...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Kinh Kim Cương
- Hòa thượng Thích Trí
Quang dịch giải
Phần
chính văn
Phần giải thích
Phần ghi chú
Lời Cầu Nguyện
- Nghĩa lý kinh Kim cương
- là ngoài tầm nghĩ bàn,
- phước đức kinh Kim cương
- cũng siêu việt như vậy.
- Nay con được dịch giải,
- cầu nguyện cùng chúng sinh
- ở trong cảnh giới này
- mà thấy phi cảnh giới,
- và chính nơi thân này
- mà thấy là Phật thân.
- 23.10.2531
- Trí Quang
Phần Tụng Niệm [^]
Kính lạy đức Thích ca mâu ni thế
tôn, cùng hết thảy Phật bảo. Kính lạy kinh Kim cương bát nhã ba la mật,
cùng hết thảy Pháp bảo. Kính lạy tôn giả Thiện hiện, cùng hết thảy
Tăng bảo.
- Đoạn 1 - Đoạn 4
- (1)
- (1-8) Tôi nghe như vầy:
- Một thời Thế tôn
- ở nước Xá vệ,
- trong khu vườn rừng
- Chiến thắng Thiện thí,
- cùng với một ngàn
- hai trăm năm chục
- vị đại tỷ kheo.
- (2)
- (9-22) Vào lúc bấy giờ
- gần đến giờ ăn,
- nên đức Thế tôn
- sửa y, cầm bát,
- đi vào khất thực
- trong thành Xá vệ.
- Tuần tự khất thực
- trong thành này rồi,
- Ngài về chỗ ở,
- ăn uống xong xuôi,
- thu dọn y bát,
- rửa sạch hai chân,
- và trải đồ lót
- lót chỗ mà ngồi.
- (3)
- (23-48) Lúc ấy Thiện hiện,
- một vị trưởng lão,
- cũng có ở trong
- các đại tỷ kheo.
- Từ chỗ mình ngồi,
- trưởng lão đứng dậy,
- vắt một vạt y,
- để trần vai phải,
- đầu gối bên phải
- quì xuống chấm đất,
- hai tay chắp lại
- cung kính mà thưa:
- kính bạch Thế tôn,
- Ngài thật hiếm có;
- Ngài khéo nâng đỡ
- cho các Bồ tát,
- lại khéo giao phó
- cho các Bồ tát.
- Kính bạch Thế tôn,
- thiện nam thiện nữ
- đã phát tâm nguyện
- vô thượng bồ đề,
- thì phải làm sao
- để ở tâm ấy?
- và phải làm sao
- để sửa tâm mình?
- (4)
- (49-70) Đức Thế tôn dạy:
- tốt lắm, Thiện hiện;
- thật đúng như lời
- trưởng lão đã nói,
- Như lai rất khéo
- nâng đỡ Bồ tát,
- Như lai rất khéo
- giao phó Bồ tát.
- Do vậy, trưởng lão,
- hãy nghe cho kyլ
- Như lai sẽ nói
- cho các vị biết
- thiện nam thiện nữ
- phát tâm bồ đề
- thì bằng cách nào
- trú ở tâm ấy,
- và bằng cách nào
- sửa chữa tâm mình.
- Trưởng lão thưa rằng,
- dạ, bạch Thế tôn,
- chúng con ước muốn
- được nghe Ngài dạy.
- Đoạn 5 - Đoạn 8
- (5)
- (71-102) Trưởng lão Thiện hiện,
- Bồ tát thì phải
- sửa chữa tâm mình
- bằng tuệ giác này:
- Bao nhiêu chúng sinh,
- hoặc sinh bằng trứng,
- hoặc sinh bằng thai,
- sinh bằng ẩm thấp,
- sinh bằng biến hóa,
- hoặc có hình sắc,
- hoặc không hình sắc,
- hoặc có tư tưởng,
- hoặc không tư tưởng,
- có không tư tưởng,
- ta làm hết thảy
- đều được nhập vào
- niết bàn hoàn toàn
- mà giải thoát cả --
- Làm cho vô lượng
- vô số chúng sinh
- niết bàn như vậy,
- mà thật không thấy
- có chúng sinh nào
- được niết bàn cả.
- Tại sao như vậy,
- trưởng lão Thiện hiện,
- vì nếu Bồ tát
- mà vẫn còn có
- ý tưởng ngã, nhân,
- chúng sinh, thọ giả,
- thì bồ tát ấy
- không phải Bồ tát.
