- Tứ Diệu Đế
- Ajahn Sumedho
- Dương Vĩnh Hùng dịch
Tập Đế
Tập Đế là gì? Là căn nguyên của đau khổ. Nó là sự
khao khát đã thay đổi chúng sanh, đã được kèm theo bởi những hứng
thú, ái dục, đam mê về điều này thứ kia: trong những ngôn từ khác, dục
ái, hữu ái, hủy ái. Nhưng sự khao khát này nảy sinh và phát triển dựa
trên những gì? Nó nảy sinh và phát triển nơi nào có sự vừa lòng và
yêu thích. Diệu Đế dạy về căn nguyên của đau khổ: đó là linh kiến,
sự tự chứng, trí huệ, sự hiểu biết, và ánh sáng đã nảy sinh trong ta
về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây. Tập Đế này phải được
thấu suốt bằng sự dứt bỏ cái căn nguyên của đau khổ ... Tập Đế này
đã được thấu suốt bằng sự dứt bỏ cái căn nguyên của đau khổ:đó
là linh kiến, sự tự chứng, trí huệ, sự nhận biết, và ánh sáng đã nảy
sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây. [ Kinh Tương
Ưng Bộ, LVI, 11]
Tập Đế có ba luận điểm: 'Có căn nguyên của đau khổ -
đó là sự ràng buộc của dục vọng. Dục vọng phải được buông bỏ. Dục
vọng đã được buông bỏ.
Tập Đế dạy rằng có căn nguyên của đau khổ, đó là sự
ràng buộc của ba loại dục vọng (ái): dục ái (kama tanha), hữu ái (bhava
tanha) và hủy ái (vibhava tanha). Đây là thông điệp thứ nhì của Tứ Diệu
Đế, the pariyatti. Điều bạn đang nghiền ngẫm: căn nguyên của đau khổ là
sự ràng buộc của dục vọng.
Ba Loại Dục Vọng
Dục vọng hay Tanha tiếng Pali là một điều quan trọng cần
phải hiểu. Dục vọng là gì? Kama tanha rất dễ hiểu. Loại dục vọng
này muốn có những khoái lạc về giác quan qua thể xác hoặc những giác
quan khác mà bạn luôn luôn có khuynh hướng tìm kiếm để kích thích và thỏa
mãn giác quan của mình - Đó là dục ái (kama tanha). Để bạn thực sự có
thể nghiền ngẫm thêm: xem dục ái như thế nào mỗi khi bạn ao ước một
sự thoả thích. Ví dụ, khi bạn ăn, nếu bạn đói và thức ăn ngon, bạn
có thể nhận biết được sự muốn ăn thêm một miếng nữa. Chú ý cái cảm
giác đó khi bạn ăn thử một cái gì ngon; và chú ý thế nào bạn muốn
ăn thêm. Đừng chỉ tin vào điều này; thử nó xem. Đừng nghĩ rằng bạn
đã biết qua những kinh nghiệm trong quá khứ. Hãy thử nó xem khi bạn ăn.
Ăn thử những gì thật khoái khẩu và thấy: một sự thèm muốn thêm nữa
nảy sinh. Đó là kama tanha.
Chúng ta hảy ngẫm nghĩ về cái cảm giác muốn trở thành
một cái gì đó. Khi ta còn vô minh, không những ta chỉ tìm kiếm những gì
ngon miệng để ăn hoặc nhạc hay để nghe, ta còn có thể sa vào lưới của
tham vọng và chiếm hữu - tham vọng để trở thành. Chúng ta vướng vào sự
cố gắng để có được hạnh phúc, tìm kiếm để trở thành giàu có; hay
chúng ta cố gắng làm cho đời sống quan trọng bằng cách nổ lực tạo ra
một thế giới tốt. Rồi hãy lưu ý cái cảm giác muốn có được những
gì khác hơn bạn đang có.
