- Kỷ Niệm Một Chuyến Đi
- Thiên Anh Lạc
"Mãi đến bây giờ, khi nghỉ
về Ấn Độ và chuyến hành hương vừa qua, lòng tôi dâng lên một cảm
giác an lạc vô biên, một sức mạnh vô hình đã thúc đẩy và khuyến
khích tôi hãy can đảm hơn nữa để khắc phục mọi trở ngại hầu tiến
những bước vững chắc hơn trên con đường đức Từ Phụ đã từng đi
qua"
Hành hương Ấn Độ không phải
dể nếu không có tín tâm dũng mãnh, ý chí kiên cường và phước duyên
sâu dày với Phật Pháp. Lý do một số Phật tử không muốn đi Ấn Độ :
Không đủ tài chánh, hay chọn về
Việt Nam thăm gia đình thì hữu ích hơn.
Ghê sợ vấn đề vệ sinh bên ấy
nói chung, vì Ấn Độ vẫn còn là nước nghèo khó, lạc hậu, dơ bẩn, bụi
bặm, thiếu tiện nghi văn minh và điều kiện căn bản, nhất là khi di chuyển
từ thành phố này sang thành phố khác. Đó là chưa kể sợ nạn cùi hủi,
ăn xin bu lại, nắm áo xin tiền.
Không thích đi với những nhóm
khác, mà phải chờ đúng chùa MÌNH, thầy tổ của MÌNH tổ chức thì ới
đi. Đi với bà con Phật tử khác thì không vui, nói chuyện không hạp, thầy
khác không có lo cho MÌNH bằng thầy MÌNH.
Còn bao nhiêu lý do khác nữa mà
tôi không nêu ra đây vì không phải là nội dung chính của bài viết này
…….
Riêng tôi, hành hương Ấn Độ là
điều tôi ao ước từ khi tôi còn nhỏ khi được xem Phim về cuộc đời
đức Phật do hãng phim Ấn Độ quay. Tôi cũng có cơ duyên đọc sách, nghe
quý thầkể, hay là say mê xem tranh vẽ ở các chùa về ngài. Đầu óc
non nớt của tôi tưởng tượng về ngài thật từ bi và an lành, nên đã
có lần tôi thơ ngây trốn nhà đi tìm ngài khắp nơi khi tâm hồn bất an.
Tôi ước muốn khi lớn lên, đi làm,
có tiền nhất định phải sang Ấn Độ hành hương một chuyến để lễ lạy
nơi thánh địa, tìm lại dấu vết lịch sử Phật giáo. Mặc dù, vào thời
gian đó, tôi biết tôi chỉ mơ tưởng chuyện hảo huyền vì tình hình đất
nước, xuất ngoại không phải là chuyện dể dàng, nhưng tôi vẫn hy vọng
đạt được điều này.
Đời sống ở hải ngoại, tuổi đời
và khổ đau chồng chất, tôi trở về nguồn nhiều hơn trong những năm tháng
mới sang đây định cư. Trở về đời sống tâm linh, tôi dành nhiều thời
gian hơn để đi chùa, đọc kinh sách, báo chí Phật giáo và tư duy, quán
chiếu.
Từ đó, dường như nhớ lại mơ
ước ngày xưa, đọc rồi tưởng tượng những câu chuyện kể về đức
Phật, về hàng tứ chúng của ngài trong kinh điển nên tôi lại càng mong
muốn đi chiêm bái Phật tích, ít nhất một lần trong đời.
Ở nước ngoài, điều kiện dễ dàng
hơn Việt Nam, không đi uổng lắm. Tuy nhiên, không dễ như tôi nghỉ, tôi bị
trở ngại liên tục qua nhiều hình thức khác nhau. Tôi hiểu rằng mình bị
quả báo thử thách, vì ban đầu, có điều kiện đi dễ dàng nhưng còn chần
chờ, hẹn lại, chưa muốn đi.
Tôi nhất quyết đi vào cuối năm
2000 nên sự việc xảy ra khá ngộ nghỉnh, thú vị, hy hữu bất ngờ. Tất
cả đều do nhân duyên đưa đẩy. Mọi dự tính ban đầu của tôi về chuyến
đi đều đảo lộn hoàn toàn.