- (6)
- (103-144) Trưởng lão Thiện hiện,
- đối với các pháp,
- Bồ tát không nên
- trú ở đâu cả
- mà làm bố thí:
- không ở nơi sắc
- mà làm bố thí,
- không ở nơi thanh,
- hương, vị, xúc, pháp,
- mà làm bố thí.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- Bồ tát hãy nên
- bố thí như thế:
- không ở đâu cả.
- Tại sao như vậy,
- vì nếu Bồ tát
- không ở đâu cả
- mà làm bố thí
- thì được phước đức
- không thể lường được.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- không gian hướng đông
- có lường được không?
- Không, bạch Thế tôn.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- không gian hướng nam,
- hướng tây, hướng bắc,
- và cả bốn góc,
- cả trên, cả dưới,
- có lường được không?
- Càng không, bạch Ngài.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- Bồ tát bố thí
- mà không ở đâu
- thì được phước đức
- cũng y như thế,
- không thể lường được.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- Bồ tát chỉ nên
- trú ở theo lời
- Như lai dạy đây.
- (7)
- (145-164) Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- đối với Như lai,
- có thể hay không
- thấy bằng đặc tướng?
- Không, bạch Thế tôn,
- không thể thấy Ngài
- bằng các đặc tướng;
- tại sao như vậy,
- vì theo Ngài dạy
- thì các đặc tướng
- là phi đặc tướng.
- Đức Thế tôn bảo,
- trưởng lão Thiện hiện,
- hễ có đặc tướng
- thì đặc tướng ấy
- toàn là giả dối,
- nếu thấy đặc tướng
- là phi đặc tướng
- thì thấy Như lai.
- (8)
- (165-234) Trưởng lão Thiện hiện
- bạch đức Thế tôn,
- có thể có ai
- nghe pháp thoại này
- mà sinh đức tin
- đúng chân lý không?
- Đức Thế tôn dạy,
- đừng hỏi như vậy,
- trưởng lão Thiện hiện;
- sau khi Như lai
- nhập niết bàn rồi,
- năm trăm năm sau,
- có ai giữ giới,
- làm phước, tu tuệ,
- thì với pháp thoại
- như thế này đây,
- có thể tin tưởng
- đúng với chân lý.
- Trưởng lão phải biết
- những người như vậy
- không chỉ gieo trồng
- gốc rễ điều lành
- nơi một đức Phật,
- nơi hai đức Phật,
- nơi ba bốn năm
- đức Phật mà thôi,
- mà đã gieo trồng
- gốc rễ điều lành
- ở nơi vô số
- ngàn vạn đức Phật.
- Những người như vậy
- mà được nghe đến
- pháp thoại thế này,
- thì dầu đến nỗi
- chỉ một ý niệm
- tin tưởng trong sáng,
- Như lai cũng vẫn
- biết và thấy rõ
- họ thực hiện được
- vô lượng phước đức.
- Tại sao như vậy,
- vì những người này
- không còn có nữa
- ý tưởng ngã nhân
- chúng sinh thọ giả,
- không còn có nữa
- ý tưởng về pháp
- và về phi pháp.
- Nếu những người này
- còn có ý tưởng
- là còn ngã nhân
- chúng sinh thọ giả,
- còn ý tưởng pháp
- là còn ngã nhân
- chúng sinh thọ giả,
- còn tưởng phi pháp
- là còn ngã nhân
- chúng sinh thọ giả.
- Vì lý do ấy,
- đừng nắm lấy pháp,
- lại càng đừng nên
- nắm lấy phi pháp.
- Do ý nghĩa này,
- Như lai thường nói,
- các vị Tỷ kheo,
- hãy nhận thức rằng
- pháp Như lai nói
- tựa như chiếc bè:
- pháp còn phải bỏ,
- huống chi phi pháp?
-
- Đoạn 9 - Đoạn 12
- (9)
- (235-262) Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- phải chăng Như lai
- được vô thượng giác?
- phải chăng Như lai
- có sự thuyết pháp?
- Trưởng lão thưa rằng
- kính bạch Thế tôn,
- theo con hiểu biết
- ý của Ngài nói,
- thì không thể có
- một pháp khẳng định
- để được mệnh danh
- là vô thượng giác,
- cũng không thể có
- một pháp khẳng định
- để được gọi là
- Thế tôn thuyết pháp.
- Tại sao như vậy,
- vì Pháp Ngài nói
- không thể nắm lấy
- không thể diễn tả,
- không phải là pháp,
- không phải phi pháp -
- Lý do là vì
- hết thảy hiền thánh
- toàn do Vô vi
- biểu hiện khác biệt.
- (10)
- (263-300) Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- có ai đem cho
- đủ hết bảy loại
- vàng ngọc chất đầy
- đại thiên thế giới,
- thì người cho ấy
- được phước nhiều không?