Hãy lắng nghe cái hữu ái (bhava tanha) của đời bạn: 'Tôi
muốn hành thiền để thoát khỏi nỗi đau của tôi. Tôi muốn trở thành
giác ngộ. Tôi muốn trở thành một vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni. Tôi muốn
trở thành ngộ đạo trong lốt người trần tục. Tôi muốn có vợ, có
con, và một nghề nghiệp chuyên môn vững chãi. Tôi muốn thưởng thức cái
thế giới giác quan mà không phải từ bỏ bất cứ thứ gì và cũng muốn
trở thành chứng quả A-La-Hán.'
Khi sự cố gắng trở thành một cái gì đó của chúng ta bị
tan vỡ, lập tức có ý muốn tháo gở nó ra. Để ngẫm nghĩ về hủy ái
(vibhana tanha), ý muốn tiệt trừ: 'Tôi muốn dứt bỏ nỗi khổ của tôi.
Tôi muốn tiệt trừ cái sân của tôi. Tôi có cái sân này và tôi muốn tiệt
trừ nó. Tôi muốn dứt bỏ sự ganh tị, sự sợ sệt và lo lắng'. Thay vì
thế, hãy chú ý điều này khi soi xét về hủy ái. Chúng ta tự thấy chúng
ta muốn dứt bỏ mọi thứ; nhưng chúng ta lại không cố gắng dứt bỏ hủy
ái. Chúng ta không chống lại cũng không dung dưỡng dục vọng muốn đoạn
trừ đó. Thay vì thế, chúng ta lại nghĩ: 'Như thế này - để muốn dứt bỏ
một cái gì, tôi phải thắng được cái sân của tôi; Tôi phải giết con
ma và đoạn trừ luôn cái tham của tôi - thì tôi sẽ trở thành...'. Chúng
ta có thể thấy từ dòng tư tưởng này, sự trở thành và sự dứt bỏ
liên hệ với nhau rất chặt chẽ.
Cần nhớ rằng ba loại dục ái (kama tanha), hữu ái (bhava
tanha) và hủy ái (vibhava tanha) chỉ là những phương tiện giúp ta nghiền
ngẫm về dục vọng. Chúng không hoàn toàn là những hình thức riêng biệt
mà chỉ là những khía cạnh khác nhau của dục vọng.
Sự tự chứng thứ nhì bên trong Tập Đế là: 'Dục vọng
phải được cởi bỏ'. Sự buông xả này đến trong sự thực hành của
chúng ta. Bạn có sự tự chứng rằng dục vọng phải được dứt bỏ,
nhưng sự tự chứng đó không phải là ý muốn dứt bỏ bất cứ điều gì.
Nếu bạn không đủ minh triết để quán chiếu, bạn sẽ có khuynh hướng
chạy theo 'Tôi muốn tiệt trừ và buông xả tất cả dục vọng của tôi'
- nhưng đây chỉ là một dục vọng khác. Tuy vậy, bạn có thể nhìn lại
nó, bạn có thể thấy sự ao ước cởi bỏ những hữu ái và dục ái. Bằng
cách hiểu được ba loại dục vọng này, bạn có thể dứt bỏ được nó.
Tập Đế không đòi hỏi bạn nghĩ, 'Tôi có nhiều dục
ái', hay, 'Tôi rất tham vọng. Tôi rất hữu ái và, ... !' hay, 'Tôi là người
theo thuyết hư vô. Tôi không tham dự. Tôi là người chỉ biết hủy ái một
cách cuồng tín. Đó là tôi'. Tập Đế không phải như thế. Tập Đế không
phải để chỉ ra dục vọng dưới bất cứ hình thức nào; Tập Đế dạy
về sự thừa nhận dục vọng.
Tôi đã tốn nhiều thì giờ để xem những thực hành nào
của tôi là dục vọng muốn trở thành. Ví dụ, việc hành thiền của tôi
là một ý tốt muốn thành một tu sĩ được ưa thích - mối tương giao của
tôi đối với những tỳ kheo, tỳ kheo ni hoặc với những người trần tục
phải liên quan với ước muốn được thích và công nhận. Đó là hữu ái
- dục vọng của sự tán dương và thành công. Như thế, làm tu sĩ là có hữu
ái; muốn chúng sanh hiểu mọi thứ và hiểu Phật Pháp. Ngay cả những dục
vọng tinh tế, gần như thanh cao này đều là hữu ái.