Ban đầu, tôi định đi với nhóm
hành hương tổ chức từ quốc gia tôi hiện đang sống cho dễ dàng về vấn
đề tiền tệ, di chuyển, tổ chức, nhưng tôi không tham dự vì không chắc
chắn. Nhưng năm nay, vào giờ cận chót, chùa lại tổ chức mặc dù rất
ít Phật tử đi.
Nhóm thứ hai, tôi tin chắc đi được
vì thầy năm nào cũng tổ chức, thầy yêu cầu tôi giử chổ trước vài
tháng, tôi sắp đặt tất cả, chuẩn bị sẳn sàng đâu ra đó rồi trả lời
thầy, thầy hoan hỉ chấp thuận.
Vài tuần sau, thầy dời ngày cùng
tuyến đường đi làm tôi bồn chồn lo lắng, nhưng linh tính báo cho tôi biết
là vẫn đi được. Tôi đã hỏi thầy rất kỷ trước khi tiến hành. Tôi
đã lấy ngày nghỉ phép, giữ vé, máy bay vào Ấn Độ khó khăn, chỉ có 2
chuyến mỗi tuần. Tôi làm gì được bây giờ nên càng rầu rỉ, bất an.
Khi sang Ấn Độ tôi mới biết chuyến đi ấy không có dời, chỉ có tên
tôi bị dời.
Mọi sự đã sắp đặt xong nên
tôi nhất quyết đi bằng mọi giá, tôi quyết định đi với tính cách cá
nhân.
Lành thay, vào giờ chót, tôi nhập
vào nhóm hành hương khác, đi cùng ngày với tôi.
Một chuyến đi khó phai nhoà trong
ký ức tôi vì có hoà thượng và nhiều tu sỉ tăng ni sinh du học tại đây.
Các vị quấn y vàng theo lối nguyên thủy càng làm tôi nhớ đến hình ảnh
đức Như Lai và các vị đệ tử ngài.
Được nhìn thấy nhiều chiếc y
vàng trang nghiêm nơi đất Phật làm lòng tôi dâng lên một niềm hạnh
phúc, an lạc vô biên, ôi sao mà đẹp quá, được hân hạnh đi cùng với
các vị thì còn gì đáng mong mỏi hơn nữa trong cuộc đời này, ước mơ
gì hơn cũng không bằng giờ phút tuyệt vời ấy.
Đức Phật đã khuất bóng nhưng tôi
vẫn còn được phước đức đi cùng với những vị trưởng tử của Ngài.
Phật tử trong chuyến đi này dể mến,
tử tế, chân thật. Chúng tôi đối xử với nhau bằng tình cảm gia đình.
Lo lắng, chia sẽ cho nhau đủ điều. Lý nhân duyên thật rõ rệt, không chạy
trốn đâu khỏi. Không tìm mà đến, tìm mãi chẳng gặp.
Khí hậu Delhi vẫn còn hâm hấp
nóng khi tôi ra khỏi phi trường, hải quan Ấn Độ làm việc chậm chạp,
khám xét khó khăn nên phải mất cả giờ đồng hồ, tôi mới bước ra khỏi
phi trường. Cảnh vật lạ thường làm tôi hơi ngơ ngác nhìn quanh, ánh đèn
lù mù hai bên đường lại thêm bụi bặm mù mịt khiến phong cảnh trở
nên lung linh, mờ ảo. Trời còn oi ã nên già trẻ ngồi thư thã hóng mát
sau một ngày làm lụng cực khổ. Ngoài thành phố, nhà cửa cửa nghèo
nàn, lụp xụp, đèn dầu thắp leo lét, dăm ba đứa trẻ chạy chơi, thỉnh
thoảng, có một quán gió dọc đường, đèn màu chớp loé và nhạc hát eo
éo, kèn trống xập xình. ……. Đàn bà Ấn Độ rất ít ra đường và lại
càng không có buôn bán hay giao dịch nhiều, ngay cả đi chợ, phần lớn ở
nhà nấu cơm và nuôi con.