- rất nhiều, bạch Ngài;
- vì phước đức ấy
- Ngài đã nói là
- tính phi phước đức,
- thế nên Ngài nói
- phước đức rất nhiều.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- nhưng nếu có ai
- từ pháp thoại này,
- tiếp nhận ghi nhớ
- dầu là chỉ được
- chỉnh cú bốn câu,
- và biết đem nói
- cho bao người khác,
- thì phước người ấy
- vẫn hơn người trước.
- Tại sao như vậy,
- vì lẽ, trưởng lão,
- hết thảy Phật đà
- cùng với Phật pháp
- -- pháp vô thượng giác
- của các Phật đà --
- toàn là xuất ra
- từ pháp thoại này.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- gọi là Phật pháp
- thì Như lai nói
- là phi Phật pháp,
- thế nên Như lai
- nói là Phật pháp.
- (11)
- (301 - 392) Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- vị Tu đà hoàn
- có ý nghĩ rằng
- ta được đạo quả
- Tu đà hoàn chăng?
- Trưởng lão thưa Ngài,
- không, bạch Thế tôn;
- tại sao như vậy,
- vì Tu đà hoàn
- là Vào dòng nước,
- thế nhưng thật ra
- không có cái gì
- nhập vào đâu cả:
- không nhập sắc, thanh,
- hương, vị, xúc, pháp,
- nên được mệnh danh
- là Tu đà hoàn.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- vị Tư đà hàm
- có ý nghĩ rằng
- ta được đạo quả
- Tư đà hàm chăng?
- Trưởng lão thưa Ngài,
- không, bạch Thế tôn;
- tại sao như vậy,
- vì Tư đà hàm
- là Một trở lại,
- thế nhưng thật ra
- không có cái gì
- một lần trở lại,
- nên được mệnh danh
- là Tư đà hàm.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- vị A na hàm
- có ý nghĩ rằng
- ta được đạo quả
- A na hàm chăng?
- Trưởng lão thưa Ngài,
- không, bạch Thế tôn;
- tại sao như vậy,
- vì A na hàm
- là Không trở lại,
- thế nhưng thật ra
- không có cái gì
- không còn trở lại,
- nên được mệnh danh
- là A na hàm.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- vị A la hán
- có ý nghĩ rằng
- ta được đạo quả
- A la hán chăng?
- Trưởng lão thưa Ngài,
- không, bạch Thế tôn;
- tại sao như vậy,
- vì lẽ thật ra
- không có cái gì
- là A la hán,
- nên được mệnh danh
- là A la hán.
- Kính bạch Thế tôn,
- nếu vị La hán
- nghĩ rằng mình được
- đạo quả La hán,
- thì như thế là
- chấp trước ngã nhân
- chấp trước chúng sinh
- chấp trước thọ giả.
- Bạch Ngài, Ngài nói
- trong số những người
- được định Không cãi,
- con là hơn hết,
- con là La hán
- ly dục bậc nhất;
- nhưng con không có
- ý nghĩ mình là
- một vị La hán
- ly dục bậc nhất.
- Nếu con còn nghĩ
- mình là La hán,
- thì Ngài không nói
- Thiện hiện là người
- thích thú làm theo
- chánh định Không cãi;
- vì con không còn
- làm theo gì cả,
- nên Ngài nói con
- theo định Không cãi.
- (12)
- (393-402) Đức Thế tôn bảo
- trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- Như lai xưa kia,
- nơi đức Nhiên đăng,
- được pháp gì chăng?
- Không, bạch Thế tôn;
- nơi đức Nhiên đăng,
- thực sự Thế tôn
- không được pháp gì.
-
- Đoạn 13 - Đoạn 16
- (13)
- (403-426) Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- phải chăng Bồ tát
- trang hoàng cõi Phật?
- Không, bạch Thế tôn;
- lý do là vì
- trang hoàng cõi Phật,
- sự trang hoàng ấy
- Thế tôn đã nói
- là phi trang hoàng,
- thế nên Ngài nói
- đó là trang hoàng.
- Do vậy, trưởng lão,
- Bồ tát đại sĩ
- hãy sinh cái tâm
- trong sạch như vầy:
- không ở nơi sắc
- mà sinh tâm ra,
- không ở nơi thanh,
- hương, vị, xúc, pháp,
- mà sinh tâm ra;
- hãy đừng ở vào
- bất cứ chỗ nào
- mà sinh tâm ra.
- (14)
- (427-438) Trưởng lão Thiện hiện,
- ví dụ có người
- thân thể cao lớn
- như núi Tu di,
- ông nghĩ thế nào,
- thân ấy lớn không?
