- Pháp Yếu Tu Tập - Tọa
Thiền Chỉ Quán
- Nguyên tác: Trí-Khải Đại-Sư
Dịch giả: Thích-Thanh-Từ
- Chương II - Phần 1
- Phần Chánh Tôn
I. Cụ Duyên
Phàm người phát tâm thực-hành, muốn
tu chỉ-quán cần phải đủ năm duyên:
- 1- Giữ giới thanh tịnh.
- 2- Ăn mặc đầy đủ.
- 3- Yên ở chỗ vắng.
- 4- Dứt các sự ràng-buộc.
- 5- Gần-gũi thiện-tri-thức.
- 1. Giữ giới thanh-tịnh
Như trong kinh dạy: "Nương nơi
giới-luật được sanh các thứ thiền-định và trí-huệ diệt khổ. Thế
nên, Tỳ-kheo phải giữ giới thanh-tịnh". Nhưng người giữ giới chia
ba hạng:
a) Người khi chưa làm đệ-tử Phật,
không tạo tội ngũ-nghịch, sau gặp thầy lành dạy thọ Tam-quy, ngũ-giới
làm đệ-tử Phật, hoặc được xuất gia thọ mười giới làm Sa-di, kế
thọ Cụ-túc giới làm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni. Từ khi thọ giới về sau
gìn-giữ thanh-tịnh không có hủy-phạm, ấy gọi là người trì giới bậc
thượng. Người ấy tu hành Chỉ-Quán ắt chứng được Phật-pháp, ví như
cái áo trắng dễ nhuộm màu.
b) Nếu người thọ giới rồi, tuy
không phạm giới trọng, phần nhiều phạm các giới khinh, vì tu thiền-định
nên theo đúng pháp sám-hối. Người ấy cũng gọi là trì-giới thanh-tịnh,
phát sanh trí-tuệ. Ví như cái áo đã dơ, nay đem giặc sạch, nhuộm cũng có
thể được.
c) Hoặc người thọ giới rồi, không
kiên tâm gìn giữ, các giới khinh, giới trọng, phần nhiều đều phạm. Nếu
y theo giáo-lý Tiểu-thừa thì phạm tứ trọng không thể sám-hối. Nếu y
theo giáo-lý Đại-thừa thì có thể trừ diệt được. Cho nên kinh chép:
"Trong Phật-pháp có hai hạng người mạnh mẽ: 1- Người không làm ác.
2- Người làm rồi, biết sám-hối".
Người muốn sám-hối phải đủ 10
pháp trợ lực mới thành-tựu:
- 1- Tin chắc nhân-quả.
- 2- Sanh tâm kinh sợ.
- 3- Khởi lòng hổ thẹn.
- 4- Cầu phương pháp diệt tội. - Như trong kinh Đại-thừa
dạy các phương-pháp thực-hành phải đúng như vậy mà tu-tập.
- 5- Phát lồ các tội trước.
- 6- Đoạn tâm tương-tục.
- 7- Khởi tâm hộ-trì Phật-pháp.
- 8- Phát đại thệ-nguyện, độ thoát chúng sanh.
- 9- Thường tưởng nhớ mười phương chư Phật.
- 10- Quán tội tánh vốn không sanh.
Nếu đã đủ 10 duyên, hành-giả
trang-nghiêm đạo tràng, tẩy rửa sạch-sẽ, đắp y thanh-tịnh, đốt
hương và tán-hoa, ở trước Tam-bảo như pháp Sám-hối. Hoặc 7 ngày, 21
ngày, một tháng, ba tháng, cho đến nhiều năm, hành-giả chuyên tâm Sám-hối
tội trọng đã phạm, khi nào diệt được mới thôi.
Thế nào là tướng tối trọng diệt?
- Nếu hành-giả khi chí tâm sám-hối như thế, tự biết thân-tâm nhẹ-nhàng,
thấy mộng tốt, hoặc thấy điềm linh, tướng lạ hoặc biết thiện tâm
khai-phát, hoặc tại chỗ ngồi biết thân như mây, như bóng, nhơn đó lần
lần chứng được các cảnh giới thiền. Hoặc tâm hiểu ngộ, rỗng suốt,
hay biết pháp tướng, tùy nghe kinh liền thấu-đạt nghĩa lý, nhơn đó được
pháp hỷ, tâm không lo rầu hối-hận. Những tướng trạng ấy tức là tướng
tội phá giới được tiêu-diệt. Từ đây về sau kiên trì giới cấm, cũng
gọi là trì giới thanh-tịnh có thể tu thiền-định được. Ví như cái
áo rách và dơ, nếu vá lành lại, đem giặt sạch sẽ cũng có thể nhuộm
được.
Nếu người phạm trọng giới rồi,
e chướng ngại thiền-định, tuy không y các kinh tu các hạnh pháp, chỉ
sanh tâm rất hổ thẹn, đối trước Tam-bảo phát lồ tội trước, đoan tâm
tương tục, thân thường ngồi ngay thẳng, quán tội tánh vốn không, niệm
mười phương chư Phật; hoặc khi xuất thiền, chí tâm thắp hương lễ bái,
sám-hối, tụng giới và tụng các kinh Đại-thừa, trọng tội chướng đạo
lần lần tiêu diệt, nhơn đây giới được thanh-tịnh, thiền-định khai
phát. Cho nên kinh Diệu-Thắng-Định chép: "Nếu người đã phạm tội
trọng, sanh tâm kinh sợ, muốn tìm cách trừ diệt, nếu ngoài thiền-định
không có pháp nào diệt được. Người ấy nên ở chỗ vắng vẽ thường
ngồi nhiếp tâm và tụng kinh Đại-thừa, tất cả tội trọng thảy đều
tiêu diệt, các thiền tam-muội tự nhiên hiện tiền".
