trong sạch chừ, nước chảy róc rách,
- Đất nước an ổn chừ, bốn cảnh thanh nhàn.
Chùa BÁO QUỐC (SẮC TỨ BÁO QUỐC TỰ) [^]
Dừng chân ở
giếng Hàm Long để tận hưởng những giây phút mát mẻ nhờ những gàu nước
trong trẻo được kéo lên ở độ sâu hơn 4m, du khách sẽ thanh thản khi bước
lên những bậc cấp vào chùa Báo Quốc trên đồi Hàm Long.
Tọa lạc ở đường Báo Quốc, thuộc
phường Phường Đúc, thành phố Huế, chùa Báo Quốc ban đầu có tên là
Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong dựng vào cuối thế kỷ
XVII, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần. Đến năm 1747, Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban
cho chùa tấm biển "Sắc Tứ Báo Quốc Tự" có ghi dòng chữ :
"Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề".
Vào thời Nguyễn, chùa đã được
trùng tu nhiều lần. Năm 1808, Hoàng Hậu Hiếu Khương cho tái thiết ngôi
chùa, xây tam quan, đúc đại hồng chung, bảo khánh … và đổi tên là
chùa Thiên Thọ. Thiền sư Phổ Tịnh được cử làm trụ trì trong thời
gian này.
Năm 1824, vua Minh Mạng ngự thăm chùa
và sắc lấy tên "Báo Quốc Tự". Nhà vua đã tổ chức đại giới
đàn tại chùa nhân lễ Vạn thọ tứ tuần đại khánh vào năm 1830.
Đến năm 1858, do chùa bị hư hỏng
nhiều, vua Tự Đức và Hoàng Thái hậu Từ Dũ đã ban tiền trùng tu ngôi
chánh điện và các công trình khác. Chùa đã được liên tục trùng tu, mở
rộng đến cuối thế kỷ XIX.
Trong phong trào chấn hưng Phật giáo
vào những năm 1930, chùa đã có nhiều đóng góp về mặt đào tạo tăng tài
cho Phật giáo. Năm 1935, trường Sơ đẳng Phật giáo được mở tại chùa.
Đến năm 1940, trường Cao đẳng Phật giáo cũng lại được mở tại đây.
Chùa trở thành một trung tâm đào tạo Tăng Ni cho đến ngày nay.
Năm 1957, Giáo hội Tăng già Thừa
Thiên và Ban Quản trị chùa đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Hòa thượng
Thích Trí Thủ, vừa là Giám đốc Phật học đường, vừa là trụ trì
chùa, đã có những đóng góp to lớn cho Phật giáo nói chung và cho việc
tái thiết ngôi tổ đình trang nghiêm với những nét kiến trúc cổ kính
nói riêng.
Chùa được xây dựng kiểu chữ
"Khẩu" trong khuôn viên rộng khoảng 2 ha. Qua cổng tam quan cổ
kính, đồ sộ, du khách đi qua một sân rộng, đến sân trong trồng nhiều
cây tùng và các cây cảnh khác, có lan can bao bọc. Phía trái là khu tháp Tổ,
cổ nhất là tháp Ngài Giác Phong, xây năm 1714, cao 3,30m. Ở tiền điện có
4 trụ đắp rồng nổi, ở thành bậc tam cấp cũng có đôi rồng, hai vách
trang trí hoa văn bằng mảnh sành rất công phu.
Điện Phật được bài trí tôn
nghiêm. Các tượng thờ đều đặt trong khung kính. Án thờ cao nhất ở
gian giữa là tượng Phật Tam Thân và hai bộ kinh tạng Đại Thừa. Trước
tượng Tam Thân là bảo tháp thờ xá-lợi Phật. Án thờ kế là tượng đức
Phật Thích-ca, hai bên là tượng A-nan và Ca-diếp. Án ngoài cùng đặt một
bộ kinh Pháp Hoa, hai bên là chuông, mõ. Án hai bên thờ đức Phật Dược
Sư và Bồ-tát Quan Âm. Đây là cách thờ tự đã được sửa đổi từ khi
Hòa thượng Phước Hậu được phong Tăng cang và trụ trì chùa Báo Quốc
vào năm 1939. Còn trước phong trào Chấn hưng Phật giáo, chùa Báo Quốc cũng
như đa số các chùa cổ ở Huế đều chịu ảnh hưởng thuyết "Tam giáo
đồng nguyên".
Từ năm 1959, trong khuôn viên của
chùa, trường tiểu học Hàm Long được thành lập do thầy Thiên Ân làm Hiệu
trưởng. Đến năm học 1961 -1962, trường mở thêm bậc trung học do thầy
Thân Trọng Hy làm Hiệu trưởng. Kế tiếp Hiệu trưởng là các thầy Trương
Như Thung, Thích Phước Hải, Thích Thiện Hạnh, Thích Đức Thanh, Thích Hải
Ấn. Ban đầu trường có tên là Trường trung tiểu học tư thục Hàm Long,
sau đổi tên là Trường Bồ Đề Hàm Long, hoạt động đến năm 1975.
Ngày nay, tên trường Hàm Long chỉ
là một kỷ niệm ngọt ngào như nước giếng Hàm Long, nhưng đóng góp của
chùa Báo Quốc về mặt giáo dục thật đáng ghi nhận.
Chùa QUỐC ÂN (SẮC TỨ QUỐC ÂN TỰ) [^]
- -- Bối điệp phiêu vân, lục thời thiền tụng kỳ
phong nẫm ;
- -- Ca sa thấp vũ, nhất vị thanh cơ kiến đạo
xương
- (Mây phất phơ trên kinh lá bối, sáu thời thiền
tụng, cầu hoa lợi phong đăng.
- Mưa thấm khắp nếp áo cà-sa, nhất vị thanh
tu, gây cơ duyên phát đạt)
- -- Bát bảo xán kim lương, biểu nhật lâm quan, tiện
hữu nhân hữu cảnh ;
- -- Ngũ vân sinh ngọc đống, xuân quan triển tọa,
hỷ bất túc bất ly.
- (Đồ bát bảo rực rỡ rường vàng, vừng nhật
chiếu đến thiền quang, mến được có người có cảnh.
- Mây ngũ sắc chói ngời cột ngọc, ánh xuân dồn
về bảo tọa, vui thay không mất, không xa)
Đó là nội dung ca ngợi
ngôi chùa Quốc Ân và vị Thiền sư khai sáng được khắc trên hai cặp liễn
đối treo ở ngôi chánh điện do Chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu ban.
Chùa Quốc Ân tọa lạc ở lưng chừng
một quả đồi thấp thuộc phường Trường An, thành phố Huế. Du khách
qua cầu Phú Cam ở đường Nguyễn Trường Tộ, đi khoảng 2km thì đến chùa.
Chùa Quốc Ân do Thiền sư Nguyên
Thiều khai sáng khoảng năm 1682 - 1685, đời vua Lê Huy Tông, lúc đầu mang tên
chùa Vĩnh Ân.
Thiền sư Nguyên Thiều hay Thọ
Tôn, húy là Siêu Bạch, hiệu là Hoán Bích (1648 - 1728), thọ giới với Hòa
Thượng Khoáng Viên ở Quảng Đông. Năm 1677 Ngài theo thuyền buôn sang Việt
Nam, lập chùa Thập Tháp Di-đà ở Bình Định. Sau khi khai sơn chùa này, Thiền
sư Nguyên Thiều đi khắp nơi truyền đạo, ra Huế dựng chùa Hà Trung ở
Vinh Hà (Phú Vang) rồi lên khu vực núi Ngự Bình dựng chùa Vĩnh Ân. Đến
năm 1689, Chúa Nguyễn Phúc Trân đã đổi tên chùa Vĩnh Ân là Quốc Ân, ban
cho chùa tấm biển "Sắc Tứ Quốc Ân Tự" và chuẩn phê miễn thuế
ruộng đất cho chùa.
