- Tứ diệu đế
- HT. Thích Thiện Hoa
(Trích Phật Học Phổ Thông)
- Phần I: KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT VỀ
TỨ DIỆU ĐẾ
- (Ariya Saccani)
- A.MỞ ĐỀ
- Nguyên nhân và hoàn cảnh đức Phật
Thích Ca giảng về pháp tứ diệu đế lần đầu tiên
Đức Phật Thích Ca, sau khi thành đạo
dưới cội cây bồ đề, liền nghĩ đến việc đem giáo lý của Ngài vừa
chứng được, ra truyền bá cho chúng sanh. Nhưng giáo lý của Ngài là giáo
lý cao siêu, thâm diệu, còn chúng sanh phần đông căn cơ còn thấp kém,
khó có thể giác ngộ nhanh chóng như Ngài được. Nhưng không lẽ vì giáo
pháp của Ngài thậm thâm vi diệu mà không giáo hóa chúng sanh? Để làm
tròn nhiệm vụ hóa độ của nGià Phật phương tiện nói pháp Tứ Diệu Đế
là Tiệm giáo để cho chúng sanh dễ bề tu hành.
Quan sát căn cưo năm người bạn đồng
tu với Ngài trước kia là nhóm ông Kiều Trần Như, có thể khai ngộ được
với pháp Tứ Diệu Đế, đức Phật đi đến Lộc Uyển là nơi họ đang
tu hành đểnói pháp Tứ Diệu Đế.
Sau khi nghe Phật thuyết pháp Tứ Diệu
Đế, thánh kiến mê lầm tan vỡ, trí huệ siêu thoát xuất hiện, năm vị
này được ngộ đạo, chứng nhập qủa vị A La Hán. Đó là năm vị đệ
tử đầu tiên của đức Phật Thích Ca.
từ đây về sau, Tứ Diệu Đế là
giáo lý căn bản về Tiệm giáo (phương pháp tu chứng từ từ) và đã
giác phộ cho không biết bao nhiêu đẹ tử của Phật.
Ngày nay, chúng tôi đem giáo pháp Tứ
Diệu Đế ra trình bày với quí vị độc giải trong tập sách này, cũng không
ngoài mục đích ấy.
- B. CHÁNH ĐỀ
- I. ĐỊNH NGHĨA VỀ TỨ DIỆU ĐẾ
Tứ là bốn; Diệu là hay đẹp,
quý báu, hoàn toàn; Đế là sự chắc chắn, rõ ràng đúng đắn nhất. Chữ
Phạn là Ariya Saccani.
Tứ diệu đế là bốn sự thật chắc
chắn, quí báu, hoàn toàn nhất, không có một giáo lý ngoại đạo nào có
thể sánh kịp. Với bốn sự thật mà Đức Phật đã phát huy đây, người
tu hành có thể từ địa vị tối tăm, mê mờ, đi dần đến quả vị giác
ngộ một cách chắc thật, không sai chạy, như một ngọn đuốc thiêng có
thể soi đưởng cho người bộ hành đi trong đêm tối đến đích. Vì cái
công dụng quí báu, mầu nhiệm, vô cùng lợi ích như thế nên mới gọi
là Diệu.
Chữ Đế còn có nghĩa là một
Sự Thật lớn nhất, cao nhất, bao trùm tất cảcác Sự Thật khác, và
muôn đời bất di bất dịch, chứ không phải là sự thật hạn cuộc trong
không gian và thời gian.
Trong giáo lý Tiểu thừa thì Tứ diệu
đé là giáo lý căn bản.
II. TỨ DIỆU ĐẾ GỒM
NHỮNG GÌ?
Tứ diệu đế, là: Khổ đế鬠Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
1. Khổ đế ( Dukkha). Khổ đế
là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng cho chúng ta thấy tất cả những
nỗi đau trên thế gian này mà mỗi chúng sinh đều phải chịu, như Sống là
khổ, Đau là khổ, Già là khổ, Chết là khổ V.V..những nỗi khổ dẫy đầy
trên thế gian, bao vây chúng ta, chìm đắm chúng ta như nước biển. Do đó,
Đức Phật thường ví cõi đời là một bể khổ mênh mông.