- rất lớn, bạch Ngài;
- tại sao, bởi vì
- Ngài nói thân lớn
- là phi thân lớn,
- thế nên Ngài nói
- đó là thân lớn.
- (15)
- (439-506) Trưởng lão Thiện hiện,
- giả thiết sông Hằng
- có bao nhiêu cát,
- thì mỗi hạt cát,
- là một sông Hằng,
- ông nghĩ thế nào,
- số cát tất cả
- sông Hằng như vậy
- nhiều hay không nhiều?
- Rất nhiều, bạch Ngài;
- số lượng sông Hằng
- đã là vô số,
- huống chi số cát
- những sông Hằng ấy.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- với lời nói thật,
- Như lai hôm nay
- nói với trưởng lão:
- giả sử thiện nam
- hay thiện nữ nào
- đem hết bảy loại
- vàng ngọc chất đầy
- thế giới đại thiên
- nhiều như số cát
- những sông Hằng ấy
- mà làm bố thí,
- thì phước họ được
- là nhiều hay ít?
- Trưởng lão kính thưa,
- rất nhiều, bạch Ngài.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- nếu có thiện nam
- hay thiện nữ khác
- với pháp thoại này,
- tiếp nhận ghi nhớ
- dầu chỉ bốn câu,
- và biết đem nói
- cho bao người khác,
- thì phước người này
- hơn phước người trước.
- Thêm nữa, trưởng lão,
- chỗ nào giảng dạy
- pháp thoại như vầy,
- dầu chỉ bốn câu,
- trưởng lão cũng phải
- nhận thức chỗ ấy,
- tất cả thế giới
- chư thiên nhân loại
- và a tu la
- đều nên hiến cúng
- y như hiến cúng
- chùa tháp Như lai.
- Huống chi có người
- tiếp nhận ghi nhớ,
- đọc xét văn nghĩa,
- tụng được thuộc lòng,
- giảng nói cho người
- trọn pháp thoại này;
- trưởng lão phải biết
- người ấy đạt được
- cái pháp tối thượng
- hiếm có bậc nhất,
- và những địa điểm
- người ấy giảng dạy
- pháp thoại như vầy
- là có Như lai,
- hay có các vị
- đệ tử cao trọng.
- (16)
- (507-532) Vào lúc bấy giờ
- trưởng lão Thiện hiện
- bạch đức Thế tôn,
- pháp thoại như vầy
- nên gọi tên gì?
- chúng con cần phải
- ghi nhớ thế nào?
- Đức Thế tôn dạy,
- trưởng lão Thiện hiện,
- pháp thoại như vầy
- nên gọi tên là
- Kim cương bát nhã
- ba la mật đa,
- trưởng lão hãy nhớ
- pháp thoại như vầy
- qua danh hiệu ấy.
- Tại sao như vậy,
- trưởng lão Thiện hiện,
- bởi vì bát nhã
- ba la mật đa
- thì Như lai nói
- là phi bát nhã
- ba la mật đa,
- thế nên Như lai
- nói là bát nhã
- ba la mật đa.
-
- Đoạn 17 - Đoạn 20
- (17)
- (533-540) Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- Như lai có sự
- thuyết pháp hay không?
- Trưởng lão thưa Ngài,
- không, bạch Thế tôn,
- Thế tôn không có
- thuyết pháp gì cả.
- (18)
- (541-558) Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- thế giới đại thiên
- có bao vi trần,
- số lượng nhiều không?
- Rất nhiều, bạch Ngài.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- những vi trần ấy,
- Như lai nói chúng
- là phi vi trần,
- thế nên Như lai
- nói là vi trần.
- Và bao thế giới,
- Như lai cũng nói
- những thế giới ấy
- là phi thế giới,
- thế nên Như lai
- nói là thế giới.
- (19)
- (559-572) Trưởng lão Thiện hiện,
- trong ý của ông
- ông nghĩ thế nào,
- có thể hay không
- nhìn thấy Như lai
- bằng ba mươi hai
- đặc tướng siêu nhân?
- Không, bạch Thế tôn;
- tại sao như vậy,
- vì các đặc tướng
- hì Thế tôn nói
- là phi đặc tướng,
- thế nên Thế tôn
- nói là đặc tướng.
- (20)
- (573-586) Trưởng lão Thiện hiện,
- nếu có thiện nam
- hay thiện nữ nào
- đem thân mạng mình
- bằng cát sông Hằng
- mà bố thí cả,
- và có người khác
- với pháp thoại này,
- tiếp nhận ghi nhớ
- dầu chỉ bốn câu,
- và đem giảng nói
- cho bao người khác,
- thì phước người này
- quá nhiều hơn nữa.