Rồi còn có hủy ái trong đời sống tinh thần nữa, điều
có thể rất ngã mạn và kiến thủ: 'Tôi muốn đoạn trừ, thủ tiêu và hủy
diệt những tạp nhiễm ô trược này. Tôi đã thực sự lắng nghe sự suy
nghĩ của mình, 'Tôi muốn đoạn trừ cái dục vọng. Tôi muốn khử trừ
cái sân. Tôi không muốn bị hoảng sợ hoặc ghen ghét. Tôi muốn có can đảm.
Tôi muốn có niềm vui và sự hân hoan trong tâm'.
Sự thực hành này của Phật pháp không phải để chúng
sanh tự ghét lấy mình vì đã có những tư tưởng như thế, mà là để thực
sự thấy rằng tâm trí của con người đã bị điều kiện hoá. Cần ghi
nhận rằng những tư tưởng đó chỉ là vô thường. Dục vọng không phải
là ta mà là cách chúng ta có khuynh hướng phản ứng lại theo sự dẫn dắt
của vô minh khi chúng ta chưa hiểu Tứ Diệu Đế trong ba luận điểm của
nó. Chúng ta có khuynh hướng phản ứng như thế với mọi việc. Những phản
ứng này hoàn toàn bình thường và đều do vô minh gây ra.
Nhưng chúng ta không cần phải tiếp tục chịu đau khổ. Chúng
ta không phải là những nạn nhân tuyệt vọng của dục vọng. Chúng ta có
thể cho phép dục vọng tồn tại và bắt đầu buông xả nó. Dục vọng
có sức ảnh hưởng mạnh và làm ta mê huyễn chỉ khi chúng ta còn nắm bắt
nó, tin vào nó và phản ứng lại nó.
Giữ Lấy Là Đau khổ
Thông thường chúng ta đo lường đau khổ bằng cảm thọ,
nhưng cảm thọ không phải là đau khổ. Sự giữ lấy dục vọng mới chính
là đau khổ. Dục vọng không gây ra đau khổ; nguyên nhân gây ra đau khổ là
sự giữ lấy dục vọng. Sự quả quyết này xin để dành cho sự soi xét
và nghiền ngẫm bằng kinh nghiệm riêng của bạn.
Bạn phải thực sự khảo sát dục vọng để biết nó là
gì. Bạn phải biết cái gì tự nhiên, cần thiết và không cần thiết cho
sự sinh tồn. Bạn có thể rất duy tâm trong việc nghĩ rằng ngay cả nhu cầu
thức ăn là loại dục vọng chúng ta không nên có. Người ta có thể trở
nên rất lố bịch về chuyện đó. Nhưng Đức Phật không phải là người
duy tâm và cũng không phải là nhà luân lý. Ngài đã không muốn chê trách
bất cứ điều gì. Ngài chỉ cố gắng thức tỉnh chúng ta đến với chân
lý để chúng ta có thể thấy mọi sự việc một cách minh bạch.
Một khi có được sự minh bạch và thấy theo chiều hướng
của chánh đạo, thì sẽ không còn đau khổ. Bạn vẫn cảm thấy đói. Bạn
vẫn cần thức ăn mà không thấy đó là dục vọng. Thức ăn là nhu cầu tự
nhiên của thể xác. Thể xác không phải là bản ngã; nó cần thức ăn không
thì nó sẽ trở nên rất yếu và chết. Đó là điều tự nhiên của thể
xác - không có gì sai trái với điều đó cả. Nếu chúng ta thật đạo đức,
cao thượng và tin rằng chúng ta là thân xác của chúng ta, thì sự đói sẽ
là vấn đề của chúng ta, và có lẽ chúng ta cũng không nên ăn - đó
không phải là sự khôn ngoan. Đó là sự điên rồ.