Chùa Quốc Ân là ngôi Tổ đình nổi
tiếng của miền Trung. Thiền sư Nguyên Thiều là vị Tổ đời 33 Thiền phái
Lâm Tế. Ngài đem vào Việt Nam hai dòng kệ :
- Tổ đạo giới định tông
- Phương quảng chứng viên thông
- Hạnh siêu minh thiệt tế
- Liễu đạt ngộ chơn không
- Như nhật quang thường chiếu
- Phổ châu lợi ích đồng
- Tín hương sanh phước huệ
- Tương kế chấn từ phong
Và :
- Đạo bổn nguyên thành Phật Tổ Tiên
- Minh như hồng nhật lệ trung thiên
- Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ
- Kế thế chân đăng vạn cổ huyền
Theo qui định, cứ mỗi đời lấy
một chữ đặt pháp danh cho đệ tử. Ngày nay đa số Phật tử ở miền
Trung và miền Nam đều bắt nguồn từ hai dòng kệ này.
Thiền sư Nguyên Thiều viên tịch
trong khi trụ trì tại chùa Hà Trung. Ngài để lại cho đệ tử bài kệ sau
đây :
- Tịch tịch cảnh vô ảnh,
- Minh minh châu bất dung.
- Đường đường vật phi vật,
- Liê liêu không vật không.
Nghĩa là :
- Lặng lẽ gương không chiếu bóng
- Sáng trưng ngọc chẳng thâu hình
- Rõ ràng Vật không phải Vật
- Mênh mông Không chẳng là Không.
- (Trích Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận,
tập 2, tr.189)
Sau khi Thiền sư Nguyên Thiều mất,
Chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu đã truy tặng Ngài thụy hiệu Hạnh Đoan
Thiền sư.
Vào thời Nguyễn, chùa Quốc Ân
được trùng tu nhiều lần. Năm 1805, bà Long Thành (chị ruột vua Gia Long)
đã cúng dường tiền bạc để trùng tu chùa. Nhưng lúc bấy giờ đây cũng
chỉ là một ngôi chùa tranh tre đơn giản. Năm 1822, Hòa thượng Hoằng
(Tăng cang chùa Linh Mụ) được vua Minh Mạng giao nhiệm vụ trùng tu chùa Quốc
Ân. Năm1825, Hòa thượng viên tịch, tháp mộ được xây dựng trong vườn
chùa. Năm 1837 và năm 1842, chùa lại được tiếp tục trùng tu. Từ năm
1846 đến năm 1863, vị Hòa thượng kế nghiệp cho xây cổng tam quan, hai miếu
thờ Ngũ hành và Thiên Y A Na.
Chùa kiến trúc theo dạng chữ
"Khẩu". Phía trước là tiền đường và chánh điện, phía sau là
nhà Tổ, hai bên là phương trượng và tăng xá.
Chùa Quốc Ân còn bảo lưu mô hình
thờ tự truyền thống. Án giữa thờ tượng Tam Thân, tiếp theo là tượng
Bổn sư, Thích-ca đản sinh, Quan Âm Chuẩn Đề. Án tả thờ Quan Công, Châu
Xương và Quan Bình. Án hữu thờ Bồ-đề Đạt-ma. Hai bên tả hữu thờ
Thiện Hữu, Ác Hữu và Thập điện Minh Vương.
Trong chùa có nhiều hoành phi và
câu đối với nét bút điêu luyện, chạm trổ tinh xảo.
Ở sân trước chùa có dựng tấm
bia khắc bài minh của Chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu vào năm 1729, ca ngợi
đạo đức của Thiền sư Nguyên Thiều :
- Ưu ưu bát nhã
- Đường đường phạm thất
- Thủy nguyệt ưu du
- Giới trì chiến lật
- Trạm tịch cô kiên
- Trác lập khả tất
- Thị thân bản không
- Hoằng giáo lợi vật
- Biến phú từ vân
- Phổ chiếu huệ nhật
- Chiêm chi, nghiêm chi
- Tháo sơn ngật ngật.
Tạm dịch :
- Bát nhã cao vời
- Cửa Thiền tỏ rõ
- Ung dung trăng nước
- Ngiêm trì giới luật
- Sáng lặng riêng vững
- Đứng thẳng đã chắc
- Quán thân vốn không
- Hoằng pháp lợi vật
- Mây lành che khắp
- Trí tuệ sáng soi
- Nhìn ngài kính Ngài
- Núi Thái cao ngất
- (Theo Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Thông, Lê Văn Sách.
Danh lam xứ Huế, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 1993, tr.163)
Chùa TỪ ĐÀM [^]
- Quê hương tôi miền Trung
- Sớm hôm chuông chùa nhẹ rung …
- Ôi, uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm
- Nơi yêu thương phát nguồn Đạo Vàng …
Tiếng nhạc nhẹ nhàng của bài
hát Từ Đàm quê hương tôi của Nguyên Thông nhắc nhở biết bao du khách
đã từng đến thăm Huế không bao giờ quên những phút thư thái, tĩnh lặng
của tâm hồn ở ngôi chùa cổ danh tiếng này.
Chùa Từ Đàm tọa lạc ở đường
Từ Đàm, thuộc phường Trường An, thành phố Huế.
Chùa do Thiền sư Minh Hoằng - Tử
Dung (đời thứ 34 dòng Lâm Tế) khai sơn vào cuối thế kỷ XVII, đời vua Lê
Hy Tông, trên đồi Long Sơn.
Nguyên chùa có tên là chùa Ấn
Tôn. Vào đầu thế kỷ XVIII, năm 1703, Chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban cho chùa
tấm biển "Sắc Tứ Ấn Tôn Tự". Đến năm Thiệu Trị nguyên
niên (1841), chùa được đổi tên là Từ Đàm để tránh tên húy của vua.
Hơn 150 năm qua, chùa Từ Đàm đã gắn
bó thiết thân với đời sống tinh thần người dân xứ Huế nói riêng, với
Phật tử miền Trung nói chung.
- Nơi yêu thương phát nguồn Đạo Vàng,
- Qua bao giông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn còn …
Chùa đã được các vị trụ trì
tiền bối cho trùng tu sửa chữa nhiều lần, đó là Hòa thượng Thiệt
Vinh, Đại sư Tế Ngữ kế tục Ngài Minh Hoằng - Tử Dung. Đến thế kỷ
XIX, Hòa thượng Đạo Trung và Đại sư Từ Vân đã tổ chức trùng kiến
ngôi chùa, đúc đại hồng chung. Sang nửa thế kỷ XX. Sư bà Diệu Không đã
có thời gian trùng tu, lập chùa sư nữ năm 1932. Sau một thời gian, Hội Phật
học Trung Việt đặt trụ sở ở chùa, đã tổ chức xây ngôi chánh điện
mới theo kiểu "chùa hội".
Năm 1939, bà Karpelès, Tổng thư ký
Viện Phật học Phnom-Pênh (Campuchia) đã thỉnh một cây bồ-đề được
chiết cành từ cây bồ-đề nơi đức Phật Thích-ca thành đạo ở Ấn Độ
tặng cho chùa, đem trồng ở sân trước.
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, cây bồ-đề
đã tạo bóng uy nghiêm cho ngôi chùa và che mát cho hàng triệu người Phật
tử, khách tham quan.
- Ôi uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm,
- Nơi Bắc Nam nối liền một nhà …
Vào năm 1951, chùa là nơi họp 51 đại
biểu Phật giáo toàn quốc chuẩn bị thống nhất Giáo hội Phật giáo. Tại
đại hội này, Hòa thượng Thích Tịnh Khiết được suy tôn làm Hội chủ.
Và cũng trong đại hội này, lá cờ Phật giáo thế giới lần đầu tiên
đã được treo ở chùa.
Đến năm 1961, chùa được Hòa thượng
Thích Thiện Siêu cùng với Hội Phật học tổ chức xây dựng các cơ sở
phụ của chùa. Đây là ngôi chùa với những công trình kiến trúc hiện đại
nhưng vẫn giữ đường nét truyền thống, theo kiểu kiến trúc "chùa hội"
mẫu mực.