2. Ăn mặc đầy đủ
A) Sự mặc có 3 thứ:
a) Như vị Đại-sĩ núi Tuyết - Đức-Thích-Ca
- chỉ cần một chiếc y rách che thân là đủ, vì không dạo trong xóm
làng, sức kham nhẫn được thành-tựu.
b) Như ngài Đại Ca-Diếp thường
tu hạnh Đầu đà, chỉ chứa ba cái y phấn-tảo, không chứa các y khác.
c) Nếu ở xứ lạnh nhiều và nhẫn
lực chưa thành, ngoài ba y, Như-Lai cũng cho chứa các vật khác; nhưng cần
phải thuyết-tịnh, biết lượng sức mình và biết đủ, nếu tham-cầu cốt
chứa nhiều thì loạn tâm, chướng ngại đạo.
B) Sự ăn có bốn thứ:
a) Nếu là bậc Thượng-nhơn Đại-sĩ
vào nơi thâm sơn, xa hẳn thế tục, chỉ tùy thời dùng rau quả nuôi thân.
b) Thường hành Đầu-đà thọ pháp
khất thực, phá 4 thứ tà mạng, sống theo chánh mạng hay sanh thánh đạo.
Bốn thứ tà mạng là:
1- Trồng trọt nuôi sống.
2- Xem thiên văn.
3- Tìm cách mưu sinh.
4- Dong ruổi bốn phương mong cầu sự
sống hoặc coi bói, thuốc thang...
Tướng tà mạng như ngài Xá-Lợi-Phất
vì Thanh-Mục-Nữ nói.
c) Ở chổ vắng-vẻ nhờ đàn-việt
đem đến cúng.
d) Ở trong chúng tăng ăn uống đúng
pháp.
Bởi có những duyên nầy, nên gọi
ăn mặc đầy đủ. Vì cớ sao? - Vì không có những duyên nầy thì tâm
không an-ổn, chướng-ngại trên đường đạo.
3. Yên ở chỗ vắng-vẻ
Không làm các việc gọi là yên. Chỗ
không ồn náo gọi là vắng-vẻ. Có ba chỗ có thể tu thiền-định:
a) Chỗ núi sâu không có người đến.
b) Chỗ vắng-vẻ hành Đầu-đà,
cách xa làng xóm ít nữa cũng ba, bốn dặm, bặt tiếng mục đồng không
còn các tiếng ồn.
c) Ở trong ngôi già-lam thanh-tịnh,
cách xa kẻ thế tục.
Ở những nơi ấy đều gọi là
"yên ở chỗ vắng-vẻ".
4. Dứt các sự ràng buộc
Có bốn thứ:
a) Dứt việc làm nuôi sống. Tức
là không tạo sự nghiệp thế gian.
b) Dứt việc kết giao với nhân
gian. Không kết bạn thân với người thế tục.
c) Dứt các kỹ thuật khéo léo.
Không làm thợ khéo, thầy thuốc, thầy bùa, thầy bói, thầy tướng, thấy
số...
d) Dứt sự học vấn. Những việc
đọc sách, học hỏi đều bỏ.
Tại sao bỏ các việc nầy? - Vì
còn nhiều việc ràng buộc thì việc hành đạo phải bê trễ, tâm loạn động
khó nhiếp phục.
5. Gần gũi thiện-tri-thức
Thiện-tri-thức có:
a) Ngoại hộ thiện-tri-thức. Là người
hay kinh doanh, cúng-dường, ủng-hộ người tu, để cho người tu khỏi lo
phiền rối loạn.
b) Đồng hạnh thiện-tri-thức. Người
đồng đạo tu hành, nhắc nhở cảnh-giác lẫn nhau, không nhiễu-loạn nhau.
c) Giáo-thọ thiện-tri-thức. Bậc
thầy chỉ đạo, lấy những pháp-môn thiền-định, phương-tiện điều phục
nội, ngoại, chỉ dạy cho được lợi hỷ.
II. Trách Dục
Nói trách dục là trách ngũ-dục.
Phàm muốn tọa thiền tu-tập chỉ quán quyết phải quở trách ngũ dục.
Ngũ dục: sắc, thinh, hương, vị, xúc ở thế-gian. Nó hay làm mê hoặc tất
cả phàm phu khiến phải say đắm. Nếu người biết tội lỗi của nó liền
xa lìa, ấy gọi là trách dục.
1. Trách sắc dục
Những hình dáng kiều-diễm của
nam, nữ như mắt trong, mày dài, môi son, răng trắng... Và bao nhiêu màu sắc
mỹ lệ xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, lam, lục của các vật báu ở
thế-gian. Nó hay khiến kẻ phàm phu trông thấy sanh lòng yêu-mến, tạo các
ác-nghiệp. Như vua Tần-Bà-Ta-La vì sắc dục đem thân vào nước địch,
cam ở trong phòng nàng A-Phạm-Ba-La. Lại Ưu-Điền cũng vì sắc dục chặc
tay, chân 500 vị tiên. Sắc dục còn gây biết bao tội-lỗi như vậy.