2. tập đế (Sameda Dukkha). Tạp
đế là chân lý chắc thật, trình bày nuyên nhân của bể khổ trần gian,
là lý do vì đâu có những nỗi khổi ấy. Khổ đế như là bản kê hiện
trạng của chứng bệnh; còn Tập đế như là bản nói rõ nguyên nhân của
chứng bệnh, lý do vì sao có bệnh.
3. Diệt dế (Nirodha Dukkha). Diệt
đế là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng hoàn cảnh quả vị an lành,
tốt đẹp mà chúng sanh sẽ đạt đến khi đã diệt trừ được những nỗi
khổ và những nguyên nhân của đau khổ. Diệt đế như là một bản cam
đoan của lương y nói rõ sau khi người bệnh klành thì sẽ ăn ngon, ngủ yên
như thế nào, thân thể sẽ tráng kiện, tâm hồn khoan khoái như thế nào.
4. Đạo đế (Nirodha
Gamadukkha). Đạo đế là những phương pháp đúng đắn, chắc thật để diệt
trưd đau khổ. Đó là chân lý chỉ rõ con đường quyết định đi đến cảnh
giới Niết Bàn. Nói một cách giản dị, đó là những phương pháp tu hành
để diệt khổt và được vui.
Đạo đế cũng như cái toa thuốc
mà vị lương y đã kê ra để người bịnh mua vf\àd những lời chỉ dẫn
mà bịnh nhân cần phải y theo để lành bệnh.
III. BỐ CỤC KỲ DIỆU
CỦA TỨ DIỆU ĐẾ
Tứ diệu đế đã được Đức Phật
sắp đặt theo một thứ tự rất khôn khéo, hợp lý, hợp tình. Ngày nay
các nhà nghiên cứu Phật học Âu Tây, mỗi khi nói đến Tứ Diệu Đế,
ngoài cái nghĩa lý sâu xa, nhận xét xác đáng, còn tóm tắt tán thán cái
kiến trúc, cái bố cục, cái thứ lớp của toàn bộ pháp môn ấy.
Trước tiên, đức Phật chỉ cho chúng
sanh thấy cái thảm cảnh hiện tại cỉa cõi đời. Cái thảm cảnh bi đát
nầy có nằm ngay trước mắt ta, bên tai ta, ngay trong chính mỗi chúng ta; những
sự thật có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, rờ được, chứ không phải những
sự thật xa lạ ở đâu đâu. Đã là một chúng sanh, ai không có sanh, ai
không đau ốm, ai không già, ai không chết v.v...? Và những trạng thái ấy
đều mang theo tánh chất khổ cả. Đã có thân, tất phải khổ. Đó là một
chân lý rõ ràng, giản dị, không ai là không nhận thấy, nếu có một
chút ít nhận xét.
Khi chỉ cho mọi người thấy cái
khổ ở trước mắt, ở chung quanh và chính trong mỗi chúng ta rồi, đức
Phật mới đi qua giai đoạn thứ hai, là chỉ cho chúng sanh thấy nguồn gốc,
lý do của những nỗi khổ ấy. Ngài đã từ hiện tại đi dần về quá khứ,
đã từ bề mặt đi dần xuống bề sâu, đã từ cái dễ thấy đến cái
khó thấy. Như thế là lý luận của Ngài đã đặt căn bản lên thực tại,
lên những điều có thể chứng nghiệm được, chứ không phải xa lạ, viễn
vong, mơ hồ.
Đến giai đoạn thứ ba, đức Phật
nêu lên trình bày cho chúng ta thấy cái vui thú của sự hết khổ. Giai đoạn
nầy tương phản với giai đoạn thứ nhứt: giai đoạn trên khổ sở như
thế nào, thì giai đoạn nầy lại vui thú như thế ấy. Cảnh giới vui thú
mà Ngài trình bày cho chúng ta thấy ở đây, cũng không có gì là mơ hồ,
viễn vong, vì nếu đã có cái khổ là cái vui. và khi đã thấy rõ được
cái khổ như thế nào, thì mới hăqng hái tìm cách thoát khổ và khao khát
hướng đến cai vui mà đức Phật đã giới thiệu.