- Quê hương tôi là đây,
- Sớm hôm hương trầm nhẹ bay,
- Vấn vương lời kinh chiều nay vơi đầy …
- Ôi, thân yêu bóng chùa Từ Đàm, Từ Đàm ơi !
Lời ca vang trong tận đáy lòng của
những ai còn lưu giữ những kỷ niệm về mái chùa thân yêu này.
Chùa THUYỀN
TÔN (THIÊN THAI THUYỀN TÔN TỰ) [^]
Đàm hoa lạc khứ
hữu dư hương
Hương thơm của hoa ưu đàm mãi
mãi thơm ngát như đạo đức của Thiền sư Liễu Quán tỏa sáng muôn đời.
Ngài Liễu Quán húy Thiệt Diệu,
quê ở Sông Cầu (Phú Yên) ra Thuận Hóa vào cuối thế kỷ XVII. Thiền sư
khai sơn chùa Thuyền Tôn vào khoảng năm 1708, lúc bấy giờ chỉ là một am
tranh, nơi xây ngôi bảo tháp của ngài hiện nay, và ở cổng tháp đã khắc
ghi câu trên. Thiền sư đã biệt xuất một bài kệ truyền cho các đời kế
tiếp đặt pháp danh:
- Thiệt tế đại đạo, tánh hải thanh trừng
- Tâm nguyên quảng nhuận, đức bổn từ phong
- Giới định phước huệ, thể dụng viên thông
- Vĩnh siêu trí quả, mật khế thành công
- Truyền trì diệu lý, diễn xướng chánh tông
- Hạnh giải tương ưng, đạt ngộ chơn không.
Nghĩa là :
- Đường lớn thực tại, biến thế tính trong,
- Nguồn tâm thấm khắp, gốc đức vun trồng,
- Giới định cùng tuệ, thể dụng viên thông,
- Quả trí siêu việt, biểu thấu nên công,
- Truyền giữ lý mầu, tuyên dương chính tông,
- Hành giải song song, đạt ngộ chân không.
- (Nguyễn Lang dịch)
Chùa Thuyền Tôn hiện nay tọa lạc
ở thôn Ngũ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế. Chùa được dựng bên trái
núi Thiên Thai, nên còn có tên là Thiên Thai Thuyền Tôn Tự.
Vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, Chưởng
Thái giám Mai Văn Hoan đã vận động tiền của để xây dựng ngôi chùa
quy mô, cách thảo am khoảng 1km. Đại hồng chung được đúc vào thời kỳ
này, có khắc niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8 (1747). Chùa đã được bà Lê Thị
Tạ phát tâm trùng tu vào năm 1808.
Các vị kế tục trụ trì chùa
trong buổi đầu là Tế Hiệp, Tế Mẫn. Sau đó là các vị Đại Huệ, Đại
Nghĩa, Đạo Tâm. Theo dòng kệ truyền thừa, kế tiếp là các vị Đạo Tại,
Tánh Thiện, Hải Nhuận, Thanh Liêm, Thanh Đức.
Đến năm 1937, Hòa thượng Trừng
Thủy - Giác Nhiên đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Hòa thượng đã
có nhiều công lao trong công cuộc chấn hưng Phật giáo ở nửa đầu thế
kỷ XX. Từ năm 1973, Hòa thượng đã đảm nhận trọng trách Tăng Thống Giáo
Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất đến năm 1979 thì viên tịch, thọ 102
tuổi.
Chùa Thuyền Tôn bảo lưu được
đường nét kiến trúc cổ và hệ thống thờ tự truyền thống. Ở chánh
điện, án giữa thờ Phật Tam Thân, phía trước là tượng đức Phật Thích-ca.
Tiền án thờ tượng Bồ-tát Chuẩn Đề hai bên là ảnh vẽ Bồ-tát Văn-thù
và Bồ-tát Phổ Hiền. Tiếp đến là bàn chuông, mõ. Án tả thờ Bồ-tát
Quan Âm, hai bên có ngài Xá Lợi Phất và ngài Ca-diếp. Án hữu thờ Bồ-tát
Địa Tạng. Ngoài ra còn có hai án thờ Thập điện Minh Vương ở hai bên
vách. Phía ngoài là hai bàn thờ Hộ Pháp và Quan Thánh.
Từ tam quan đi vào mé phải ngôi
chùa, căn phòng của Hòa thượng Giác Nhiên ngày xưa vẫn còn đó. Bức
chân dung của Ngài đã gây sự cảm nhận thanh thoát, gần gũi và niềm tin
kính vô hạn. Từ cửa phòng của Ngài, nhìn ra ngôi bảo tháp, cảnh quan
ngôi chùa và ngọn núi Thiên Thai, lòng khách lâng lâng khó tả.
Đến viếng chùa năm xưa, nhà thơ
Nguyễn Du cũng mang nỗi lòng đó :
- … Cổ tự thu mai hoàng diệp lý
- Tiền triều tăng lão bạch vân trung
- Khả liên bạch phát cung khu dịch
- Bất dữ thanh sơn tương thủy chung.
Nghĩa là :
- Chùa cổ lá vàng thu phủ kín
- Triều xưa mây trắng sãi già rồi
- Thương cho đầu bạc còn vướng lụy
- Cùng với non xanh trót phụ lời.
- (Phan Khắc Hoan và Lê Thước dịch)
Thật vậy, ngày nay du khách và Phật
tử đến chùa, sẽ được tận hưởng một cảnh quan đầy thiền vị :
- -- Bảo đạc trường minh, bất đoạn môn tiền lưu
lục thủy,
- -- Pháp thân độc lộ, y nhiên tọa lý khán thanh
sơn.
Nghĩa là :
- -- Mõ báu dài kêu, chẳng dứt trước cửa dòng
biếc chảy
- -- Pháp thân lộ rõ, tự nhiên ngồi đó ngắm
núi xanh.
- (Trương Ngọc Tường dịch)
- QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
Từ trung
tâm thành phố Đà Nẵng, vượt qua cầu sông Hàn đi khoảng 8km trên một
quãng đồng bằng phẳng thuộc xã Hòa Hải, jhuyện Hòa Vang, du khách sẽ
thấy Ngũ Hành Sơn hiện ra ở ven biển Đông. Thắng cảnh bậc nhất của
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng này gồm nhiều ngọn núi mọc lên giữa thiên
nhiên kỳ tú : Thủy Sơn ở phía Đông Bắc ; Mộc Sơn ở phía Nam ; Kim Sơn,
Thổ Sơn ở phía Tây và Dương Hỏa Sơn ở phía Tây Nam. Nơi đây gió lộng
quanh năm, bốn bề sông biển bát ngát. Dân gian thường gọi chung Ngũ Hành
Sơn là hòn Non Nước.
- Quê em có dải sông Hàn
- Có hòn Non Nước, có hang Sơn Trà
Còn người châu Âu thì đặt tên
cho Ngũ Hành Sơn là núi "Cẩm Thạch" (Montagnes de Marbre) vì ở dây
có loại đá cẩm thạch rất quý được dùng trong xây dựng cũng như sản
xuất các đồ mỹ nghệ tinh xảo.
Nằm trong khu thắng cảnh Ngũ Hành
Sơn này có hai ngôi chùa cổ danh tiếng là Tam Thai và Linh Ứng. Cả hai
ngôi chùa này đều được xây ở lưng chừng núi Thủy Sơn trong vị trí
hài hòa với cảnh quan thiên nhiên chung quanh. Chùa Tam Thai ở sườn núi
phía Nam, phải đi lên 156 bậc đá mới đến nơi. Còn chùa Linh Ứng nằm
trên sườn núi phía Đông, đường đi lên phải qua 108 bậc đá. Gần chùa
Tam Thai có Vọng Giang đài (Đài ngắm sông), từ đó nhìn thấy sông Hàn nước
xanh uốn khúc giữa làng xóm, ruộng đồng ; xa xa là đèo Hải Vân và dãy
Trường Sơn trùng điệp ở phía Tây. Cạnh chùa Linh Ứng lại có Vọng Hải
đài (Đài ngắm biển) nhìn về phía biển Đông bao la có cù lao Chàm mờ mờ
ẩn hiện.