-
- Đoạn 21 - Đoạn 24
- (21)
- (587-662) Vào lúc bấy giờ
- trưởng lão Thiện hiện
- nghe pháp thoại này
- lĩnh hội sâu xa,
- lòng đầy xúc cảm,
- rơi lụy mà khóc.
- Trưởng lão thưa rằng,
- thật quá hiếm có,
- kính bạch Thế tôn;
- Ngài đã tuyên thuyết
- pháp thoại cực sâu.
- Từ khi có được
- con mắt tuệ giác
- cho đến ngày nay,
- con chưa nghe được
- pháp thoại như vầy.
- Bạch Ngài, có ai
- nghe pháp thoại này
- tin tưởng trong sáng,
- và phát sinh được
- cái tuệ giác thật,
- thì biết người ấy
- đạt được công đức
- hiếm có bậc nhất.
- Kính bạch Thế tôn,
- tuệ giác thật ấy
- thì Ngài nói là
- phi tuệ giác thật,
- thế nên Ngài nói
- là tuệ giác thật.
- Kính bạch Thế tôn,
- hôm nay con được
- nghe pháp thoại này,
- tin tưởng, lĩnh hội,
- tiếp nhận, ghi nhớ,
- thì không khó mấy.
- Nhưng nếu tương lai,
- năm trăm năm sau,
- người nào nghe được
- pháp thoại như vầy,
- tin tưởng, lĩnh hội,
- tiếp nhận, ghi nhớ,
- mới hiếm có nhất.
- Tại sao như vậy,
- bởi vì người ấy
- thì không còn có
- ý tưởng ngã nhân
- chúng sinh thọ giả --
- Ý tưởng ngã nhân
- chúng sinh thọ giả
- là phi ý tưởng:
- phi mọi ý tưởng
- thì thế gọi là
- chư Phật như lai.
- Đức Thế tôn dạy
- trưởng lão Thiện hiện,
- thật đúng như vậy;
- nếu có người nào
- được nghe pháp thoại
- Bát nhã như vầy
- mà không kinh ngạc,
- cũng không sợ hãi,
- thì biết người ấy
- cực kỳ hiếm có.
- Tại sao, trưởng lão,
- bởi vì Bát nhã
- chính là tối thượng
- ba la mật đa,
- và Như lai nói
- cái pháp tối thượng
- ba la mật đa
- là phi tối thượng
- ba la mật đa,
- thế nên Như lai
- nói là tối thượng
- ba la mật đa.
- (22)
- (663-696) Trưởng lão Thiện hiện,
- cái pháp nhẫn nhục
- ba la mật đa,
- Như lai cũng nói
- là phi nhẫn nhục
- ba la mật đa,
- thế nên Như lai
- nói là nhẫn nhục
- ba la mật đa.
- Tại sao, trưởng lão,
- vì như xưa kia,
- trong khi Như lai
- bị Ca lị vương
- cắt thịt khắp nơi
- tay chân Như lai,
- Như lai không có
- ý tưởng ngã nhân
- chúng sinh thọ giả.
- Nếu lúc bấy giờ
- Như lai còn có
- ý tưởng ngã nhân
- chúng sinh thọ giả
- thì phải sinh ra
- giận dữ oán hận.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- Như lai lại nhớ
- trong thì quá khứ,
- có năm trăm đời
- Như lai đã làm
- tiên nhân Nhẫn nhục.
- Vào lúc bấy giờ,
- Như lai cũng không
- ý tưởng ngã nhân
- chúng sinh thọ giả.
- (23)
- (697-758) Vì lý do ấy,
- trưởng lão Thiện hiện,
- Bồ tát thì phải
- rời mọi ý tưởng
- mà phát huy tâm
- vô thượng bồ đề;
- đừng ở nơi sắc
- mà sinh tâm ra,
- đừng ở nơi thanh,
- hương, vị, xúc, pháp,
- mà sinh tâm ra.
- Hãy sinh cái tâm
- không ở đâu cả.
- Nếu tâm ở đâu
- thì chính như thế
- là phi trú ở.
- Vì lý do này,
- Như lai nói rằng
- Bồ tát thì phải
- không ở sắc, thanh,
- hương, vị, xúc, pháp,
- mà làm bố thí.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- Bồ tát thì vì
- ích lợi chúng sinh
- một cách khắp cả
- mà hãy bố thí
- theo cách như vậy.