2. Trách thinh dục
Là tiếng đờn tranh, đờn cầm,
ống tiêu, ống sáo, tiếng ty, tiếng trúc, kim, thạch tấu thành âm-nhạc
và giọng ca ngâm, tán tụng của nam nữ. Nó hay cám dổ kẻ phàm phu vừa
nghe liền sanh tâm đắm nhiễm, tạo các ác nghiệp. Như 500 vị tiên ở
núi Tuyết nghe giọng ca của nàng Chân-Đà-La liền mất thiền-định, tâm
say mê cuồng loạn. Mê âm thinh tạo nên tội lỗi còn biết bao việc như
thế.
3. Trách hương dục
Mùi hương của nam, nữ, của các
thức ăn uống và các thứ hương xông, ướp, kẻ ngu không biết xét tướng
trạng của nó, vừa ngửi liền sanh mê-đắm, mở cửa cho kiết-sử. Như vị
Tỳ-kheo ở bên hồ sen, ngửi mùi hương của hoa sanh tâm ưa thích, bị vị
thần giữ ao quở trách: "Tại sao dám trộm mùi hương của ta?" Vì
thích mùi hương khiến các kiết-sử đang nằm liền đứng dậy. Còn biết
bao nhân duyên do hương dục gây tai hại như thế.
4. Trách vị dục
Là những mùi vị đắng, cay, chua,
ngọt, mặn, lạt...,. Những thứ cao-lương mỹ-vị hay khiến phàn phu sanh
tâm nhiễm trước, tạo các nghiệp ác. Như ông Sa-di vì thích vị tô-lạc
nên sau khi chết làm con giòi ở trong tô-lạc. Vị dục còn lắm việc hại
tương tợ như thế.
5. Trách xúc dục
Da thịt mềm mại mịn màng của
nam, nữ; khi lạnh chạm ấm, khi nóng xúc mát và các cái xúc chạm hợp với
nhu cầu, kẻ ngu không trí vì đó chìm đắm, khiến ngăn ngại đạo nghiệp.
Như vị tiên một sừng vì xúc dục mà mất thần thông, bị dâm nữ cỡi
cổ. Xúc dục có lắm việc tai hại như thế.
Phương pháp trách dục như trên đều
rút trong luận Ma-Ha-Diễn.
Lại than rằng: "Than ôi! Chúng
sanh thường bị ngũ-dục não loạn, mà mãi tìm cầu không thôi. Ngũ dục nầy,
nếu cầu được càng hăng; như lửa thêm củi, ngọn lửa càng mạnh. Ngũ-dục
không vui như chó gặm xương khô. Ngũ-dục gây tranh đấu, như bầy quạ dành
thịt thúi. Ngũ-dục thiêu người, như cầm đuốc đưa ngược gió. Ngũ-dục
hại người, như đạp rắn độc. Ngũ-dục không thật, như mộng được của
báu. Ngũ-dục tạm bợ không lâu bền, như chọi đá lửa. Trí-giả suy xét
coi nó như giặc thù; thế-nhân lầm mê tham đắm ngũ-dục đến chết không
bỏ, đời sau phải chịu vô-lượng khổ nảo".
Đến các loại súc sanh vẫn có 5 dục
nầy, nên tất cả chúng-sanh thường bị ngũ-dục sai sử, đều làm tôi mọi
cho ngũ-dục; lao mình trong tệ dục, chìm đắm trong tam đồ. Ta nay tu thiền-định
lại bị chúng ngăn che, chúng là giặc dữ phải chóng gấp xa lìa. Như bài
kệ kinh Thiền chép:
- Chết sống không đoạn dứt
- Vì ưa dục thích vị
- Nuôi thù vào gò nổng
- Luống chịu các đắng cay
- Thân thúi như tử thi
- Chín lỗ chảy bất tịnh
- Như trùng phân ưa phân
- Kẻ ngu thân không khác
- Người trí nên xét thân
- Không tham nhiễm thế lạc
- Không mắc, không ham muốn
- Ấy gọi chân Niết-bàn
- Như chư Phật đã nói:
- Nhứt tâm, nhất ý hành
- Sổ tức tu thiền-định
- Ấy gọi hành Đầu-đà.
III. Xả Cái
Xả cái tức là bỏ ngũ-cái: tham-dục,
giận-hờn, mê-ngủ, diêu-động và hối-hận, nghi-ngờ.
1. Xả tham-dục
Trước đã nói đối ngũ-trần bên
ngoài sanh tham muốn, nay nói chính trong ý-căn sanh tham muốn. Nghĩa là khi
hành-giả ngồi ngay thẳng tu thiền, tâm khởi tâm tham muốn niệm niệm tiếp
nối, che đậy thiện tâm không được tăng trưởng, biết rồi liền bỏ.
Tại vì sao? - Vì như nàng Thuật-Bà-Gia trong tâm khởi tham-dục, còn bị đốt
cháy cả thân thể thay! Huống chi trong tâm sanh lửa tham-dục mà không
thiêu hết các pháp lành? Người tham-dục cách đạo rất xa. Tại sao? - Vì
dục là chỗ trú của bao nhiêu sự não loạn. Nếu trong tâm ôm-ấp tham-dục
thì không do đâu được gần đạo. Như bài kệ "trừ cái" nói:
- Người hổ-thẹn vào đạo
- Ôm bát phước chúng-sanh
- Tại sao theo trần dục
- Chìm lặn trong ngũ tình?