Khi bạn thực sự thấy căn nguyên của đau khổ, bạn nhận
thức rằng vấn đề là ở chỗ giữ lấy dục vọng chứ không phải
chính dục vọng. Giữ lấy cũng có nghĩa bị huyễn hoặc bởi dục vọng,
nghĩ rằng dục vọng là 'tôi' và 'thuộc về tôi': 'Những dục vọng này
là tôi và có điều gì sai khi tôi có nó', hoặc, 'Tôi không thích cái hiện
tại của tôi. Tôi phải trở thành cái khác'; hoặc, 'Tôi phải dứt bỏ
cái gì đó trước khi tôi có thể trở thành cái tôi mong muốn'. Tất cả
những cái này là dục vọng. Cứ như thế mà bạn lắng nghe dục vọng với
sự chú ý tối thiểu đừng phải nói dục vọng tốt hay xấu, chỉ cần
công nhận dục vọng là gì mà thôi.
Buông Xả
Nếu chúng ta ngẫm nghĩ về dục vọng và lắng nghe nó,
chúng ta thực sự không còn bị nó ràng buộc nữa; chúng ta chỉ cho phép dục
vọng tồn tại theo cách của nó. Như vậy chúng ta đi đến nhận thức rằng
căn nguyên của đau khổ, dục vọng, có thể bỏ qua một bên và buông nó
ra.
Làm thế nào bạn buông dục vọng ra? Điều này có nghĩa cứ
bỏ mặc nó; không có nghĩa bạn hủy diệt nó hoặc ném nó đi. Giống như
đặt nó xuống, để nó yên. Qua cái thực hành của sự buông xả chúng ta
nhận thức rằng có nguyên nhân của đau khổ, đó là sự ràng buộc của
dục vọng, và chúng ta nhận thức rằng chúng ta phải buông những dục vọng
này ra; rồi sẽ không còn ràng buộc nào với nó.
Khi bạn cảm thấy bị ràng buộc, hãy nhớ rằng 'sự
buông xả' không phải là 'sự tiệt trừ' hay 'sự vứt đi'. Nếu tôi đang
giữ cái đồng hồ này và bạn nói, 'Buông nó ra !', đó không có nghĩa là
'vứt nó đi'. Tôi có thể nghĩ tôi phải ném nó đi vì tôi đang bị ràng
buộc bởi nó, nhưng điều đó chỉ là hủy ái. Chúng ta có khuynh hướng
nghĩ rằng sự tẩy trừ một sự thể là một cách đoạn trừ cái ràng buộc.
Nhưng nếu tôi có thể suy gẫm về sự ràng buộc, tức là sự giữ lấy
cái đồng hồ này, tôi thấy được rằng không có lý do gì trong việc hủy
bỏ nó - nó là cái đồng hồ tốt; nó chạy đúng giờ và mang theo cũng không
nặng. Cái đồng hồ không phải là vấn đề. Vấn đề là sự giữ lại
cái đồng hồ. Như vậy tôi phải làm gì. Cho nó qua, để nó qua một bên
- đặt nó xuống nhẹ nhàng mà không có một sự ác cảm nào. Rồi tôi có
thể nhặt nó lên lại một lúc nào đó, xem mấy giờ và đặt nó một
bên khi cần thiết.
Bạn có thể áp dụng sự tự chứng này vào 'sự buông xả'
những ái dục. Có lẽ bạn muốn có nhiều vui thú. Làm thế nào bạn có
thể để dục vọng qua một bên mà không có sự ghét bỏ? Hãy đơn giãn
nhận ra dục vọng mà không phải phán xét nó. Bạn có thể suy xét ý muốn
tẩy trừ nó - bởi vì bạn cảm thấy có tội đã có một dục vọng ngu
xuẩn như vậy - nhưng chỉ cần đặt nó qua một bên. Ngay khi bạn nhận diện
được dục vọng như nó đang là, hãy công nhận rằng nó chỉ là dục vọng,
rồi bạn sẽ không còn bị nó ràng buộc nữa.
Như vậy cách giải quyết là làm việc với những giây
phút của cuộc sống hằng ngày. Khi bạn đang cảm thấy phiền não và bi
quan, ngay lúc bạn từ chối nuông chìu cái cảm giác đó đã là một kinh
nghiệm của sự giác ngộ. Khi bạn thấy được điều đó, bạn không cần
phải đắm chìm, hụp lặn trong bể khổ của phiền não và tuyệt vọng.