- Vì Như lai nói
- ý tưởng chúng sinh
- là phi ý tưởng,
- Như lai cũng nói
- hết thảy chúng sinh
- là phi chúng sinh.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- Như lai là người
- nói phải, nói chắc,
- nói như sự thật,
- nói không lừa đảo,
- nói không mâu thuẫn.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- Pháp mà Như lai
- đã chứng ngộ được,
- cái Pháp như vậy
- không phải chắc chắn,
- không phải trống rỗng.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- Bồ tát nếu tâm
- ở nơi mọi thứ
- mà làm bố thí,
- thì như một người
- vào trong bóng tối,
- không còn thấy được
- một thứ gì hết;
- Bồ tát nếu tâm
- không ở mọi thứ
- mà làm bố thí,
- thì như một người
- đã có mắt sáng,
- lại có ánh sáng
- mặt trời soi rõ,
- nên thấy đủ cả.
- (24)
- (759-776) Trưởng lão Thiện hiện
- trong thì vị lai,
- nếu có thiện nam
- hay thiện nữ nào,
- đối với pháp thoại
- Bát nhã như vầy,
- tiếp nhận ghi nhớ,
- đọc xét văn nghĩa,
- tụng được thuộc lòng,
- nói cho người khác,
- thì thế là được
- Như lai sử dụng
- tuệ giác Như lai
- mà biết rất rõ,
- và thấy rất rõ,
- rằng người như vậy
- ai cũng đạt được
- vô lượng công đức.
-
- Đoạn 25 - Đoạn 28
- (25)
- (777-848) Trưởng lão Thiện hiện,
- nếu có thiện nam
- hay thiện nữ nào
- buổi sáng đã đem
- hằng sa thân mạng
- mà bố thí cả,
- buổi trưa cũng đem
- hằng sa thân mạng
- mà bố thí nữa,
- buổi chiều lại đem
- hằng sa thân mạng
- mà bố thí luôn,
- và sự bố thí
- thân mạng như vậy
- làm đến trăm ngàn
- vạn ức thời kỳ;
- và có người khác
- nghe pháp thoại này,
- trong lòng tin tưởng
- chứ không đối kháng,
- thì phước người này
- hơn phước người trước,
- huống chi có người
- sao chép ấn hành,
- tiếp nhận ghi nhớ,
- đọc xét văn nghĩa,
- tụng được thuộc lòng,
- nói cho người khác.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- chính yếu mà nói
- thì bài pháp thoại
- Bát nhã như vầy
- có những công đức
- ngoài tầm nghĩ bàn,
- ước lượng, đối chiếu,
- siêu việt giới hạn;
- Như lai nói cho
- những người đi theo
- giáo pháp đại thừa,
- nói cho những người
- đi theo giáo pháp
- đại thừa tối thượng.
- Ai có năng lực
- tiếp nhận ghi nhớ,
- đọc xét văn nghĩa,
- tụng được thuộc lòng,
- trình bày phong phú
- cho bao người khác,
- thì chính Như lai
- biết rõ người ấy,
- thấy rõ người ấy,
- đạt được công đức
- không thể ước lượng,
- không thể đối chiếu,
- không có giới hạn,
- ngoài tầm nghĩ bàn.
- Những người như vậy
- có thể gánh vác
- tuệ giác vô thượng
- của ta, Như lai.
- Tại sao như thế,
- trưởng lão Thiện hiện,
- bởi vì những ai
- ưa pháp tiểu thừa,
- vẫn còn ngã nhân
- chúng sinh thọ giả,
- thì với pháp này
- không thể lắng nghe,
- tiếp nhận ghi nhớ,
- đọc xét văn nghĩa,
- tụng được thuộc lòng,
- nói cho người khác.
- (26)
- (849-862) Trưởng lão Thiện hiện,
- bất cứ chỗ nào,
- hễ có bản kinh
- Kim cương bát nhã,
- thì cả thế giới
- chư thiên, nhân loại,
- và a tu la,
- đều nên hiến cúng.
- Nên biết chỗ ấy
- chính là chùa tháp
- tôn thờ Như lai;
- hãy lạy, đi nhiễu,
- tung rãi các loại
- bông hoa, hương liệu.
- (27)
- (863-878) Thêm nữa, trưởng lão,
- bất cứ thiện nam
- hay thiện nữ nào
- học hỏi, ghi nhớ,
- nghiên cứu, tụng thuộc
- kinh Kim cương này
- mà bị khinh dễ,
- thì biết người ấy
- tội ác đời trước
- đáng sa chỗ dữ,
- nhưng vì đời này
- bị người khinh dễ
- thì tội ác đó
- tiêu tan hết cả,
- người ấy sẽ được
- tuệ giác vô thượng.