Chùa Linh Ứng được xây dựng vào
khoảng thế kỷ XVI, tương truyền là do một vị Tiên hiền khai sáng làng
Khải Đông đến ẩn tu tại động Tàng Chơn lập ra. Lúc đầu nơi đây gọi
là Dưỡng Chơn am, sau đổi thành Dưỡng Chơn đường. Đến đời Minh Mạng
trở thành ngôi chùa có tên Ứng Chơn Tự do Hòa thượng Quang Chánh, hiệu
là Bảo Đài trụ trì. Tên Linh Ứng Tự ngày nay chính thức được đổi từ
đời vua Thành Thái. Hiện trong chùa Linh Ứng có bộ tượng Thập bát
La-hán rất quý được tạc công phu bằng đá Ngũ Hành Sơn theo mẫu của
chùa Phước Lâm ở thị xã Hội An. Tượng cao 0,34m, ngang gối 0,23m, đế
0,04m.
Từ động Tàng Chơn phía sau chùa
Linh Ứng có đường dẫn đến động Tam Thanh, động Chiêm Thành và hang
Gió. Gần đó là động Ngũ Cốc : thạch nhũ nơi đây tượng hình những
trái phật thủ, củ khoai, bắp cải, hạt mè, hạt đậu. Dân gian còn gọi
đây là hang Lồng Đèn vì có nhiều thạch nhũ hình lồng đèn. Trước cửa
tam quan chùa Linh Ứng có giếng Tiên, trên đường xuống núi du khách đi
qua hang Âm Phủ thông ra biển Đông.
Trải qua gần 4 thế kỷ tồn tại,
chùa Linh Ứng bị hư hại và đã được trùng tu nhiều lần. Gần đây nhất,
vào năm 1993, Thượng tọa Thích Thiện Nguyên đã tổ chức trùng tu và xây
dựng thêm một số công trình phía trước như tượng đức Phật Thích-ca
cao 10m (phần tượng cao 7,50m), mười bức tranh minh họa cuộc đời đức
Phật Thích-ca và Quan Âm Phật đài cao 5m.
Điều đáng tiếc là hiện nay, do
việc khai thác vật liệu xây dựng một cách vô ý thức, cảnh quan Ngũ Hành
Sơn đang bị tàn phá một cách nghiêm trọng. Bảo vệ quần thể di tích
này là một việc làm cần thiết để cho mai hậu cảnh đẹp này không chỉ
là danh thắng được ghi lại trong những áng văn thơ mà thôi.
Chùa CHÚC THÁNH [^]
Từ lâu Hội
An đã được biết đến như một trong những đô thị cổ hiếm hoi trên
thế giới còn giữ được nguyên vẹn những đường nét kiến trúc của
nó. Theo bản đồ thời Hồng Đức (thế kỷ XV) thị xã này vốn tên là
Đại Chiêm hải - một cảng biển của Vương quốc Chămpa. Về sau nó đã
được ghi nhận trên tấm bản đồ Đại Việt của Giáo sĩ Alexandre de
Rhodes (Đác Lộ) được công bố năm 1653, như một thị trấn ven biển của
người Việt có tên gọi là Hải Phố. Do cách phát âm của người phương
Tây, Hải Phố đã biến thành Faifo.
Đô thị cổ Hội An nằm trên tả
ngạn sông Thu Bồn cách thành phố Đà Nẵng 25km về phía Đông Nam, cách biển
Đông chỉ 5km. Từ Đà Nẵng, ngoài đường số 1A, du khách có thể đến Hội
An bằng con đường nhỏ chạy ven theo bờ biển qua khu thắng cảnh Ngũ Hành
Sơn và xã Điện Ngọc.
Chúc Thánh Tự là một trong hai mươi
ngôi chùa và hội quán cổ của thị xã Hội An. Nằm trên địa phận phường
Cẩm Phô, chùa này đã được công nhận là một di tích lịch sử văn hóa
quốc gia từ ngày 19-11-1991.
Theo sách Việt Nam Phật giáo sử luận
của Nguyễn Lang, chùa Chúc Thánh đã được Thiền sư Minh Hải - Pháp Bảo
khai sơn vào thế kỷ XVII. Vị Thiền sư này người tỉnh Phước Kiến,
sang nước ta vào thời Chúa Nguyễn Phúc Trân (1687 - 1691). Ông đã tự giới
đàn tại chùa Linh Mụ, sau đó vào Hội An dựng chùa Chúc Thánh. Dần dần
ngôi chùa này trở nên một ngôi tổ đình lớn ở miền Trung và miền Nam.
Thiền sư Minh Hải có hai vị đệ
tử nổi tiếng là Chánh Hiền và An Triêm. Ông có để lại một bài kệ
truyền pháp như sau :
- Minh thiệt pháp toàn chương
- Ấn chân như thị đồng
- Chúc Thánh thọ thiên cửu
- Kỳ Quốc tộ địa trường
- Đắc chính luật vi tuyên
- Tổ đạo hạnh giải thông
- Giác hoa bồ đề thô
- Sung mãn nhân thiên trung.
Nghĩa là :
- Hiểu thấu pháp chân thực
- Ấn chân như hiện tiền
- Cầu Thánh quân tuổi thô
- Chúc đất nước vững bền
- Giới luật nêu trước tiên
- Giải và Hạnh nối liền
- Hoa nở cây giác ngộ
- Hương thơm lừng nhân thiên
- (Nguyễn Lang dịch)
Chùa Chúc Thánh đã từng được
trùng tu vào những năm 1845, 1849, 1892, 1894 … Đằng sau cổng tam quan là một
kiến trúc giản dị, khiêm tốn, mái lợp ngói âm dương, trên đỉnh có đôi
rồng chầu mặt nguyệt . Một trong những bảo vật được lưu giữ bên
trong chùa là bộ tượng Thập bát La-hán bằng đất nung đặt trên tòa
sen, mỗi pho tượng cao 0,45m, bề ngang gối 0,28m, đế 0,16m.
Trong khuôn viên chùa có tháp Tổ
Minh Hải - Pháp Bảo. Chùa hiện nay do Hòa thượng Thích Trí Nhãn trụ trì.
- QUẢNG NGÃI
Thiên Ấn niêm hà (Ấn
trời đóng trên sông) là thắng cảnh thứ nhất trong mười cảnh đẹp của
tỉnh Quảng Ngãi. Nằm bên tả ngạn sông Trà Khúc, núi Thiên Ấn cùng với
giòng sông trở thành biểu tượng cho sự vĩnh hằng của vùng đất này,
như hai câu thơ của thi sĩ Bích Khê:
- Ngàn năm quả Ấn nằm trơ mốc,
- Một dải sông Trà chảy sậm xanh.
Từ chân cầu Trà Khúc hai mươi nhịp,
đi theo con đường về phía Cổ Lũy khoảng 2km, du khách sẽ gặp lối đi lên
chùa Thiên Ấn trên núi.
Núi Thiên Ấn xưa kia có tên là
núi Hó, nay thuộc địa phận xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh. Núi cao khoảng
105m, đỉnh núi bằng phẳng, rộng độ 10 ha. Từ phương Đông nhìn lên thấy
bốn phía núi đe5 có hình thang cân trông giống như cái ấn trên sông. ở
phía Nam, dưới chân núi có gò nhỏ gọi là hòn Triện. phía Đông giáp
núi Tam Thai, phía Bắc tiếp núi Lã Vọng. phía Tây có núi Long Đầu. Xưa
kia núi Thiên Ấn có nhiều đá son dùng mài mực son chấm quyển chữ nho.