Đến giai đoạn thứ tư là giai đoạn
Phật dạy những phương pháp để thực hiện cái vui ấy. Ở đây chúng ta
nên chú ý là đức Phật trình bày cảnh giới giải thoát trước, rồi mới
chỉ bày phương pháp tu hành sau. Đó là một lối trình bày rất khôn
khéo, đúng tâm lý: trước khi bảo người ta đi, thì phải nêu mục đích
sẽ đến như thế nào, rồi để người ta suy xét, lựa chọn có nên đi
hay không. nếu người ta nhận thấy mục đích ấy cao quý, đẹp đẽ, khi
ấy người ta mới hăng hái, nỗ lực không quản khó nhọc, để thực hiện
cho được mục đích ấy.
Như thế, chúng ta có thể phác họa
lại cái bố cục của bức họa Tứ Diệu Đế như sau:
Chúng ta đang đứng trước một bức
họa vĩ đại gồm có hai phần chính: Phần dưới là một bể thẳm mênh
mông, sóng gió tơi bời, trong ấy thuyền bè đang bị đắm chìm, với vô số
nạn nhân đang lặn hụp, kêu la, khóc lóc, chới với...(Khổ đế).
Trong cái phần nầy của bức tranh,
ta cũng thấy được những nguyên nhân gây ra những thảm họa ấy: đó là
những luồng gió dục vọng, tham, sân, si.. những đám mây vô minh đen nghịt,
che khuất cả mặt trời (Tập đế).
Nhìn đến phần trên của bức họa,
ta thấy quang cảnh dần dần sáng sủa, yên tĩnh; ở đây, giông tố không
đến được, không có những vực sâu, hố hiểm, không có những nạn
nhân đang rên siết, khóc than...đây là một miền cao nguyên, cang flên cao,
cảnh trí càng đẹp đẽ, yên vui. Người ở đây trông có vẻ bình tĩnh,
thảnh thơi, vui vẻ lắm; và cũng như cảnh trí, những người càng ở tầng
bậc cao thì lại càng có dung mạo đẹp đẽ, cốt cách phương phi, giải
thoát...(Diệt đế).
trong phần nầy, nếu chúng ta chú
ý nhìn rõ, thì thấy từ một cảnh ở dưới lên một cảnh trên, có những
con đường đi với những cái bản đề tên đường đi, rất hay như: tứ
niệm xứ, Tứ chánh cần, tứ như ý túc,. Bát chánh đạo v.v...Trên những
con đường ấy, có rất nhiều người đang đi lên, và rất ít người đi
xuống. và càng lên cao thì con đường lại càng rộng rãi mát mẻ, tốt đẹp
và những khách bộ hành lại càng mang rất ít hành lý...(Đạo đế).
Bức họa ấy có ghi mấy chữ ở
phần dưới là: "Thế gian" và phần trên là "Xuất thế
gian".
Đây, bức họa Tứ Diệu Đế rõ
ràng trình bày ra trước mắt chúng ta hai cảnh giới: Thế gian và Xuất thế
gian, tương phản như thế đó. Những ai đã nhìn được bức họa ấy, tất
đều có một thái độ là muốn xa lành cảnh ở phần dưới và mong ước
được sống trong cảnh giới trình bày ở phần trên bức họa.