- (28)
- (879-934) Trưởng lão Thiện hiện,
- Như lai nhớ lại
- quá khứ vô số
- thời kỳ vô số,
- trước khi Như lai
- gặp đức Nhiên đăng,
- thì đã gặp được
- tám trăm bốn ngàn
- vạn ức trăm triệu
- chư Phật như lai,
- đối với Ngài nào
- Như lai cũng đồng
- thừa sự hiến cúng
- chứ không bỏ qua.
- Nhưng nếu có ai,
- ở trong thời kỳ
- cuối cùng sau này,
- mà có năng lực
- học hỏi, ghi nhớ,
- nghiên cứu, tụng thuộc
- bản kinh Kim cương
- bát nhã này đây,
- thì bao công đức
- người ấy đạt được,
- công đức Như lai
- phụng sự chư Phật
- không bằng phần trăm,
- phần ngàn vạn ức,
- đến nỗi toán pháp
- và ví dụ nữa,
- cũng không bằng được
- một phần nào cả.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- nếu có thiện nam
- hay thiện nữ nào
- ở trong thời kỳ
- cuối cùng sau này,
- mà có khả năng
- tiếp nhận, ghi nhớ,
- nghiên cứu, tụng thuộc
- bản kinh Kim cương
- bát nhã như vầy,
- bao nhiêu công đức
- mà họ đạt được,
- nếu Như lai nói
- một cách đầy đủ,
- thì tất có kẻ
- nghe mà nổi khùng,
- bối rối, hoài nghi,
- không thể tin được.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- phải nhận thức rằng
- ý nghĩa Kim cương
- không thể nghĩ bàn,
- hiệu quả cũng vậy
- không thể nghĩ bàn.
-
- Đoạn 29 - Đoạn 32
-
- (29)
- (935-970) Vào lúc bấy giờ,
- trưởng lão Thiện hiện
- kính bạch Thế tôn,
- thiện nam thiện nữ
- đã phát tâm nguyện
- vô thượng bồ đề,
- thì phải làm sao
- để ở tâm ấy?
- và phải làm sao
- để sửa tâm mình?
- Đức Thế tôn dạy,
- trưởng lão Thiện hiện,
- thiện nam thiện nữ
- phát tâm bồ đề,
- thì sửa tâm mình
- bằng tuệ giác này:
- ta phải làm cho
- hết thảy chúng sinh
- đều được niết bàn,
- hết thảy chúng sinh
- được niết bàn rồi
- mà thật không thấy
- một chúng sinh nào
- được niết bàn cả.
- Lý do là vì
- Bồ tát mà có
- ý tưởng ngã nhân
- chúng sinh thọ giả,
- thì như thế là
- không phải Bồ tát.
- Tại sao như vậy,
- trưởng lão Thiện hiện,
- bởi vì thật ra
- không có pháp gì
- là người phát tâm
- vô thượng bồ đề.
- (30)
- (971-1042) Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- nơi đức Nhiên đăng,
- phải chăng Như lai
- có một pháp gì
- gọi là đạt được
- vô thượng bồ đề?
- Không, bạch Thế tôn;
- theo chỗ con hiểu
- ý nghĩa đã được
- Thế tôn dạy cho,
- thì khi Ngài ở
- nơi đức Nhiên đăng,
- không có pháp gì
- gọi là đạt được
- vô thượng bồ đề.
- Đức Thế tôn dạy,
- đúng vậy, Thiện hiện,
- đúng là không có
- pháp gì gọi là
- Như lai đạt được
- vô thượng bồ đề.
- Nếu có pháp gì
- gọi là Như lai
- đạt được tuệ giác
- vô thượng bồ đề,
- thì đức Nhiên đăng
- đã không ghi nhận,
- rằng trong tương lai
- ông thành Phật đà,
- danh hiệu gọi là
- Thích ca mâu ni;
- vì thật không có
- pháp gì gọi là
- Như lai đạt được
- vô thượng bồ đề,
- nên đức Nhiên đăng
- mới ghi nhận cho,
- bằng cách nói rằng
- ông thành Phật đà
- danh hiệu gọi là
- Thích ca mâu ni --
- Tại sao như vậy,
- vì chữ Như lai
- chính là nghĩa Như
- của tất cả pháp.
- Nếu có ai nói
- Như lai đạt được
- vô thượng bồ đề,
- thì nói như vậy
- là không chính xác,
- bởi vì, trưởng lão,
- thật ra không có
- pháp gì gọi là
- Như lai đạt được
- vô thượng bồ đề.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- Như lai đạt được
- vô thượng bồ đề,
- sự đạt được ấy
- không phải chắc chắn,
- không phải trống rỗng.
- Vì lý do này,
- Như lai tuyên ngôn
- rằng tất cả pháp
- toàn là Phật pháp.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- tất cả pháp ấy
- Như lai đã nói
- phi tất cả pháp,
- nên Như lai nói
- là tất cả pháp.