- Đã xả ngũ dục-lạc
- Bỏ nó không luyến tiếc
- Vì sao lại muốn được?
- Như người ăn đồ mửa
- Các dục khi cầu khổ
- Khi được nhiều sợ-hãi
- Khi mất lại lo rầu
- Tất cả thời không vui
- Họa các dục như thế
- Do đâu xả được nó?
- Được vui sâu thiền-định
- Liền không bị nó lừa.
2. Xả giận hờn
Giận là cội gốc làm mất Phật-pháp,
là nhân-duyên sa vào ác-đạo, là oan-gia của pháp an-lạc, là bọn giặc dữ
của thiện tâm, là tạng phủ của bao nhiêu ác-khẩu. Thế nên hành giả
khi tọa thiền suy-nghĩ người nầy hiện tại phá hại ta, phá hại gia-quyến
ta, khen-ngợi người thù của ta; suy-nghĩ quá-khứ, vị lai cũng thế, ấy là
chín thứ phiền-não. Do đó sanh sân-hận, khởi sân-hận nên sanh oán thù,
do tâm oán-thù, bèn khởi tâm tàn hại kẻ ấy. Sân-hận che đậy tâm như
thế, nên gọi là "Cái". Phải gấp bỏ nó, không cho nó tăng-trưởng.
Như ngài Thích-Đề-Bà-Na dùng bài kệ hỏi Phật:
- Vật gì giết an-lạc?
- Vật gì giết vô ưu?
- Vật gì gốc của độc?
- Nuốt tiêu tất cả thiện?
Phật đáp:
- Giết sân thì an-lạc
- Giết sân thì vô-ưu
- Sân là gốc của độc
- Sân diệt tất cả thiện
Đã biết sân nguy-hiểm như thế,
phải chóng tu từ-bi, nhẫn-nhục để diệt-trừ nó cho tâm được thanh-tịnh.
3. Xả mê ngủ
Ngủ hay phá-hoại cái vui chân thật
nơi tâm đời nầy và đời sau, cùng cái vui cõi Trời và Niết-bàn. Nó rất
ác, không có chút thiện. Tại sao? - Vì những phẩn "CÁI" khác dễ
biết nên trừ được, còn khi ngủ như chết, không thể hiểu biết, vì
không biết nên khó trừ. Như bài kệ chư Phật, Bồ-tát quở các đệ-tử
mê ngủ:
- Ông dậy! chớ ôm thây thúi nằm,
- Những thứ nhớp nhúa tạm gọi người,
- Như bệnh nặng, têm cắm vào thân,
- Dẫy đầy đau khổ đâu yên ngủ.
- Như người bị trói sắp đem giết,
- Tai hại kề bên đâu thể ngủ!
- Giặc kiết chưa diệt, hại chưa trừ,
- Như cùng rắn độc chung nhà ở,
- Như vào trận, giữa hai đao bén,
- Khi ấy làm sao yên ngủ được?
- Ngủ là đen tối không thể thấy,
- Ngày ngày cướp mất ánh sáng ta,
- Do ngủ khiến tâm không thấy được,
- Hại to như thế đâu yên ngủ?
Còn lắm việc như thế để quở
trách mê ngủ. Lấy vô thường cảnh-giác sự ngủ nghỉ khiến giảm bớt,
không che mờ tâm tánh. Nếu tâm mê ngủ quá nặng phải dùng thiền-trượng
đuổi nó.
4. Xả diêu-động và hối-hận
Diêu-động có ba thứ:
a) Thân diêu-động. Thân ưa chạy
rong đùa giỡn lăng-xăng, ít khi ngồi yên.
b) Miệng diêu-động. Ưa ca hát,
tranh cãi phải quấy, nói những việc vô ích, nói những việc thế-gian.
c) Tâm diêu-động. Tâm tình
phóng-túng, ý-nghĩ lăng-xăng, suy-nghĩ văn-chương, kỹ-nghệ, thế-gian, các
điều xét nghĩ xấu ác...
Diêu-động hay phá tâm của người
xuất-gia. Người cố nhiếp-tâm vẫn không được định, huống chi kẻ tán-loạn.
Người tâm tán-loạn như con voi say mà không câu móc, con lạc-đà không
dây mũi không thể kềm giữ được. Có bài kệ:
- Ông đã cạo tóc mặc áo nhuộm,
- Ôm bình bát vào xóm xin ăn.
- Vì sao lại ưa thích diêu động?
- Buông-lung ý, mất cả lợi lành.
Đã mất pháp lợi, lại mất cả
cái vui ở đời, biết lỗi ấy rồi phải gấp đuổi nó.
Nếu diêu-động không, chưa thành
che đậy, phải có hối-hận mới thành. Vì sao? - Vì khi diêu-động là còn
ở ngoài. Trong khi nhập định mới hối-hận việc làm trước, lo rầu che
đậy cả tâm tính. Hối hận có hai thứ:
1- Nhơn diêu-động, sau mới sanh hối-hận.
2- Người đã gây tội trọng thường
ôm lòng sợ hãi, mũi tên hối-hận cắm sâu vào tim khó nhổ ra.
Có bài kệ:
- Không nên làm mà làm
- Nên làm mà không làm,
- Lửa hối hận thiêu cháy,
- Đời sau đọa ác đạo.
- Nếu phạm tội nên hối,
- Hối rồi chớ lo phiền.
- Như thế tâm an vui,
- Không nên thường nhớ mãi.