Tứ động tâm là nơi không thể
thiếu xót trong mỗi chuyến hành hương. Còn những nơi khác có thể viếng
thăm phụ nếu có dư giờ, như núi Linh Thứu, Khổ Hạnh Lâm, sông Ni Liên,
thành Ca Tỳ La Vệ, Trúc Lâm tịnh xa, vườn của ông Cấp Cô Độc, cây
Thái tử Kỳ Đà ……. Thăm hết và xem kỷ lưởng, có lẽ phải cần đến
vài tháng. Thời gian không đủ thì "cưởi ngựa xem hoa" cũng được
rồi.
Nếu muốn đi theo thứ tự thời
gian thì khởi đầu từ vườn Lâm Tỳ Ni, đến Bồ Đề Đạo Tràng, sang vườn
Lộc Uyển và kết thúc tại Câu Thi Na. Như vậy sẽ không thuận tuyến
đường, cho nên phái đoàn đi thành Ba La Nại bằng tàu hoả, sau khi đã thăm
viếng những nơi nổi tiếng tại Delhi như mộ phần của thánh Ghandi, đài
thiên văn …..
Tôi chưa bao giờ được nhìn thấy
cảnh tượng nào đông đúc và khủng khiếp hơn là ga xe lửa nơi này.
Tại đây rất dễ bị lạc vì từng
đợt sóng người kéo đến để cắt ngang chúng tôi, nào là xe thồ, xe
kéo, hành lý, kiện hàng, ồ ạt đổ vào chúng tôi như những trận cuồng
phong, bảo táp.
Các bác lớn tuổi hãi hùng sợ lạc
nên níu lấy áo tôi mà theo không rời một bước, tôi cũng quay lại trông
chừng các vị liên tục, vậy mà chúng tôi vẫn bị những làn sóng người
ào ạt xô đến, xẻ ngang để dành lối đi làm chúng tôi hoảng hốt.
Ở ga này, tôi thấy phần lớn là
người nghèo khổ, tàn tật, ăn xin … Cần tìm đâu xa để thấy nổi khổ
trần thế, nơi đây cũng đủ cho ta quán chiếu, tư duy về một chử khổ
rồi. Người đi dọc, kẻ đi ngang, chẳng ai nhường ai cả, ai mạnh thì
thắng yếu thì thua.
Bổng nhiên, có một ông lảo mù xuất
hiện, ông giống như hành khất, quờ gậy đi ngang qua trước mặt tôi, xăm
xăm đến đường rầy xe lửa, chẳng ai thèm để ý gì đến ông lảo.
Phút chốc, chợt có một chiếc xe lửa trờ đến từ từ, ông không thấy,
không nghe nên cứ thản nhiên mà bước, tôi cách ông lảo không xa nhưng không
còn tay để kéo ông lại, ga ồn ào, tôi hét to không nổi, có hét, ông lảo
cũng chẳng hiểu, tôi không dám nhìn nữa vì tin chắc ông ta sẽ bị ngã
xuống đường rầy rồi bị xe cán chết, xe lửa vẫn cứ từ từ lăn bánh
tiến đến.
Lạ thay, khi ông còn bước chót,
dân địa phương mới kéo lại, mắng cho một trận, đẩy ông về hướng
khác. Ông lão cười xoà, nụ cười hiền hoà dễ dãi. Ông đang quờ quạng,
tôi cũng vừa nhích tới, ông quơ đúng cánh tay tôi và nắm chặt, đi theo
tôi, tôi cũng chẳng xua ông ra, mà có muốn cũng không được vì đâu còn
tay để gở ông ra. Đường chật chội như nêm cối, ông chẳng cần biết
tôi là ai? Sẽ đi đến nơi đâu, vậy mà ông cứ đi theo.
Tâm trạng buồn vui lẩn lộn đến
với tôi, buồn cho cuộc sống vô định, vô sản của ông lão ăn xin, vui là
vui cho tâm hồn thư thái, không phiền muộn lo âu của ông. Đi đâu, theo ai
cũng được, thì giờ dư thừa, tiền của chẳng có, chẳng ai thèm bắt
cóc hay gạt gẩm làm gì …..