Đường lên núi nay không còn là lối mòn mà được mở rộng, tuy chưa bằng
phẳng, nhưng xe hơi có thể lên tới chùa được.
Do vị trí địa lý của nó, năm
Minh Mạng thứ 11 (1830) hình núi Thiên Ấn được chạm vào Di Đỉnh (một
trong chín đỉnh đồng ở Huế được đúc dưới triều vua Minh Mạng). Đến
năm Tự Đức thứ ba (1850), Thiên Ấn được liệt vào hàng danh thắng.
Chùa Thiên Ấn được Thiền sư Pháp
Hóa khai sơn năm 1694. Ông tên là Lê Diệt, người Phúc Kiến, hiệu là Minh
Hải - Phật Bảo, sinh năm 1670, viên tịch năm 1754, trụ trì tại chùa này
suốt 60 năm. Bên cạnh chùa có giếng sâu 21m, nước mát ngọt, cũng là một
công trình của Thiền sư Pháp Hóa. Núi cao, đá cứng, thiếu dụng cụ, nhưng
Ngài vẫn kiên trì đào giếng suốt bốn năm ròng. Một hôm có vị tăng trẻ
từ đâu không rõ phát nguyện cùng đào giếng với Thiền sư. Cùng làm việc
suốt ba tháng ròng, họ mới chuyển được một tảng đá lớn chắn ngang,
từ đó, mạch nước mới tuôn ra. Nhưng lúc giếng có nước cũng là lúc
mà vị tăng trẻ ra đi biệt tích. Câu chuyện này còn được truyền tụng
qua câu ca dao :
- Ông thầy đào giếng trên non,
- Đến khi có nước không còn tăm hơi
Gắn liền với chùa Thiên Ấn còn
có sự tích quả đại hồng chung linh thiêng. Chuông này vốn được dân
làng Chí Tượng (nay là xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi)
đúc cho chùa làng nhưng đánh không kêu. Vào năm 1845, Thiền sư Bảo Ấn, vị
Tổ sư thứ ba của chùa đang tham thiền, thì thấy một vị Hộ Pháp tới
bảo thỉnh quả chuông ấy về chùa. Xuất định, Thiền sư Bảo Ấn nhờ
sư Diên Tọa đến làng Chí Tượng thỉnh chuông về. Trong ngày lễ khai
chuông, sau khi chú nguyện, Thiền sư Bảo Ấn đã gióng lên tiếng chuông
tròn ấm ngân vọng khắp vùng. Chuông này nay treo ở bên trái chính điện
của chùa.
Tổ đình "Thiên Ấn Tự"
được Chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch "Sắc tứ Thiên Ấn Tự"
năm 1716. Ngày nay bên cạnh chùa, dưới bóng mát của tàn cây đa cổ thụ
còn có tháp của Thiền sư Pháp Hóa và 5 vị trụ trì kế tiếp là Khánh Văn,
Bảo Ấn, Giác Tịnh, Hoằng Phúc, Diệu Quang.
Ngoài ra, phía trước chùa, trên
núi, còn có mộ chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng được nhân dân an táng tại đây
năm 1947.
Cũng năm 1947, chùa Thiên Ấn bị giặc
Pháp ném bom sụp đổ. Sau năm 1954, Giáo hội Tăng già tỉnh Quảng Ngãi
được thành lập, đã phác họa chương trình trùng kiến chùa Thiên Ấn. Dưới
sự chỉ đạo của hai thầy Huyền Tân và Hồng Ân, chùa được khởi công
xây dựng từ năm 1959 và khánh thành vào ngày mùng 8 tháng giêng năm Tân Sửu
(1961).
Là một thắng tích của đất nước,
chùa Thiên Ấn đã trở thành đề tài ngâm vịnh của nhiều văn nhân thi sĩ.
Bài thơ nổi tiếng nhất viết về chùa là bài Vịnh Thiên Ấn niêm hà của
Nguyễn Cư Trinh (1716 - 1767) :
- Phong cảnh nơi đây thật rất xinh
- Niêm hà có ấn của trời sinh
- Xem kia dấu tích còn vuông vức
- Nhận lại non sông rõ dạng hình
- Cách thức như in đồ Cổ Tự
- Cỏ cây nào phụ tiếng chuông linh
- Châu sa đổ dưới chân chờ mãi
- Trấn chỉ sau lưng núi Cẩm Thành.
- BÌNH ĐỊNH
- Chùa
THẬP THÁP (THẬP THÁP DI-ĐÀ TỰ) [^]
Chùa Thập Tháp Di-đà gắn liền
với tên tuổi của người khai sơn là Tổ sư Nguyên Thiều hay Thọ Tôn, người
họ Tạ, húy Siêu Bạch hiệu Hoán Bích, quê huyện Trình Hưng, phủ Triều
Châu, tỉnh Quảng Đông. Theo thuyền buôn sang Việt Nam vào năm 1677, Ngài đến
lưu trú tại phủ Qui Ninh nay thuộc tỉnh Bình Định, cách thành phố Qui Nhơn
25km. Nơi đây, trên ngọn đồi Long Bích nằm yểm hậu sát cạnh thành Đồ
Bàn, nay thuộc thôn Vạn Thuận, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, vốn có 10
ngôi tháp của người Chăm gọi là Thập Tháp. Thiền sư Nguyên Thiều đã
dựng một thảo am trên ngọn đồi này để thờ Phật. Di-đà là danh hiệu
Giáo chủ cõi Cực lạc, đồng thời cũng có nghĩa là lý tánh, bản giác của
chúng sinh. Tập hợp các ý nghĩa trên, tổ đình này được mệnh danh là
Thập Tháp Di-đà Tự.
Từ thị trấn Đập Đá, theo quốc
lộ 1A, đến cầu Vạn Thuận, có một con đường đất bên trái dẫn tới
khuôn viên chùa Thập Tháp Di-đà với một ao sen ngay phía trước. Cổng chùa
là hai cột cao, có đôi sấu ngồi trên đỉnh cột. Chùa kiến trúc theo
hình chữ "Khẩu" ; gồm chánh điện, Đông đường, Tây dường và
nhà phương trượng. Tất cả có 4 dãy nhà ba gian hai chái, lợp ngói âm dương,
xây bằng gạch và đá ong. Cột lớn làm bằng danh mộc, kèo, trính, quyết
đều bằng gỗ sao và muỗm.
Năm 1691, chùa Thập Tháp Di-đà được
Chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho biển ngạch và câu đối . Năm 1749, Hòa thượng
Liễu Triệt trùng tu chánh điện, xung quanh có một hành lang bao bọc, bên
trong thờ Tam Thế Phật (Di-đà, Thích-ca và Di-lạc), Tôn giả A-nan và Ca-diếp.
Hai bên thờ Thập bát La-hán và Thập điện Minh Vương. Phía sau chánh điện
có một tấm bia ghi bài minh tựa đề "Sắc tứ Thập Tháp Di-đà Tự
bi minh" lập năm 1876 và một tấm bia ghi bài chí chùa Thập Tháp của
Thị giảng Học sĩ Võ Khắc Triển lập năm 1928.
Tổ đình Thập Tháp Di-đà được
truyền cho dòng Lâm Tế chánh phái. Kể từ Tổ khai sơn đến nay, tổ đình
truyền thừa được 15 đời trải qua 328 năm. Trong các vị Tổ, Hòa thượng
Phước Huệ đã được suy tôn làm Quốc Sư. Ngài đã được mời vào giảng
kinh trong hoàng cung nhà Nguyễn từ đời vua Thành Thái đến vua Bảo Đại.
Ngài còn giảng dạy Phật pháp cho chư tăng ở Phật học đường Trúc Lâm
và Tây Thiên (Huế) từ năm 1935. Ngày nay trong khuôn viên chùa còn mộ tháp
của Ngài bên cạnh các mộ tháp của các vị Tổ khác.