Thực ra bạn có thể ngừng lại bằng cách đừng để cái suy nghĩ thứ
hai nảy sinh.
Bạn phải khám phá điều này qua sự thực hành để bạn
biết cho chính mình làm thế nào để buông xả cái căn nguyên của đau khổ.
Bạn có thể buông xả dục vọng bằng ý muốn buông nó ra không? Tại một
lúc nào đó sự buông xả thực sự là gì? Bạn phải nghiền ngẫm kinh
nghiệm của sự buông xả, thực sự xem xét và khảo nghiệm cho đến khi có
được sự tự chứng. Hãy duy trì tinh thần này cho đến khi sự tự chứng
đến: 'à, buông ra, được, bây giờ ta đã hiểu. Dục vọng đang được
buông xả'. Điều này không có nghĩa là bạn đang buông tất cả những dục
vọng một cách vĩnh viễn, mà ngay giây phút đó, bạn thực sự buông xả
và bạn đã làm điều đó trong sự nhận biết trọn vẹn của trực thức.
Như thế mới là có sự tự chứng. Đây là cái mà chúng ta gọi là sự nội
chứng. Trong tiếng Pali, chúng ta gọi ủanadasana hay là một sự hiểu biết
toàn triệt sâu sắc.
Tôi có được sự tự chứng đầu tiên của sự buông xả
trong năm đầu tiên hành thiền. Tôi đã nhận ra một cách tri thức rằng bạn
phải buông xả mọi thứ và rồi tôi nghĩ: 'Buông ra làm sao đây?' Dường
như tôi đã không thể buông xả bất cứ thứ gì. Tôi tiếp tục suy nghĩ:
'Buông ra làm sao đây?' Rồi tôi tự nhủ: 'Mình buông ra bằng sự buông xả.
Tốt lắm, như vậy cứ buông ra !' Rồi tôi nói tiếp: 'Nhưng tôi đã buông
chưa?' và, 'Buông ra làm sao đây?', 'Chỉ cần buông ra thôi !' Cứ như thế
mà tôi đã tiếp tục, có khi lại trở nên thất vọng hơn. Nhưng cuối cùng
những gì xảy ra đã trở nên hiển nhiên. Nếu bạn cố gắng phân tích sự
buông xả một cách chi tiết, bạn sẽ vướng vào cái khuynh hướng làm cho
vấn đề phức tạp hơn. Sự buông xả không còn là những gì bạn có thể
nghĩ ra bằng lời nữa, mà là những gì bạn thực sự làm. Cứ thế mà
tôi đã buông xả được trong khoảnh khắc.
Bây giờ với những vấn đề và ám ảnh cá nhân, để buông
chúng ra cũng chỉ có chừng đó thôi. Buông xả không phải là vấn đề của
sự phân tích và không ngừng vấn đề hóa sự việc, mà là thực hành
cách để nó yên và buông nó ra. Lúc đầu, bạn buông ra nhưng rồi bạn nhặt
nó trở lại bởi vì cái thói quen giữ lấy quá mạnh. Nhưng ít ra bạn cũng
có được cái khái niệm. Ngay cả khi tôi có được sự tự chứng đó của
sự buông xả, tôi buông chỉ trong chốc lát rồi tôi lại bắt đầu giữ
lại với suy nghĩ: 'Tôi không thể làm được, tôi có quá nhiều tật xấu
!'. Nhưng đừng tin vào sự chì chiết, gièm pha đó trong tâm bạn. Sự giằng
co đó hoàn toàn không đáng tin cậy. ở đây chỉ là vấn đề tập buông
ra. Bạn càng bắt đầu thấy được cách thực tập buông xả, bạn càng
có khả năng kéo dài trạng thái của vô ngại.
Sự Hoàn Tất
Biết được khi nào bạn đã buông xả dục vọng là một
điều quan trọng: khi bạn không còn phán xét hay cố gắng đoạn trừ nó;
khi bạn công nhận rằng nó phải như vậy. Khi bạn thực sự bình tâm, rồi
bạn sẽ thấy không có sự ràng buộc của bất cứ cái gì. Bạn không bị
vướng mắc, cố gắng làm hoặc dứt bỏ một điều gì. Hạnh phúc là ở
chỗ biết được mọi sự thể như nó đang là mà không cảm thấy sự cần
thiết phải phán xét nó.