Thế rồi, đến đúng toa, tôi phải
rời ông ra để rảnh rang giúp những bác già yếu bước lên toa tàu. Thân
thể chúng tôi bị mệt mỏi, bầm dập không ít khi leo lên được toa tàu.
Ngồi trong toa, ai nấy đều hú vía, nhưng vui vẻ, sung sướng khi biết mình
đã bình an.
Nhìn lại, ông lão ấy vẫn dùng gậy
lần mò đi những bước cô đơn, chậm rãi trong cuộc sống bấp bênh, cơ
cực của đời sống hiện tại. Theo bóng tối của cuộc đời còn lại,
ông sẽ được gì ?
Tôi buồn rười rượi khi nghỉ về
ông lão nói riêng và tất cả những người già nói chung trên những nước
nghèo, không có nhà dưởng lảo, không có tiền trợ cấp.
Phải chăng "Sinh, Lão, Bịnh,
Tử" vẫn là chân lý bất di, bất dịch của một kiếp nhân sinh
…
Xe đã lăn bánh đều, tựa bánh xe
thời gian đưa mỗi người chúng ta đến tuổi đời chồng chất, đến tuổi
già suy yếu, bịnh tật tàn phá, chẳng một ai trong thế gian này mong muốn,
chờ đợi cả.
Xe đã rời thành phố nên không
khí mát dần ….Tôi chợt nghỉ đến bốn trường hợp của từng người
chúng ta trong cuộc đời là từ nơi sáng và đi vào nơi sáng, từ nơi tối
đi vào nơi sáng, từ nơi sáng đi vào nơi tối, từ nơi tối đi vào nơi tối.
Đến nơi nào là tùy thuộc vào ta chọn lựa ở kiếp này, từ đâu đến
là do nhân quả mà ta tạo từ kiếp trước.
Cầu xin chư Phật gia hộ cho ông lảo
ra được chổ sáng, gặp được Phật Pháp trong kiếp này khi còn được làm
thân người.
Đoàn hành hương đến thành phố
BaLaNại khoảng năm giờ ba mươi sáng. Sớm như thế mà sân ga đã đầy dãy
người qua lại, đủ loại người, từ hành khất cho đến phu khuân vác,
người buôn bán cùng hành khách, kẻ đưa, người đón, kẻ đến, người
đi, tuy không rộn rịp như ở Delhi. Buôn bán và khuân vác đều là đàn
ông, cái gì họ cũng đội lên đầu.
Trước tiên, chúng tôi đi viếng
thăm tháp Mulagandhakuti Vihara là nơi ngày xưa đức Phật đã an ngự. Rồi
sau đó, chúng tôi đã vào chùa lể Phật, tụng kinh, đi nhiễu.
Chùa không lớn nhưng rất trang nghiêm
và thanh thoát nhờ tường cao và những bức hoạ sống động diển tả cuộc
đời đức Phật từ lúc đản sinh cho đến khi nhập niết bàn, những bức
tranh vẽ này do một hoạ sỉ rất nổi tiếng vào những thế kỷ trước
hoạ ra, được truyền lại cho đến nay, nét vẽ sắc xảo, điêu luyện,
hiện thực, màu sắc hài hoà, tao nhã.
Bức ảnh mà tôi ưng ý và thích nhất
là lúc ngài đang thiền định dưới cội bồ đề vào đêm cuối, đang chiến
đấu với ma vương dử dội đến độ đôi môi của ngài trở nên tím ngắt.
Từ chánh điện, vào sâu hơn nữa là nơi thờ đức Phật ở chính giữa,
bên dưới bệ thờ ngài là nơi chôn xá lợi ngài, mỗi năm chỉ cho Phật
tử chiêm bái một lần vào ngày rằm tháng chạp.