- PHÚ YÊN
Phú Yên là
tỉnh có nhiều ngôi tổ đình danh tiếng : chùa Bảo Tịnh, chùa Kim Cang,
chùa Hồ Sơn … ở Tuy Hòa ; chùa Bát Nhã, chùa Từ Quang, chùa Viên Quang,
chùa Bảo Sơn, chùa Châu Lâm, chùa Thiên Hưng … ở Tuy An ; chùa Triều Tôn
ở Sông Cầu ; chùa Phước Sơn ở Đồng Xuân v.v …
Chùa Sắc tứ Phước Sơn tọa lạc
tại thôn Tân Phước, xã Xuân Sơn Bắc, huyện Đồng Xuân, thường được
người dân địa phương gọi là chùa Phước Sơn Đồng Tròn.
Có hai hướng đến chùa. Một là
theo con đường vào chùa Triều Tôn ở xã Xuân Thọ 2, huyện Sông Cầu (gần
cầu Lò Vôi), đi tiếp khoảng 6km. Hai là từ thị trấn Chí Thạnh, rẽ
vào chùa Bảo Sơn ở xã An Định, huyện Tuy An, đi tiếp đến chùa Phước
Sơn.
Chùa Phước Sơn do Tổ húy Thượng
Liễu Hạ Năng, hiệu Đức Chất sáng lập vào năm Gia Long nguyên niên (năm
1802). Chùa Triều Tôn và chùa Bảo Sơn do hai vị sư đệ của Tổ Liễu
Năng là Liễu Diệu và Liễu Căn khai sơn vào năm Gia Long nhị niên (1803).
Đây là ba ngôi tam bảo danh tiếng của chi phái Chúc Thánh, dòng Lâm Tế
chánh tông tại Phú Yên. Chùa Phước Sơn được xây trên núi Phú Mỹ, quay
mặt về hướng Nam, nhìn ra đồng ruộng mênh mông. Con sông La Hai chảy xuống
cầu Ngân Sơn tạo một cảnh sắc đẹp đẽ bội phần cho ngôi già lam cổ
sát Phước Sơn.
Với lịch sử gần 200 năm, chùa đã
trải qua 6 đời truyền thừa. Từ ngôi chùa lợp tranh vách đất ban đầu,
các vị trụ trì kế tiếp liên tục trùng tu phát triển. Các Ngài đều là
những danh tăng của Phật giáo : Ngài Liễu Năng, Ngài Quảng Thiện, Ngài
Huệ Nhãn, Ngài Pháp Tạng, Ngài Thiền Phương và hiện nay là Hòa thượng
Thích Phước Trí, trụ trì từ năm 1950.
Hòa thượng Thích Phước Trí đã
xây dựng lại ngôi chùa bằng vật liệu kiên cố (đá chẻ và bê-tông)
vào năm 1960, nhưng chùa bị cháy vào năm 1965. Sau năm 1975, Hòa thượng đã
tổ chức tái thiết và khánh thành ngôi chùa mới vào ngày 26 tháng 9 năm
1993.
Chánh điện rộng thoáng, điện Phật
được bài trí trang nghiêm. Nổi bật ở trung tâm là tượng đức Bổn sư
Thích-ca Mâu-ni ngồi thiền định trên tòa sen. Phía trước là bộ tượng
Di-đà Tam Tôn (Di-đà, Quan Âm, Thế Chí) và hai vị Hộ Pháp. Án thờ tả hữu
tôn trí các tượng Bồ-tát Quan Âm, Chuẩn Đề và Địa Tạng. Sau điện
Phật là nhà tổ thờ tổ sư Đạt-ma và long vị chư tổ của chùa.
Đứng trước cửa chùa lộng gió
quanh năm, lòng du khách cảm thấy thư thái lạ lùng và bồi hồi nhớ đến
ân đức của các vị tiền bối đã khai sơn và tô bồi cho ngôi chùa. Dọc
theo triền núi, phía trái có hai ngôi tháp cổ, đó là bảo tháp của Tổ
khai sơn Liễu Năng và Ngài Thiền Phương. Phía tay phải trên đường vào
chùa, là bảo tháp của các Ngài Huệ Nhãn, Quảng Thiện và Pháp Tạng.
Ngoài 5 ngôi tháp cổ còn nguyên vẹn
qua năm tháng là những bảo vật của chùa, ngôi tổ đình này còn có những
bảo vật được triều đình nhà Nguyễn ban thưởng 6 lần. Lần thứ nhất
: cây gấm có tên Vạn Thọ Như Ý vào niên hiệu Tự Đức năm thứ 34
(1881) ; lần thứ hai : 1 bộ y cà sa màu đỏ, 1 chiếc mão Quan Âm, 1 đồng
kim tiền có khắc 2 chữ Tam Thọ vào niên hiệu Thành Thái thứ 8 (năm1896)
; lần thứ ba : một đại hồng chung, một cặp bảo cái, mộ y càsa và một
chiếc mão Quan Âm vào niên hiệu Thành Thái thứ 9 (năm 1897) ; lần thứ tư
: chiếc kim khánh có khắc chữ Khâm Tai, một đồng tiền có khắc chữ Triệu
dân lại chi vào niên hiệu Thành Thái thứ 10 (năm 1898) ; lần thứ năm : một
đồng ngân tiền vào niên hiệu Thành Thái thứ 13 (năm 1901) và lần thứ
sáu : ban "Biểu ngạch Sắc Tứ" vào niên hiệu Bảo Đại thứ 14
(năm 1939).
Đến Phú Yên, hành hương về chốn
Tổ Liễu Quán, du khách và Phật tử xa gần đừng quên ghé chùa Sắc Tứ
Phước Sơn, ngôi danh lam của miền Trung nước Việt.
- KHÁNH HÒA
Chùa
Long Sơn trước có tên là Đăng Long Tự, tọa lạc ở số 22 đường 23 tháng
10, phường Phương Sơn, dưới chân núi Trại Thủy, thành phố
Nha Trang. Ở khu vực này có hai ngôi chùa nổi tiếng là chùa Long Sơn ở phía
dưới và chùa Hải Đức ở phía trên.
Trước đây, chùa Long Sơn được dựng
trên núi vào năm 1886 do Hòa thượng Thích Ngộ Chí (1856 - 1935) trụ trì.
Hoà thượng là người huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa, lúc nhỏ tham gia
phong trào chống Pháp, sau xuất thế đi tu. Năm Canh Tý (1900), sau một trận
bão lớn, chùa phải dời từ trên núi xuống vị trí hiện nay. Năm 1936, chùa
được Hội Phật học chọn làm trụ sở Phật giáo tỉnh Khánh Hòa. Năm
1940, chùa được trùng tu do công lao chính của Hội trưởng Tôn Thất Quyền
và Phật tử Võ Đình Thụy. Năm 1968, do chiến tranh tàn phá, chùa bị sạt
mái ngói. Năm 1971, Thượng tọa Thích Thiện Bình đứng ra lo trùng tu chùa
và cho đến năm 1975, việc trùng tu mới thực hiện được 60% theo họa đồ
của kiến trúc sư Võ Đình Diệp.
Từ khi được thành lập đến nay,
chùa do các nhà sư sau đây trụ trì : Hòa thượng Thích Ngộ Chí (từ 1886
đến 1935), Thượng tọa Thích Chánh Hóa (từ 1936 đến 1957), Thượng tọa
Thích Chí Tín (từ 1957 về sau).
Từ chùa Long Sơn có đường lớn dẫn
lên chùa Hải Đức ở lưng đồi và lên pho tượng Kim thân Phật Tổ nơi
đỉnh đồi. Tượng được xây dựng bằng bê-tông ngay trên nền cũ của
chùa Long Sơn. Việc đúc tượng được khởi công năm 1964, hoàn thành năm
1965, do Thượng tọa Thích Đức Minh, lúc đó là Hội trưởng Tỉnh hội Phật
giáo Khánh Hòa và điêu khắc gia Kim Điền thực hiện. Tượng có chiều
cao từ mặt bằng lên 24m, từ đế lên 21m , phần tượng cao 14m, đài sen
7m, đường kính đài sen 10m. Xung quanh đài là hình bảy vị Thánh tử vì
đạo. Trước Phật đài có cặp rồng, chiều dài 7,20m. Du khách từ Bắc
vào hay từ Nam ra, đi trên đường ô tô hay đường xe lửa, đều có thể
nhìn thấy tượng Kim thân Phật Tổ uy nghi với nụ cười vô vi trên khuôn
mặt đầy vẻ bao dung.