Chúng ta thường nói, 'Điều đó không thể được !', 'Tôi
không nên thế này !' và, 'Bạn không nên như vầy và bạn không nên làm
điều đó !', và cứ như thế. Tôi chắc rằng tôi có thể bảo bạn nên
làm gì - và bạn cũng có thể bảo tôi nên làm gì. Chúng ta nên tử tế,
có tình có nghĩa, rộng lượng, từ bi, siêng năng, chuyên cần, can đảm,
gan dạ và thương người. Tôi không cần bạn phải nói với tôi những điều
đó ! Nhưng để thực sự biết bạn, tôi phải phơi bày những đức tính
đó để bạn thấy thay vì bắt đầu từ một khuôn mẫu lý tưởng về một
người đàn bà hoặc một người đàn ông, về Phật Giáo hoặc Thiên Chúa
Giáo. Không phải chúng ta không biết chúng ta nên là gì.
Nỗi đau khổ của chúng ta bắt nguồn từ sự ràng buộc của
lý tưởng, và những phức tạp do chúng ta tạo ra cho những sự vật.
Chúng ta không bao giờ trở thành những gì theo những lý tưởng cao cả nhất
của chúng ta. Đời sống, những người khác, quốc gia chúng ta ở, thế giới
chúng ta đang sống - những sự vật dường như không bao giờ theo ý muốn
của chúng ta. Chúng ta đâm ra chỉ trích mọi thứ và cả chính chúng ta:
'Tôi biết tôi phải kiên nhẫn hơn, nhưng tôi không thể kiên nhẫn được
!' ... Cứ lắng nghe tất cả những cái 'nên' và 'không nên' và những dục
vọng: ước muốn được vừa lòng, ước muốn được trở thành hoặc ý
muốn loại bỏ những cái xấu và đau đớn. Giống như lắng nghe ai đó
nói vọng qua hàng rào, 'Tôi muốn cái này và tôi không thích cái kia. Sự
việc phải như thế này và nó không được như thế kia'. Cứ kiên nhẫn lắng
nghe cái tâm hay kêu ca phàn nàn; và đem nó vào trong tâm thức.
Tôi thường thực hành điều này rất nhiều khi tôi cảm
thấy không bằng lòng hoặc khó tính. Tôi nhắm mắt lại và bắt đầu suy
nghĩ, 'Tôi không thích cái này và tôi không muốn điều đó', 'Người đó
không được như vậy', và 'Thế giới không được như thế'. Tôi cứ lắng
nghe con ma khó tính này, tiếp tục phê phán chỉ trích tôi, bạn và thế giới.
Rồi tôi nghĩ, 'Tôi muốn hạnh phúc và sự thoãi mái; tôi muốn cảm thấy
an toàn; tôi muốn được yêu thương !'. Tôi cố ý nghĩ ra những sự việc
này và lắng nghe để biết những điều đó đơn giãn chỉ là những thói
quen hình thành trong tâm trí. Như vậy, nuôi dưỡng những điều đó trong
tâm bạn - khơi dậy tất cả những hy vọng, dục vọng và những sự phê
bình. Mang những điều đó vào trong tâm thức. Rồi bạn sẽ biết rõ về
dục vọng và từ đó có thể đặt nó qua một bên.
Chúng ta càng quán chiếu và khảo nghiệm sự nắm giữ bao
nhiêu, nội tưởng càng phát triển bấy nhiêu: 'Dục vọng phải được buông
xả'. Rồi qua sự hiểu biết và thực hành của sự buông xả thực sự
là gì, chúng ta có được sự tự chứng thứ ba trong Tập Đế, đó chính
là: 'Dục vọng đã được buông xả'. Chúng ta thực sự biết sự buông xả.
Buông xả ở đây không phải là một sự buông xả một cách lý thuyết,
mà là buông xả dựa theo trực chứng. Bạn biết sự buông xả đã được
hoàn tất. Đây là tất cả những gì về sự thực hành.