Cách chùa không xa, có cây bồ đề,
và tượng đức thế tôn thuyết pháp cho năm anh em ngài A nhã Kiều Trần
Như . Tượng nắn khéo, tô đắp vào năm 1988. Cây bồ đề được mang từ
Tích Lan về trồng năm 1931 và xung quanh cội có một tháp nhỏ (tạm gọi
là tháp, nhưng không cao) với nhiều cửa kính như cửa sổ, bên trong mỗi
một cửa kính, có một vị cổ Phật đang ngồi thiền gồm tất cả là 28
vị như Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật, Câu Lưu Tôn Phật,
Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, Thích Ca Văn Phật , và những vị Phật
khác …..
Đoàn thắp nến, tụng một thời
kinh rồi đi nhiễu quanh tháp, niệm Phật. Nơi này, ngày xưa, cũng đã có dấu
chân đức Từ Phụ thấp thoáng đâu đây, thời gian đã xa, nhưng không
gian lại thật gần. Cảnh củ còn đây, người xưa đâu rồi? Cảm nhận
được từ nơi này một cảm giác an lạc lạ kỳ khi nghỉ về quá khứ cũng
là một điều mầu nhiệm khó tả.
Vườn Lộc Uyển khá đẹp. Thơ mộng,
nhất là con đường đến tháp chuyển pháp luăn. Tất cả dường như thật
trong tôi qua kinh sách lưu truyền lại. Những chú nai nhỏ, có những đốn
trắng trên mình đang mừng rở chạy lại nơi chúng tôi, chờ đợi thực
phẩm … Tất cả chúng sinh trên thế giới này đều bị nô lệ, hạn cuộc
trong vấn đề ăn để mà sống. Bao giờ, chúng sinh thoát ra khỏi sự kiềm
toả của "đoàn thực" mà đạt đến"thiền duyệt vi thực"
thì thế giới này sẽ sung suớng vô ngần. Ở đây, bò ăn rác, bao ni
lông, chó ăn cùi dừa là chuyện có thật.
Rời vườn Lộc Uyển đã xế trưa
nên phái đoàn đến lễ Phật, dùng cơm tại một ngôi chùa Trung Hoa. Chùa
rộng đẹp, cổ kính, sạch sẽ, tươi mát nhờ những cây cổ thụ. Chùa
ít tăng ni nên có các vị tăng trú ngụ để tu học như tăng Thái Lan,
Tích Lan, Miến Điện … Phải ra đại tháp liền nên tôi không dám đi
thăm chùa.
Đại tháp Dhakema được xây dựng
vào khoảng năm 300 trước công nguyên (BC) để làm bằng chứng cho hậu thế
biết rằng cách đây hơn 25 thế kỷ, đã có đấng toàn giác ra đời, nói
pháp "Tứ Diệu Đế" cho năm anh em ông A nhã Kiều Trần Như, At-Bệ,
Thập Lực, Ma Ha Nam và Bạt Đề, các vị đã chứng thánh quả liền sau đó.
Trụ tháp này tương truyền rằng
ngày xưa không có to lớn đến như thế. Bên dưới tháp có ngọc xá lợi
Phật, sợ bị hủy hoại, bị đánh cắp nên tháp được đắp thêm bên
ngoài luôn để bảo vệ. Theo năm tháng, qua các thời đại, tháp trở
thành tròn quay, to lớn như bây giờ.
Ngồi đây vào buổi chiều, dưới
ánh mặt trời gay gắt, nhưng vẫn mát, nhờ có mô tháp này che nên tôi cảm
thấy dễ chịu phần nào, lắng nghe tiếng thầy cô, Phật tử tụng kinh,
đọc theo, tôi chợt nhớ đến "khổ, tập, diệt, đạo". Phải
chăng những lời trong kinh tôi vừa đọc ra là đạo đế để diệt
khổ nếu hiểu biết, thực hành đúng. Vì đã huân tập bao nghiệp
chướng lâu đời từ vô thỉ nên có thân này để thọ khổ …. Bóng
mát từ bảo tháp đem đến cho tôi một cảm giác êm dịu như chính bóng từ
bi của ngài đang che cho chúng sinh bớt khổ não …..
Nghĩ về đức Từ Phụ, tưởng tượng
đến thời gian ngài còn tại thế, đang thuyết pháp đâu đây, ngài đã
có mặt tại nơi này, tôi cũng đang ở chính nơi này trong hiện tại lạc
trú … Đức Phật vẫn còn đang ngự trị ở nơi đây, không bằng xương
thịt của hóa thân mà bằng pháp thân thanh tịnh.