- Nếu có hai thứ hối:
- Hoặc nên làm không làm,
- Không nên làm lại làm.
- Ấy là tướng kẻ ngu,
- Vì không làm lại làm,
- Những việc ác đã làm,
- Không thể bảo không làm.
5. Xả nghi ngờ
Do nghi che đậy tâm, đối trong chánh
pháp không khởi lòng tin. Vì không tín tâm, nên ở trong Phật-pháp không
được chi cả. Ví như người vào núi vàng, mà không có tay nên không thể
lấy được. Nhưng nghi rất nhiều tai hại, không riêng gì chướng định.
Nay nói về chướng định. Nghi có ba thứ:
a) Nghi mình.- Nghĩ rằng ta là kẻ
ngu tối, tội chướng nặng nề, không phải như những bậc kia ! Tự khởi
nghi như thế pháp thiền định không thể phát sanh. Nếu muốn tu thiền-định,
chớ có khinh mình, vì căn lành nhiều đời trước đâu thể lường được.
b) Nghi thầy.- Nghi thầy ấy tướng
mạo, oai nghi như thế, chính còn chưa có đạo đức thì làm sao dạy ta
được? Khởi nghi mạn như thế, tức là chướng ngại định. Muốn trừ
được bịnh nầy, như trong các luận Ma-Ha-Diễn dạy: "Ví như trong đãy
da thúi mà có đựng vàng, vì ham vàng ta không thể bỏ cái đãy thúi. Người
tu cũng như thế, thầy tuy chưa hoàn toàn thanh-tịnh, vẫn tưởng như Phật".
c) Nghi pháp.- Người đời phần nhiều
hay chấp điều mình nghĩ trước là phải, nên sau khi thọ giáo-pháp không
thể liền sanh tâm tin kính phụng-hành.
Nếu tâm dụ dự thì pháp không thể
nhiễm tâm. Vì sao?- Vì nghi làm chướng-ngại, như trong bài kệ nói:
- Như người trước ngã ba,
- Nghi ngờ không biết lối,
- Trong các pháp thật tướng,
- Nghi cũng lại như vậy,
- Vì nghi không cần cầu,
- Thật tướng của các pháp,
- Thấy nghi từ si sanh,
- Là ác trong các ác,
- Trong Pháp lành và ác,
- Sanh tử và Niết-bàn,
- Quyết-định thật có pháp,
- Ở trong chớ sanh nghi,
- Ông nếu ôm lòng nghi,
- Chết bị chúa ngục trói,
- Như sư-tử chụp nai,
- Không thể nào thoát khỏi,
- Ở đời tuy có nghi,
- Phải tùy-hỷ pháp lành,
- Ví như thấy ngả ba
- Đường tốt, lợi nên đi.
Lòng tin hay vào được Phật-pháp.
Nếu người không tin, tuy ở trong Phật-pháp, mà hoàn-toàn không được gì
cả. Những việc như thế, đủ biết nghi là tai hại, hãy gấp bỏ nó.
Có người hỏi: "Những việc
ác nhiều như bụi không thể tính hết, tại sao ở đây chỉ dạy bỏ 5
điều mà thôi?" Đáp: Trong 5 điều nầy gồm cả tam độc và đẳng-phần,
4 thứ nầy làm căn-bản, nhiếp cả tám muôn bốn ngàn trần-lao. Đó là:
- 1- Tham muốn thuộc tham độc.
- 2- Giận hờn thuộc sân độc.
- 3- Mê ngủ và nghi thuộc si độc
- 4- Diêu-động và hối hận thuộc đẳng phần.
Chúng hiếp thành 4 phần phiền-não.
Trong mỗi phần có 2 muôn một ngàn. Họp 4 phần là 8 muôn 4 ngàn. Thế
nên, trừ ngũ-cái là trừ tất cả pháp ác. Người tu nên lấy những việc
như thế trừ bỏ ngũ-cái. Ngũ-cái bỏ rồi, ví như người mang nặng được
gỡ bỏ, như bệnh được lành, như người đói được đến nước giàu
có, như giặc bị bao vây được cứu thoát, yên ổn không lo sợ. Người
tu cũng vậy, trừ được ngũ-cái rồi, tâm yên ổn, mát mẻ an vui, như mặt
trời, mặt trăng bị 5 việc che tối: khói, bụi, mây, mù, nhật nguyệt thực,
nên không thể chiếu sáng. Tâm người bị ngũ-cái cũng như thế.
IV. Điều Hòa
Hành-giả mới học tọa thiền, muốn
tu theo giáo pháp của mười phương chư Phật, trước phải phát đại thệ
nguyện, độ thoát tất cả chúng-sanh, nguyện cầu Phật đạo vô-thượng,
tâm kiên cố như kim-cang, tinh tấn dũng mãnh không tiếc thân mạng. Nếu
thanhh-tựu tất cả Phật-Pháp, hoàn-toàn không thối chuyển rồi, nhiên hậu
trong khi tọa thiền chánh niệm suy nghĩ tướng chơn thật của các pháp.
Nghĩ rằng: pháp thiện, ác, vô ký, trong, ngoài, căn, trần, thức, tất cả
pháp phiền não hữu lậu, pháp hữu vi, nhân quả, sanh-tử trong tam giới đều
nhơn tâm mà có. Cho nên kinh Thập Địa chép: "Tam giới không riêng có,
chỉ do nhất tâm tạo tác. Nếu biết tâm không tánh thì các pháp không thật,
tâm không nhiễm trước thì tất cả hạnh nghiệp sanh tử đều dứt".