Nhìn toàn cảnh, chùa Long Sơn có địa
thế rất đẹp, lại thuận tiện cho khách tham quan. Chùa được dựng trên
một khu đất cao, thoáng mát, cây cối xanh tươi, nằm bên cạnh đường
giao thông và phố xá đông đúc mà giữ được vẻ thâm u, tĩnh mịch. Những
dãy nhà làm học viện, văn phòng, tịnh thất hợp với ngôi chùa đồ sộ,
tạo thành một cấu trúc hoàn chỉnh ẩn bóng dưới những hàng cây bồ đề
cao lớn, cành lá sum suê cùng những cây ăn quả bao quanh.
- LÂM ĐỒNG
Chùa Linh Sơn tọa
lạc trên một ngọn đồi ở số 120, đường Nguyễn Văn Trỗi, phường 2,
cách trung tâm thành phố Đà Lạt 700m về phía Tây Bắc. Chùa được xây dựng
từ năm 1938 và khánh thành năm 1940, do công đức của thập phương bá
tánh, nhất là sự đóng góp của hai Phật tử Võ Đình Dung và Nguyễn Văn
Tiến.
Trên đường vào chùa, du khách đi
dưới những hàng thông, bạch đàn và cây sao cao vút. Ngay trước sân chùa
là tượng Bồ-tát Quan Thế Âm đứng trên một đài sen. Bên trái tòa trang
viện là một bảo tháp ba tầng hình bát giác, mái ngói, cao 4m. Bên phải
sân chùa, giữa đám cỏ xanh là hồ nước trong lúc nào cũng có hoa súng
khoe màu và cá vàng bơi lội. Khu này còn có những cụm giả sơn và cây cảnh
rất đẹp. Hai bên 12 bậc thềm dẫn vào chánh điện là cặp rồng há miệng
tượng trưng cho Long thần hộ trì Phật pháp.
Chùa xây theo lối kiến trúc Á Đông,
giản dị và hài hòa. Hai bên góc chùa có hai con rồng chầu mặt nguyệt
ở giữa nóc. Trước tiền đường có treo nhiều cặp câu đối đượm ngát
thiền vị như :
- Sợn sắc đạm tùy nhân nhập viện
- Tùng thanh tĩnh thính khách đàm thiền
Dịch là :
- Màu núi nhạt theo người vào viện
- Tiếng tùng im nghe khách bàn thiền.
Điện Phật được bài trí trang
nghiêm. Ở giữa chính điện là tượng Phật Thích-ca bằng đồng ngồi trên
tòa sen, nặng 1250kg, được đúc vào năm 1952, và được khánh thành với sự
chứng minh của Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết.
Trải qua hơn nửa thế kỷ, chư vị
trụ trì chùa được biết đến như sau : Hòa thượng Thích Trí Thủ (năm
1940), Hòa thượng Thích Diệu Hoằng (từ 1940 đến 1947), Hòa thượng Thích
Từ Mãn (từ 1947 đến 1952), Hòa thượng Thích Bích Nguyên (từ 1952 đến
1964), Hòa thượng Thích Từ Mãn (từ 1964 về sau).
Hiện nay, Văn phòng Ban Trị sự Phật
giáo tỉnh Lâm Đồng đặt tại chùa. Tuy chỉ mới được xây dựng trong
thế kỷ XX, chùa Linh Sơn đã trở thành một danh lam của Đà Lạt nhờ cảnh
đẹp và đạo vị. Hằng năm, nhất là vào mùa xuân, chùa đón nhận rất
nhiều du khách và Phật tử đến thăn chùa, lễ Phật.
Thiền viện
TRÚC LÂM [^]
Từ khu vực
Hòa Bình ở trung tâm thành phố Đà Lạt đi đến giữa đèo Prenn, có con
đường bên tay phải dẫn vào hồ Tuyền Lăm và Thiền viện Trúc Lâm, lộ
trình khoảng 10km.
Trên con đường vòng theo núi lên
chùa, từ xa đã thấy lầu chuông và mái nóc ngói chánh điện lúc ẩn lúc
hiện giữa những rừng thông ngút ngàn. Đến một ngã rẽ, du khách và Phật
tử hoặc rẽ phải theo con đường nhựa vào cổng bên của chùa với 61 bậc,
hoặc đi thẳng đến hồ Tuyền Lâm rồi theo 222 bậc cấp qua ba cổng tam
quan để vào thẳng sân trước của điện.
Thiền viện tọa lạc trên núi Phượng
Hoàng với diện tích 24 hecta. Diện tích xây dựng khoảng 2 hecta gồm hai
khu ngoại viện và nội viện. Nội viện được chia hai khu vực Tăng, Ni. Mỗi
khu vực có hai Tăng đường, một thiền đường, một nhà bếp, một nhà
ăn và một nhà kho. Đây là khu vực giới hạn khách tham quan, hiện nay là
nơi tu thiền của 50 Tăng và 50 Ni. Ngoại viện ở một khu đất rộng, bằng
phẳng, độ cao 1300m (so với mặt biển), đối diện dãy núi Benhuit chập
chùng và hồ nước Tuyền Lâm mênh mông, xanh biếc. Ở đây, một số công
trình tiêu biểu của Thiền viện được xây cất do kiến trúc sư Ngô Viết
Thụ phác thảo và kiến trúc sư Nguyễn Tín, thầy Trị sự Thích Thông Tạng
cùng nhiều Tăng Ni, Phật tử góp công của thực hiện, đã khánh thành
long trọng vào ngày 19-3-1994. Đó là ngôi chánh điện uy nghi ở vị trí
trung tâm, bên phải là Tham vấn đường và lầu chuông, bên trái là nhà
khách, nhà bếp, nhà kho. Trước nhà khách là một vườn hoa đẹp, và ở
triền dốc xuống phía trước cổng là hồ nước nhân tạo của Thiền viện
có sức chứa 15.000 mét khối nước cho Tăng, Ni sử dụng.
Tượng thờ trong chánh điện được
bài trí đơn giản mà trang nghiêm. Ở điện Phật, tượng đức Bổn sư Thích-ca
Mâu-ni uy nghi thiền định trên tòa sen, hai bên có hai bức tranh Bồ-tát Văn-thù,
Phổ Hiền tượng trưng cho Đại trí và Đại hạnh.
Tham vấn đường bên cạnh ngôi
chánh điện là nơi mỗi tháng vào ngày 14 và 29 âm lịch, Hòa thượng Viện
trưởng cùng thiền sinh tham vấn các vấn đề về Thiền học.
Mục đích của Thiền viện Trúc
Lâm là làm sống lại tinh thần Thiền tông đời Trần (thế kỷ XIII -
XIV). Đây là đường lối tụ tập đặc biệt do vua Trần Nhân Tông tức Sơ
Tổ Trúc Lâm sáng lập. Ngài đã kết hợp cả ba Thiền phái thời bấy giờ
: Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường thành một Thiền phái Việt
Nam. Chính vị vua từng lãnh đạo quân dân hai lần chiến thắng quân
Nguyên Mông ấy đã nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và xuất gia tu
hành tại núi Yên Tử với pháp hiệu Trúc Lâm Đầu Đà. Sau đó, Ngài lại
cùng các môn đồ xuống núi đi du hóa khắp nơi. Ngài đã sống cuộc đời
tích cực hành đạo của một Thiền sư nhập thế trong mọi lãnh vực đời
sống. Đây là thời kỳ có nhiều Thiền sư Việt Nam tham gia việc nước,
song các Ngài vẫn không tham luyến thế tục.