… ôi bao la, mầu nhiệm làm sao khi
tôi ngồi lại nơi đây để cảm nhận mà hưởng những âm hưởng còn đọng
lại nơi này. ….
Trụ đá do vua A Dục dựng lên để
đánh dấu nơi đức Phật chuyển pháp luân lần thứ nhất cách đại tháp
chừng vài trăm mét. Trãi qua bao biến chuyển, bào mòn, chi phối của thời
gian, trụ đá này đã không còn nguyên vẹn như xưa nữa mà bi gảy ngang hơn
phân nửa cũng đủ làm chứng tích cho lịch sử biết đức Phật Thích Ca
Mâu Ni cũng là người như chúng ta và ngài có thật chứ không phái là truyền
thuyết. Tôi vẫn biết trong kinh Kim Cang viết rằng :
"Những ai thấy Phật qua dung
sắc, nghe Phật qua âm thanh, những người ấy đi theo con đường tà vậy,
không thể thấy Phật"
Nhưng những cái mầu nhiệm mà tôi
cảm nhận được khi nhớ nghĩ đến ngài , biết đến ngài chính là pháp
thân Phật với ánh sáng rạng ngời. Điều ấy có thể hiểu bằng hình
ảnh hay có thể hiểu cụ thể đó là sắc thân mầu nhiệm xuất sinh từ
kho tạng trí huệ vô biên và là nguồn lưu chuyển thường hằng của pháp
tính thường trụ, bất biến.
Nghe nói vùng này nổi tiếng về tơ
lụa, có loại lụa tên là Kasi đẹp, nổi tiếng nên trước khi đi ăn tối,
một số bạn trẻ chúng tôi cũng đi xem. Tôi không thấy được lụa ấy
như thế nào mà chỉ được thấy cách bán hàng của dân Aᮠthật ngộ nghỉnh,
nói thách trên trời, trì kéo dai dẳng nhưng lại chân thật, hiền lành hết
cỡ, họ không có dữ tợn chửi bới khách hàng trả giá quá thấp mà chỉ
lầm bầm nho nhỏ khi không bằng lòng vì không được giá. Đường phố đông
đúc, chật chội, xe đông nghẹt như mắc cửi, vậy mà tài xế lái xe thần
kỳ, tai nạn không hề xảy ra như tôi lo sợ. Hàng vải, tơ lụa Aᮠmàu sắc
sặc sở và hoa hoè nhiều quá nên tôi phải về tay không.
Phái đoàn ra sông Hằng từ sáng
tinh mơ nên mọi vật còn ngủ, sinh hoạt chậm chạp. Người và bò ngủ
say sưa cạnh nhau dưới những vỉa hè phố. Khí hậu khá lạnh vào ban đêm
nên người và vật đều dựa vào hơi ấm của nhau để sinh tồn. Ở đây,
người rất gần gũi với thú vật, lại không sát sinh nên thú vật hoang
đi lổn ngổn ngoài đường, nào là bò (thôi thì miễn bàn), chó, dê, trừu,
loài nào cũng ốm giơ xương, người còn thế nữa là thú ……Hai bên lề
đường dẩn xuống bờ sông, đã có những người ngồi bán hàng, có bốn,
năm loại bán hàng … Sang thì cửa tiệm, xập xệ hơn một chút là sạp,
ban đêm làm giường ngủ, kém thì hạ thổ mà bán, có tấm ni lông trải
lên cho sạch sẽ, lịch sự, không thì chỉ có chòm chỏm một cái thúng,
cái rổ …. Chẳng có chỗ nưã thì bán rong, bán chạy …
Thượng vàng, hạ cám. Có một thứ
họ bán, tôi không hiểu để làm gì, họ bán những nhánh cây đã được
cưa, chặt ngắn lại. Ban đầu, tôi tưởng để chụm củi, sau đó mới biết
là người Ai dùng những cây này để chùi răng. Cuộc sống vẫn còn
nguyên thủy, tựa như ngày xưa, các vị đệ tử Phật tu hạnh đầu đà,