Quán như thế rồi, kế nên theo thứ lớp khởi hạnh tu tập.
Thế nào là điều hòa?- Dùng thí dụ
để so sánh cho dễ hiểu. Ví như người thợ gốm khéo trộn nước, đất
nhồi thành mềm dẻo, sau mới để lên khuôn mà nặn. Như cây đờn cầm,
trước phải điều hòa giây, không dùn, không thẳng, sau mới khảy ra những
bản nhạc âm thanh vi diệu. Hành giả tu tâm cũng như vậy, khéo điều năm
việc khiến được hòa thích thì chánh định dễ sanh. Nếu có việc không
điều thì sanh nhiều chướng nạn, căn lành khó phát sanh. Điều năm việc:
1. Điều hoà sự ăn uống
Sự ăn uống cốt để nuôi thân tiến
tu đạo-nghiệp. Nếu ăn no quá thì bao tử đầy, hơi thở gấp, trăm mạch
không thông, tâm bị bế tắc, ngồi niệm không yên. Nếu ăn quá ít thì
thân gầy, bao tử lỏng-lẻo, ý lao lư xao độngm không vững. Hai việc nầy
đều không được định. Nếu ăn những vật trược uế khiến tâm thức
phải hôn mê. Nếu ăn những vật không thích nghi hay khơi bệnh cũ, khiến
tứ đại chống nghịch nhau. Người mới tập tu thiền định phải dè-dặt
tránh những điều nầy. Cho nên kinh chép: "Thân yên thì đạo đầy đủ,
ăn uống có tiết độ, thường ưa ở chỗ vắng vẻ, tâm lặng ưa tinh-tấn,
ấy là lời dạy của chư Phật".
2. Điều hòa sự ngủ nghỉ
Ngủ là bị vô minh che đậy, không
nên ngủ nhiều. Nếu người ngủ nhiều quá, không những bỏ bê sự tu
hành, lại mất hết những công phu, khiến tâm ám muội, căn lành tan mất.
Phải giác-ngộ lý vô-thường, điều phục sự ngủ nghỉ để tinh-thần
trong sáng, tâm niệm minh-tịnh. Được thế mới có thể gá tâm nơi thánh
cảnh, chánh định hiện tiền. Cho nên kinh chép: "Đầu hôm và buổi
khuya cũng chớ bỏ phế, không do nhơn duyên ngủ nghỉ để một đời luống
trôi qua, không được gì cả. Phải nghĩ rằng: ngọn lửa vô-thường thiêu
cả thế-gian, sớm cầu tư độ chớ nên ngủ nghỉ".
Phương-pháp điều thân, điều hơi
thở, điều tâm, ba việc nầy phải hợp nhau dùng, không thể nói riêng. Nhưng
pháp hành có trước, giữa và sau không đồng. Do đó tướng nhập, trụ và
xuất cũng có khác nhau.
3. Điều thân
Hành-giả muốn nhập chánh định
phải áp dụng phương-pháp điều thân. Khi ở ngoài định đi, đứng, nằm,
ngồi và mọi hành-động thảy đều nhẹ-nhàng thư thả; nếu hành-động
gấp gáp, nặng nề thì hơi thở hào-hển, hơi thở hào-hển thì tâm tán
loạn khó kềm chế, đến khi ngồi bức rức tâm không thư-thới. Do đó
tuy chưa nhập định hành-giả vẫn phải dụng ý, sớm tìm phương tiện hạn-chế
nó dần. Lúc nhập-định phải khéo an thân cho được định.
Khi đến chỗ ngồi thiền, trước
phải ngồi yên, mỗi bộ phận đều nghe yên ổn, lâu lâu thấy không có
gì chướng ngại, mới bắt đầu sửa soạn chân. Nếu ngồi bán già thì lấy
chơn trái để trên đùi mặt, kéo sát vào thân, để bàn chân trái bằng với
đùi mặt, bàn chân mặt bằng với đùi trái. Nếu ngồi toàn già phải
kéo chân mặt để lên chân trái. Nới rộng giây lưng và cổ áo, sửa cho
ngay thẳng. Lấy bàn tay trái để lên lòng bàn tay mặt và các ngón tay
chông lên nhau trừ ngón cái, rồi đặt trên bàn chân, kéo sát vào thân.
Thân ngay thẳng, chuyển động thân và các chi tiết bảy lần, giống như
pháp xoa bóp, không cho tay chân xê dịch. Như thế rồi giữ xương sống cho
thẳng không để cong vẹo. Cổ sửa cho ngay, đầu cúi hơi, giữ chót mũi
ngay rún không chinh không vạy, không ngước không cúi, gương mặt bình thản
ngồi yên. Kế dùng miệng thở hơi ô trược ra, khi thở há miệng cho hơi
ra, đừng mạnh cũng đừng gấp, phải đều đều nhẹ nhẹ, hơi ra tưởng
như mạch máu trong thân những chỗ không thông đều theo hơi thở mà lưu
thông, rồi ngậm miệng dùng mũi hít hơi trong sạch vào. Thở như thế đến
ba lần, nếu khi thân và hơi thở đã điều hòa thì thở một lần cũng
được. Thở xong ngậm miệng lại, môi và răng vừa khít nhau, lưỡi để
lên ổ gà. Con mắt nhắm vừa khuất ánh sáng bên ngoài thôi. Thân ngồi phải
ngay thẳng như tấm vách đá. Thân và chân tay không được cử động. Đó
là phương pháp ban đầu khi nhập thiền định điều thân. Tóm lại, không
hoãn mà cũng không gấp, đó là tướng trạng thân điều hòa.
