- VÔ MÔN QUAN
-
無門関
- Chữ Vô của Phương Đông
- Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin
- Biên dịch: Nguyễn Nam Trân
- Bản Thảo - 2009 -
Hậu Tự
của Vô Môn
Huệ Khai
後序
Bốn mươi tám tắc trên là lời giáo
huấn của chư Phật, mục đích làm cơ sở cho các qui tắc phán xét việc
trong thế gian, cho nên từ lúc đầu (các vị ấy) đã gạt bỏ những lời lẽ
xem như thừa thãi. Những tắc này, nếu người tham thiền, ai ai cũng huy
động triệt để đầu óc và nhãn lực[1]
mà thu nhận, nhất quyết ngày sau sẽ đỡ tốn công chạy theo kẻ khác để đặt
câu hỏi. Do đó, với những ai thông minh rành rẽ chuyện bốn phương tám
hướng, chỉ cần nghe trình bày một phần trong bất cứ tắc nào, họ sẽ suy
được ngay kết luận
[2].
Từ đây, vấn đề phải theo cửa nào, phải leo lên bậc thang nào mà đi không
còn đặt ra đối với những đối tượng đó nữa. Họ chỉ cần vung tay đi tuốt
qua cửa ải, không thèm để ý sự hiện diện của người gác. Hòa Thượng Huyền
Sa Sư Bị
[3]
đã nói: “Không Cửa là cửa của giải thoát, Không Ý là ý của người đạt đạo”.
Hòa Thượng Bạch Vân Thủ Đoan cũng bàn rằng: “Khi mọi sự đã rõ ràng, biết
nó chỉ là bấy nhiêu thôi, cớ gì lại đi qua không lọt?”[4].
Ngay từ lúc đầu, những chuyện vô nghĩa lý kiểu làm bánh sữa với đất thó[5]
đáng lẽ không nên đặt ra. Người nào đi lọt được Ải Không Cửa (Vô Môn
Quan) coi như qua mặt[6]
được Vô Môn tôi rồi. Còn như không qua trót lọt ải đó, ắt đã tự phản bội
mình. Thường có câu: “ Được tấm lòng ngộ đạo thì dễ nhưng sống cụ thể
với nó là chuyện khó
[7]”.
Dù sao, trong sinh hoạt thường nhật, chỉ cần trí tuệ máy động một cách
rõ ràng thì từ gia đình đến đất nước, đâu đó đều sẽ hoàn toàn yên vui.
Bài này viết vào năm Thiệu Định cải nguyên (1228),
năm hôm trước ngày chấm dứt[8]
khóa an cư mùa hạ (đúng mồng mười tháng bảy). Học trò hàng con cháu (pháp
tôn) dòng Dương Kỳ[9]
là Vô Môn Tỳ Khưu Huệ Khai kính cẩn ghi lại.
[1]
Dịch thoát ý thành ngữ “yết phiên não cái, lộ
xuất nhãn tinh” ( lột cả xương sọ, móc lòi con ngươi).
[2]
Nguyên văn: lạc xứ, ý nghĩa cùng cực, nơi chốn, kết luận phải đến.
[3]
Xem Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 7, chương nói về Huyền Sa Sư Bị. Câu
nói như sau: “Phật đạo nhàn khoáng. Vô hữu trình đồ. Vô môn giải
thoát chi môn.Vô ý đạo nhân chi ý. Bất tại tam tế. Cố bất khả thăng
trầm”.
[4]
Nguyên văn: “Minh minh tri đạo, chỉ thị giả cá, vi thậm ma thấu bất
quá”. Câu nói này của Bạch Vân Thủ Đoan không rõ xuất xứ.
[5]
Thành ngữ: Xích thổ trà nãi (bôi bác sửa bò lên đất đỏ): ý nói làm
việc vô nghĩa lý. Chữ trong Phần Dương Vô Đức Ngữ Lục và Bàng Cư Sĩ
Ngữ Lục.
[6]
Nguyên văn: độn trí: đè đầu, chọc quê, chơi xỏ.
[7]
Nguyên văn: “Niết Bàn tâm dị hiểu. Sai biệt trí nan minh” (Tâm Niết
Bàn dễ hiểu. Trí phân biệt khó soi).
[8]
Nguyên văn: giải chế (một từ chuyên môn Phật giáo).
[9]
Dòng thiền do Dương Kỳ Phương Hội (993-1046), một thiền sư Bắc Tống
lập nên. Ông trở thành tổ của phái Dương Kỳ tông Lâm Tế, nhận pháp
tự từ Thạch Sương Sở Viên (987-1040). Còn để lại Dương Kỳ Phương Hội
Thiền Sư Ngữ Lục 1 quyển. Tiểu sử xem Tục Truyền Đăng Lục quyển 7 và
Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 19.
Trở về mục lục
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/vomonquan_52.htm