luôn mang con dao bên mình để cắt cây này chà răng. Tôi cũng nhớ lại khi
còn ở quê nhà, tôi hay xin bà tôi vỏ trái cau tươi khi bà bổ trái cau mới,
để chà răng cho trắng sạch …. liền ngay trước mặt tôi, dân địa
phương đang ngồi chồm hổm chà răng bằng những cây này, sau đó thì súc
miệng phun cả ra đường lộ. Hoa ở đây bán cũng ngộ, họ lặt bỏ đi hết
tất cả cành và lá, còn lại trùi trũi, trơ trọi một đoá hoa trông thật
tội nghiệp …
Phái đoàn bước xuống thuyền khi
tờ mờ sáng, thuyền chứa đủ tất cả chúng tôi nên ai cũng hoan hỉ được
ngồi chung với hoà thượng và các vị tăng ni. Dòng sông Hằng linh thiêng
lặng lẽ trôi êm ã, hai bên bờ, một bên có phố thị phồn thịnh, tấp
nập đông người, một bên là bãi cát trắng xoá vắng vẻ với vài ba
chú khuyển lần mò kiếm ăn. Cảnh vật, đời sống khác biệt nhau chỉ
cách một dòng sông.
Những toà nhà cao, dọc theo bờ
sông theo kiến trúc Ấn Độ được nằm san sát bên nhau, buồn bã, cũ kỹ,
tường vôi loang lổ, vẽ chằng chịt những hình ảnh không hồn, vô nghĩa.
Nhiều vị tu sĩ đã ngồi thiền tại đây, mặt hướng về ánh dương
đang mỉm cười. Hay đứng dưới nước lầm thầm tụng chú, quang cảnh bắt
đầu sống dậy cho một ngày mới. Gần cuối dòng là nơi hoả táng người
quá cố, có nhiều lò thiêu, tất cả đều quay mặt ra bờ sông, củi được
di chuyển đến lò bằng thuyền.
Thuyền chúng tôi đi ngang qua một lò
thiêu có thây ma đang được thiêu trông thật thê lương.
Xác thân tứ đại này, trả về
cho lửa rồi thành ra đất, theo gió nước tan đi.
Chúng tôi không được chụp ảnh,
quay phim vì đó là phong tục. Hãy để cho người quá cố yên nghỉ, không
nên lưu lại gì thêm nữa trên đời này. Mấy chú khuyển cứ quanh quẩn nơi
đây chờ đợi những mẩu xương còn xót lại sau khi đốt, có chú đã ngoạm
một mẩu rồi tha đi ….
Mặt trời bắt đầu ló dạng, lên
cao đỏ ối sau khi Hoà Thượng và Phật tử tụng kinh. Được biết hôm
nay, chúng tôi rất may mắn vì thấy rõ mặt trời. Vào tháng này, mặt trời
ít khi ló dạng. Ma(.t tro+`i rực rỡ quét một ánh bình minh trên dòng sông
xanh trôi hờ hửng, nhấp nhô từng đợt sóng bạc đầu.
Ngồi nhìn thuyền trôi êm và lướt
sóng, tôi lại nhớ đến đức Thế Tôn đã bỏ ba xu ra để đi đò thay
vì thi thố tài năng với một vị Bà La Môn đi trên mặt nước. Đức Phật
luôn khiêm nhường, khiêm tốn, ngài cũng hành xử y như chúng sinh, như thế
mới đúng với công hạnh độ sanh.
Dĩ nhiên là ngài có thần thông diệu
dụng hơn cả vị Bà La Môn kia để đi trên nước, nhưng ngài không làm. Hạnh
ngài, cần học, phải hành.
Đời này, chúng sinh hay bỏ gốc,
chạy theo ngọn. Thích có thần thông mau chóng, thích những chuyện lạ,
hoang đường. Không bỏ công tu tập nhiều nhưng lại muốn có kết quả liền
nên hay đi theo nẻo tắc, ngỏ tà hơn là đường chánh.