VI. ĐỊA VỊ QUAN TRỌNG
CỦA TỨ DIỆU ĐẾ TRONG TOÀN BỘ GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA
Tứ Diệu Đế là giáo lý căn bản
của đạo Phật, không phải riêng đối với Tiểu Thừa mà chung cho cả Đại
Thừa nữa. Người tu hành muốn có một kết quả chắc chắn, không thể bỏ
qua Tứ Diệu Đế được. Pháp môn nầy, tuy tiến chậm, nhưng khi tiến
được bước nào là chắc bước nấy. Pháp môn nầy tuy không đưa thẳng
người tu hành đến quả vị Phật, nhưng với một sự tinh tấn và quyết
tâm nó có thể dễ dàng đưa người tu hành đến quả vị A La Hán. Rồi từ
quả vị A La Hán, hành giả sẽ tu thêm một pháp môn khác của Đại Thừa,
để tiến đến quả vị Phật. Căn cơ nào, trìnhoộ nào cũng có thể tu
theo pháp môn nầy được, chứ không phải như một số pháp môn khác, phải
cần có một trình độ học thức cao và một trí tuệ trên mức trung bình
mới có thể theo được. Vì thế, nó là một pháp môn phổ thông cho cả
hai phái Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa, Nam tông và Bắc tông. Ngày nay pháp
môn này là pháp môn được phổ biến nhất trên thế giới. Các Phật tử
Âu Mỹ hầu hết đều tu theo pháp môn nầy là những tập sách nghiên cứu
về đạo Phật, của những nhà Phật học tây phương đều nói nhiều nhất
về Tứ Diệu Đế.
C. KẾT LUẬN: PHẬT
TỬ PHẢI HỌC VÀ THỰC HÀNH PHÁP TỨ DIỆU ĐẾ
Một giáo lý căn bản, quan trọng
như Tứ Diệu Đế, người Phật tử không thể không hiểu được. Không
hiểu biết về Tứ Diệu Đế là không hiểu biết gì về giáo lý đạo Phật
cả. Người Phật tử, hơn ai cả, phải thấu triệt cõi đời là khổ.
Muón thế, không gì hơn là hãy lắng nghe đức Phật dạy về Khổ đế, vì
chỉ có Khổ đế mới nói lên một cách tường tận đầy đủ, chính xác
về mọi nỗi khổ đau của cõi đời.
Thấy rõ được mọi nỗi khổ đau
rồi, ta cần tìm hiểu vì đâu có khổ, nguyên nhân của khổ là đâu. Vì
chỉ khi nhận thấy được nguồn gốc của nó, mới có thể diệt trừ tận
gốc nó được. Điều này, cũng không chỗ nào nói rõ ràng, phân tích
ràng mạch bằng Tập đế. Nhưng thấy được mọi nỗi đau khổ của cõi
đời và nguồn gốc của nó, không phải để mà chán ngán, khóc lóc, rên
siết. Nếu thế thì không có gì tiêu cực bi quan bằng. Một sô sdư luận
tưởng lầm đạo Phật là yểm thế bi quan là vì họ đã dừng lại ở
hai phần đầu của Tứ Diệu Đế.
Nhưng người Phật tử không dừng
lại đó. Đã thấy đau khổ làm cho cuộc đời xấu xa, đen tối, khổ
đau, thì phải diệt trừ đau khổ. Hạnh phúc không đâu xa, hạnh phúc hiện
ra sau khi đã diệt trừ được đau khổ. Đau khổ lùi chứqng nào thì hạnh
phúc đến chứng ấy, như bóng tối tan đi đến đau thì ánh sáng thay vào
đến đó. Muốn thấy ánh sáng của Niết Bàn thì phải thực hiện những
lời dạy của Phật trong Diệt đế.
Muốn thực hiện Niết Bàn thì phải
có đủ phương tiện. Những phương tiện nầy, đức Phật đã cung cấp một
cách đầy đủ trong trong Đạo đế.
Như thế, đức Phật Thích Ca đã
làm đầy đủ nhiệm vụ của kẻ dẫn đường cho chúng ta đi từ cõi đời
đen tối đến quả vị A La Hán. Ngài đã đặt vào tay chúng ta một bản
đồ chỉ dẫn rõ ràng về cuộc hành trình và ban cho chúng ta đầy đủ
phương tiện cần thiết trong chuyến đi vĩ đại ấy. Chúng ta chỉ còn
lên đường vàbước đi.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/038-tth-tude1.htm
Tổng quan
| Khổ đế | Tập đế
| Diệt đế | Đạo đế