4. Điều hơi thở
Hơi thở có 4 tướng: 1- Tướng
Phong. 2- Tướng Xuyển. 3- Tướng Khí. 4- Tướng Tức. Ba tướng trước không
điều-hòa, tướng sau mới điều hòa. Thế nào là tướng Phong, tướng Xuyển
v.v...?
- Khi ngồi thiền, hơi thở ra vào
trong mũi nghe có tiếng, là tướng Phong; hơi thở tuy không có tiếng mà ra
vào ngăn trệ không thông, là tướng Xuyển; hơi thở tuy không có tiếng,
không ngăn trệ, mà ra vào không nhẹ-nhàng, là tướng khí; hơi thở không
có tiếng, không bị ngăn và không thô, ra vào nhẹ như còn như mất,
tinh-thần an-ổn, thư-thới, ấy là tướng Tức. Nếu bị bệnh Phong thì
tán-loạn, bị bịnh Xuyển thì ngăn trệ, bị bịnh Khí thì nhọc nhằn; chỉ
được tướng Tức là an-định. Khi ngồi thiền có ba tướng Phong, Xuyển,
Khí gọi là không điều-hòa; khi ấy nếu dụng tâm thì hại tâm, tâm khó
được định.
Nếu muốn điều-hòa phải y ba
pháp:
1- Chuyên tưởng tâm ở tại rún.
2- Buông thả thân-thể một cách tự-tại.
3- Tưởng khắp lỗ chân lông hơi
thở ra vào thông đồng không ngăn-ngại.
Nếu tâm được tế-vi thì hơi thở
nhẹ nhàng. Hơi thở điều-hòa thì các bệnh không sanh, tâm dễ được định.
Ấy gọi là phương-pháp điều-hòa hơi thở, khi hành giả mới tập ngồi
thiền. Tóm lại, hơi thở nhẹ nhẹ, dài và đều là tướng điều-hòa.
5. Điều tâm
Điều tâm có ba cách: Nhập, Trụ,
và Xuất.
a) Nhập: Nhập có hai lối:
1- Điều phục loạn tưởng không
cho buông-lung.
2- Phải điều-hòa giữa Phù, Trầm,
Khoan, Cấp.
Thế nào là tướng Trầm? - Nếu
trong khi ngồi tâm mờ-mịt, không ghi nhớ gì cả, đầu ưa gục xuống, ấy
là tướng Trầm. Khi ấy phải chú tâm tại chót mũi, khiến tâm duyên trong
một cảnh, không cho ý phân tán, đây là trị bệnh Trầm.
Thế nào là tướng Phù? - Nếu khi
ngồi tâm ưa phóng-túng loạn động, thân cũng không yên, nhớ những việc
đâu đâu, đó là tướng Phù. Khi ấy nên tưởng tâm tại rún, ngăn các loạn
niệm, tâm liền dừng trụ, dễ được an tịnh. Tóm lại, không Trầm,
không Phù là tướng điều-hòa.
Tâm định ấy cũng có tướng
Khoan, Cấp. Tướng bệnh định tâm Cấp, do trong khi ngồi dụng niệm nhiếp
tâm mà được vào định. Thế nên hơi xông lên trên hông, ngực đau nhói,
phải buông xả tâm ấy, tưởng hơi đều dồn xuống, bệnh liền được lành.
Nếu tâm mắc bệnh Khoan thì tâm chí tản mác, thân ưa xiêu vẹo, hoặc
trong miệng chảy nước miếng, hoặc khi ấy mờ mịt. Bấy giờ phải thúc
liễm thân và tâm chuyên-niệm, khiến tâm trụ trong một chỗ, thân thể kềm
giữ nhau, lấy đó mà trị bệnh. Tâm có tướng thô phù hay trầm lặng, cứ
xét đó có thể biết. Ấy là phương-pháp điều tâm khi mới vào định.
Phàm nhập định là từ thô vào tế,
thân là thô, hơi thở là trung-bình, tâm là tế-nhị, nên điều từ thô đến
tế khiến tâm được an-tịnh, đó là phương-tiện ban đầu vào định. Đây
gọi là khi nhập định điều-hòa được hai việc.
b) Trụ: Hành-giả trong thời-gian tọa
thiền tùy dài hay ngắn, hoặc đến hai ba giờ trong 12 giờ nhiếp niệm dụng
tâm. Trong ấy phải khéo biết thân, hơi thở, tâm được điều-hòa hay
không điều-hòa. Nếu khi ngồi tuy điều thân xong, nhưng thân hoặc buông
thả, hoặc kềm thúc, hoặc nghiêng, cong, cúi, ngước không ngay thẳng, biết
rồi liền sửa cho thẳng khiến được an-ổn. Sửa thân bậc trung không kềm,
không thả, bình thường ngay thẳng an-trụ.
Lại nữa, trong thời-gian ngồi thiền
thân tuy điều-hòa, mà hơi thở không điều-hòa. Tướng hơi thở không điều-hòa
như trước đã nói, hoặc Phong, Xuyển, Khí, hoặc trong thân đầy hơi, phải
dùng những phương-pháp ở trước tùy bệnh mà trị, khiến hơi thở êm,
dài như có như không.