Nơi đây thích hợp cho vấn đề tu
tập, quán chiếu về khổ, vô thường của cuộc đời để tìm đến những
thứ thường, lạc hơn.
Dòng sông này là dòng sông Linh
thiêng, có đủ công hạnh của nước.
Sông chẳng vui mừng, tự đắc khi
được dân địa phương xem như thánh, xuống tắm gội để sạch tội.
Sông không sân hận, thù hận khi bị
những người du khách, hành hương ghê tởm.
Sông ôm vào lòng hết rác rưởi, xác
chết người, thú, tro, xương rãi xuống. Chỉ hoan hỉ đón nhận mọi cấu
uế trần gian.
Vẫn hoàn thành nhiệm vụ cung cấp
nước cho chúng sinh nuôi sống thân mạng hằng ngày.
Bản chất của nước vẫn là tịnh,
nước vẫn lưu nhuận trong thân ta. Trên thế gian này, ta không thể sống
thiếu nước được, nhưng ta không thể hoà nhập với nước để học hạnh
này.
Dưới sông, dân địa phương đã
xuống đấy tắm gội lủ khủ, họ tin rằng, ai tắm trong dòng nước này
sẽ được rửa sạch tội lổi, sẽ được tái sinh lên cỏi trời. A^'y vậy
mà sao dân Ấn Độ vẫn khổ đau, nghèo khó và đông đúc quá chừng
hà. Cỏi trời, dù có lên đi nữa, hết phước báo rồi cũng rơi xuống đều
đều. Tà kiến hay không thì tùy theo quan điểm và cái nhìn của mỗi người
…..
Đang suy nghỉ miên man thì thuyền sửa
soạn cặp bến, ai nấy đổ dồn về cuối ghe và chợt xôn xao vì nhìn thấy
xác một em bé gái đang trôi lềnh bềnh trên sông, xình thối, tan rữa.
Tôi không dám nhìn vì yếu bóng vía và hay thương tâm. Lại thêm một xác
thân tứ đại trả về cho nước ….Cầu xin chư Phật gia hộ cho em được
vào nơi sáng.
Theo Ấn Độ, khi chết, nam cho
nằm sấp, nữ cho nằm ngữa nên chúng tôi mới biết là bé gái. Kề bên,
dân chúng vẫn tỉnh bơ đánh răng, xúc miệng, tắm rửa, gội đầu, lấy
nước. Mọi sinh hoạt thường tình mỗi sáng không hề gián đoạn. …
Tôi lảo đảo bước lên bờ. Nghĩ
đến ông già mù đang sống lang thang, cơ cực của kiếp sống đoạ đầy
và em bé gái nằm chết, trôi trên dòng sông . Sống hay chết, rồi cũng bơ
vơ một mình.
Sao đời lại bất công đến thế
chứ ? Già thì sống lay lất, trẻ lại chết sớm …
Mặt trời đã lên cao, những người
hành khất đã ngồi đầy ở hai bên lề đường, phần lớn bị phong. Khi
thấy chúng tôi ra xe, họ đi theo kêu réo, than vãn ầm ỉ. Chúng tôi phải
cầm lòng làm ngơ vì không muốn bị níu kéo, bu quanh làm trì trệ giờ giấc
khởi hành của tài xế.
Những chú bò đã thức dậy đang
điểm tâm bằng những thứ có thể dùng được trong những đống rác bên
đường. Cảnh vật đã sống dậy chào đón mộy ngày mới, chợ búa đã họp
đông đủ, người đi buôn, bán tấp nập, đường phố nhộn nhịp xe cộ
tới lui.
Mới có ba, bốn ngày, tôi đã thấy
ba thứ "lảo, bịnh, tử" rồi đó, chúng nhan nhản đầy rẩy
khắp nơi đây. Con nít, hành khất bu đầy xe nên khó khăn lắm, chúng tôi
mới leo lên được.
Xe bắt đầu chuyển bánh chầm chậm
để tránh gây ra tai nạn, sau đó chạy phom phom trên đường đi đến Bồ
Đề Đạo Tràng.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phattich/011-thienanhlac-kyniem.htm
Phần II | Phần III