Thiền phái Trúc Lâm đặc biệt nhấn
mạnh sự tụ tập nội tâm ở bất cứ hoàn cảnh nào ta sống, dù là tu sĩ
hay người tại gia. Đường lối tụ tập hướng nội đưa đến thanh tịnh
hóa bản thân, khiến lòng không còn vướng bận ngoại cảnh và tự tánh
hiển lộ. Đây là tâm trạng thực sự an ổn trong chính mỗi người, không
cần tìm kiếm cực lạc ở tận Tây phương. Đường lối này đã được
Sơ Tổ Trúc Lâm diễn tả qua vần thơ Xuân vãn (Cuối xuân) thật thanh
thoát.
Xuân vãn
- Niên thiếu hà tằng liễu sắc, không
- Nhất xuân tâm sự bách hoa trung
- Như kim khám phá Đông hoàng diện
- Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
Nghĩa là :
- Thuở bé chưa từng rõ sắc, không
- Xuân về hoa nở tại trong lòng,
- Chúa Xuân nay bị ta khám phá,
- Chiếu trải giường thiền ngắm cánh hồng.
- (Thích Thanh Từ dịch)
Phương pháp tu tập trở về với nội
tâm ấy được thể hiện rõ nhất qua câu kệ kết thúc bài phú Cư Trần
Lạc Đạo của Sơ Tổ Trúc Lâm :
- Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
- Cư tắc xan hề khốn tắc miên.
- Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
- Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Nghĩa là :
- Ở trần vui đạo hãy tùy duyên
- Đói đến thì ăn, nhọc ngủ liền.
- Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
- Đối cảnh không tâm, chớ bói thiền.
- (Thích Thanh Từ dịch)
Sơ tở Trúc Lâm quả thật là tấm
gương sáng ngời đạo hạnh của bậc hiền nhân. Sau khi hoàn thành sứ mạng
của một vị anh quân, Ngài đã trở thành vị Thiền sư thanh tịnh, đồng
thời là một bậc cao tăng uyên thâm giáo lý. Với châm ngôn"Thiền
Giáo song hành", Ngài truyền đệ tử là Pháp Loa, Nhị Tổ Trúc Lâm, tiến
hành việc khắc ấn bản Đại Tạng kinh kéo dài suốt 24 năm ròng (1295 -
1319) dưới sự bảo trợ của vua Trần Anh Tông và sự ủng hộ nhiệt
tình của mọi tầng lớp Tăng sĩ, Phật tử. Đây là công tác vĩ đại nhất
được chư Tổ Thiền tông đời Trần thực hiện với hơn 5000 ấn bản Đại
Tạng được lưu giữ tại chùa Quỳnh Lâm.
Kế tiếp Nhị Tổ Pháp Loa là Thiền
sư Huyền Quang, hợp thành Trúc Lâm Tam Tổ, biểu tượng của thời Phật
giáo cực thịnh trên đất Việt. Thiền sư Huyền Quang là một bậc cao tăng,
cũng là bậc thi hào đã lui về ẩn dật tại núi Côn Sơn sau hơn 20 năm vừa
phụng sự triều đình vừa phụ tá Sơ Tổ Trúc Lâm trên đường hành đạo
và soạn kinh sách dạy học về Thiền tông Việt Nam. Sồng giữa dòng
thiên nhiên, Ngài cảm nhận tâm trạng thanh thản của một người thực sự
hòa mình vào vạn vật làm một, đi đứng nằm ngồi, giờ phút nào cũng
an nhiên tự tại, nên đã sáng tác những vần thơ tuyệt diệu như trong bài
Vịnh cúc hoa:
Vịnh cúc hoa
- Hoa tại trung đình, nhân tại lâu
- Phần hương độc tọa tự vong âu
- Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh
- Hoa hương quần phương xuất nhất đầu
Nghĩa là:
- Người ở trên lầu, hoa dưới sân
- Vô tư ngồi ngắm khói trầm xông
- Hồn nhiên người với hoa vô biệt
- Một đóa hoa vừa mới nở tung
- (Nguyễn Lang dịch)
Đời sống hằng ngày của một
hành giả hướng đến thanh tịnh bản tâm theo Thiền phái Trúc Lâm đã
được qui định điều hòa bằng nghi thức "Lục thời sám hối"
do vua Trần Thái Tông biên soạn. Đây là nghi thức sám hối đặc biệt Việt
Nam gồm sáu phần sám hối trong ngày với mục đích thanh lọc nội tâm,
khác với nghi thức sám hối của Phật giáo Trung Hoa nhằm cầu xin xá tội
cho bản thân cùng người khác. Từ sáng tinh sương, vị hành giả Thiền
tông bắt đầu một ngày an lành bằng các bài kệ tụng đơn giản hỗ trợ
cho việc tinh cần tụ tập thân tâm như sau:
Bài kệ dâng hương
- Ngào ngạt trầm hương rừng Chánh Định
- Chiên đàn vườn Tuệ đã vun trồng
- Giới đao đẽo gọt nên hình núi
- Đốt tại lò tâm để hiến dâng.
- Bài kệ dâng hoa
- Hoa nở sáng ngời trên đất Tâm
- Hoa tiên rải xuống chẳng thơm bằng
- Hái dâng từng đóa lên chư Phật
- Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rung.
Đây là phương pháp thực tiễn tu
tập Tam Học Pháp : Giới - Định - Tuệ, rất phù hợp giáo lý nguyên thủy
thời đức Phật, đã được Thiền tông thời cực thịnh của Phật giáo
Việt Nam triều Trần ứng dụng hàng ngày, nay lại được Thiền phái Trúc
Lâm do Hòa thượng Viện chủ Thích Thanh Từ khởi xướng khôi phục và duy
trì những đặc điểm của Thiền tông Việt Nam, đem lại niềm tự hào
dân tộc cho người Phật tử Việt Nam.
Để phương pháp tu học trên đạt
được nhiều hiệu quả, Hòa thượng Viện chủ thường khích lệ các thiền
sinh ứng dụng nguyên tắc "lục hòa " trong cuộc sống phạm hạnh
: thân hòa đồng trú, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, giới hòa đồng
tu, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân. Theo tinh thần Trúc Lâm Đầu
Đà, các thiền sinh phải nỗ lực rèn luyện ba đức tính : tinh cần tu tập
hường đến giác ngộ giải thoát, kiên quyết vượt mọi khó khăn chướng
ngại, và thiển dục tri túc sống đời đạm bạc không thụ hưởng mọi
xa hoa.
Về mặt tổ chức, ban lãnh đạo
Viện gồm có: Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Thủ bổn (Thủ quỹ), Thư
ký và Ban chức sự gồm Quản chúng, Tri sự, Tri khách, Tri khố, Hương
đăng, Trưởng ban vườn, trưởng ban rẫy và Ban khám bệnh.
Ni chúng cũng có một Ban chức sự
như tăng chúng.
Viện trưởng hiện nay : Hòa thượng
Thích Thanh Từ; Phó Viện trưởng: Thương tọa Thích Nhật Quang ; Quản
chúng Tăng : Thượng tọa Thích Thông Phương ; Quản chúng Ni : Ni sư Thích nữ
Như Tâm.
Bước chân vào Thiền viện Trúc
Lâm, Phật tử cũng như du khách dường như quên hẳn cái lạnh cố hữu cửa
xứ Đà Lạt hoa đào để tận hưởng cái khoáng đạt của phong cảnh thiên
nhiên, cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp sáng tạo của các công trình kiến
trúc mới mẻ nhưng mang đậm tính dân tộc. Đặc biệt những giờ phút tĩnh
lặng, thư thái trong tâm hồn sẽ khiến du khách tưởng chừng như đang trở
về với thế giới quá khứ cũa Thiền phái Trúc Lâm thời chư tổ Trúc
Lâm trên non cao yên tử.
Mục lục
| Chùa miền Bắc | Chùa miền Trung | Chùa miền Nam | Sách
tham khảo