Thứ đến, trong thời-gian ngồi thiền,
thân, hơi thở tuy điều-hòa, mà tâm hoặc Phù, Trầm, Khoan, Cấp không định.
Khi ấy, nếu biết nên dùng những phương-pháp ở trước điều-hòa khiến
được thích-ứng bậc thường.
Ba việc nầy không nhứt định trước,
sau. Tùy cái nào không điều-hòa sửa cho được điều-hòa, khiến thời
gian ngồi, thân, hơi thở và tâm, ba cái đều điều-hòa thích-ứng, không
thể trái nhau, dung hòa không hai. Thế là hay trừ được bệnh trước, những
chướng-ngại không sanh, pháp thiền-định quyết-định được.
c) Xuất: Hành-giả nếu tọa thiền
sắp xong, khi muốn xuất định, nên trước phóng tâm duyên cảnh khác, kế
hả miệng thở hơi ra, tưởng khắp trăm mạch máu đều theo ý mà lưu-chuyển.
Nhiên hậu, nhẹ nhẹ động thân, kế động vai, bắp tay (chỗ con chuột);
lần lượt đến tay, đầu, cổ và sau động hai chân, tất cả đều phải
êm-ái, rốt sau lấy tay xoa khắp lỗ chơn lông, rồi hai tay xoa nhau cho nóng
áp lên hai con mắt, sau mới mở mắt, đợi sức nóng trong người tan hết
mới tùy ý ra đi. Nếu không đúng như vậy, khi ngồi được trụ tâm, mà
khi xuất buông xả mau quá thì phần vi tế chưa tan, trụ lại trong thân khiến
người nhức đầu, trăm lóng xương cứng đờ như mắc chứng phong lao; về
sau trong khi tọa thiền bức-rức không yên. Thế nên muốn xuất định, mỗi
việc đều phải lưu ý. Đây là phương-pháp điều thân. hơi thở và tâm,
từ tế đến thô.
Thế gọi là khéo Nhập, Trụ và Xuất,
như bài kệ:
- Tiến dừng có thứ tự,
- Thô tế không trái nhau.
- Ví như khéo lập mưu,
- Tùy ý muốn đứng đi.
Kinh Pháp-Hoa chép: "Đại-chúng
và chư Bồ-tát v.v... ở hội nầy, đã trong vô-lượng ức, kiếp chỉ vì
Phật-đạo, siêng tu tinh-tấn, khéo nhập, trụ, xuất được vô-lượng
trăm ngàn muôn ức chánh-định, được đại thần-thông, đã lâu tu hạnh
thanh-tịnh, khéo hay thứ-tự lập các pháp lành".
V. Hành Phương Tiện
Phàm muốn tu chỉ quán phải đủ
pháp-môn phương tiện. Pháp phương tiện có năm:
1. Dục. Muốn lìa tất cả vọng tưởng
điên-đảo của thế-gian, muốn được tất cả pháp-môn thiền-định trí-huệ.
Dục cũng gọi là Chí, là Nguyện, là Ưa, là Thích. Vì người ấy có chí
nguyện ưa thích tất cả pháp-môn thâm diệu, nên gọi là dục. Như Phật
dạy: "Tất cả pháp lành lấy Dục làm gốc".
2. Tinh-tấn. Kiên trì giới luật, xả
dứt ngũ-cái, đầu hôm và khuya tinh chuyên không bê trễ, như người kéo lửa
chưa nóng trọn không dừng nghỉ, ấy gọi là pháp tinh-tấn thiện đạo.
3. Niệm. Tưởng nhớ pháp thế-gian
dối trá rất hèn, nhớ pháp thiền-định tôn trọng đáng quí. Nếu được
thiền-định tức là phát đầy đủ các trí-huệ vô-lậu, tất cả đạo
lực thần thông, thành bậc Đẳng chánh-giác, rộng độ chúng-sanh, ấy là
đáng quí nên phải nhớ.
4. Xảo huệ. Tính lường giữa cái
vui thế-gian và cái vui thiền-định trí-huệ, sự đắc, thất, khinh, trọng
thế nào? - Cái vui thế-gian vui ít khổ nhiều, dối trá không thật, là thất,
là khinh. Cái vui thiền-định trí-huệ là vui vô-lậu, vô-vi, lặng lẽ
thênh thang, hằng lìa sanh tử, xa hẳn khổ não, là đắc là trọng. Phân biệt
như vậy, gọi là xảo huệ.
5. Nhứt tâm phân-minh. Thấy rõ thế-gian
đáng lo, đáng ghét, khéo biết công-đức định-huệ đáng tôn đáng quí.
Bấy giờ nên nhất tâm quyết định tu tập Chỉ, Quán, tâm cứng như
Kim-Cang, thiên ma ngoại đạo không thể ngăn trở phá hoại; dù tu như vậy
mà không chứng được cái gì, cũng không thay đổi, ấy gọi là nhất
tâm. Ví như người đi đường trước phải biết đường thông hay bít,
sau mới nhất tâm theo đường tiến bước, nên gọi rằng "Xảo huệ
nhất tâm". Kinh chép: "Không phải người trí thì không thể tu thiền,
không tu thiền thì không thể được trí", chính là nghĩa nầy vậy.
Tác giả và
Nguyên do | Chương I | Chương II - Phần 1 | Chương II- Phần 2