- (31)
- (1043-1068) Trưởng lão Thiện hiện,
- ví như có người
- thân thể cao lớn...
- Trưởng lão Thiện hiện
- liền bạch Thế tôn,
- thân cao lớn ấy
- thì Ngài đã nói
- phi thân cao lớn,
- thế nên Ngài nói
- là thân cao lớn.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- Bồ tát cũng vậy;
- Bồ tát mà nói
- ta phải làm cho
- vô số chúng sinh
- đều được niết bàn,
- thì không được gọi
- là vị Bồ tát;
- trưởng lão Thiện hiện,
- bởi vì thật ra
- không có pháp gì
- gọi là Bồ tát.
- Vì thế Như lai
- nói tất cả pháp
- không phải ngã nhân
- chúng sinh thọ giả.
- (32)
- (1069-1086) Trưởng lão Thiện hiện,
- nếu Bồ tát nói
- ta phải trang hoàng
- cõi Phật của ta,
- thì không được gọi
- là vị Bồ tát.
- Tại sao, trưởng lão,
- trang hoàng cõi Phật
- thì Như lai nói
- là phi trang hoàng,
- thế nên Như lai
- nói là trang hoàng.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- Bồ tát thấu triệt
- về sự vô ngã,
- Như lai mới nói
- vị ấy đích thực
- là vị Bồ tát.
-
- Đoạn 33 - Đoạn 36
- (33)
- (1087-1138) Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- có đúng Như lai
- hiện có mắt thịt,
- mắt trời phải không?
- Phải, bạch Thế tôn,
- Ngài có mắt thịt
- và có mắt trời.
- Có đúng Như lai
- hiện có mắt tuệ,
- mắt pháp phải không?
- Phải, bạch Thế tôn,
- Ngài có mắt tuệ
- và có mắt pháp.
- Như lai hiện có
- mắt Phật phải không?
- Phải, bạch Thế tôn,
- Ngài có mắt Phật.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- cát trong sông Hằng
- Như lai cũng nói
- là cát phải không?
- Phải, Ngài nói cát.
- Ông nghĩ thế nào,
- có bao nhiêu cát
- trong một sông Hằng
- thì có sông Hằng
- bằng số cát ấy,
- và những cõi Phật
- bằng với số cát
- những sông Hằng này
- thì nhiều hay không?
- Rất nhiều, bạch Ngài.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- bao nhiêu tâm tưởng
- tất cả chúng sinh
- trong những cõi Phật
- được nói như vậy,
- Như lai biết hết.
- Tại sao, trưởng lão,
- Như lai nói rằng
- bao tâm tưởng ấy
- là phi tâm tưởng,
- thế nên Như lai
- nói là tâm tưởng:
- Tâm tưởng quá khứ
- không thể nhận được,
- tâm tưởng hiện tại
- không thể nhận được,
- tâm tưởng vị lai
- không thể nhận được.
- (34)
- (1139-1156) Trưởng lão Thiện hiện,
- giả sử có ai
- đem hết vàng ngọc
- đầy cõi đại thiên
- mà bố thí cả,
- người này vì thế
- được phước nhiều không?
- Rất nhiều, bạch Ngài,
- người này vì thế
- được phước rất nhiều.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- nếu phước có thật
- thì Như lai đã
- không nói phước nhiều,
- nhưng vì phước ấy
- thật là phi phước,
- thế nên Như lai
- nói là phước nhiều.
- (35)
- (1157-1196) Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- có thể hay không
- nhìn thấy Như lai
- bằng cái sắc thân
- toàn hảo đặc tướng?
- Không, bạch Thế tôn,
- không nên nhìn Ngài
- bằng cái sắc thân
- toàn hảo đặc tướng.
- Tại sao như vậy,
- vì cái sắc thân
- toàn hảo đặc tướng
- thì Thế tôn nói
- là phi sắc thân
- toàn hảo đặc tướng,
- đó là lý do
- tại sao Thế tôn
- nói là sắc thân
- toàn hảo đặc tướng.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- có thể hay không
- nhìn thấy Như lai
- bằng các đặc tướng
- toàn hảo tất cả?
- Không, bạch Thế tôn,
- không nên nhìn Ngài
- bằng các đặc tướng
- toàn hảo tất cả.
- Tại sao như vậy,
- vì các đặc tướng
- toàn hảo tất cả
- thì Thế tôn nói
- là phi đặc tướng
- toàn hảo tất cả,
- đó là lý do
- tại sao Thế tôn
- nói là đặc tướng
- toàn hảo tất cả.
- (36)
- (1197-1216) Trưởng lão Thiện hiện,
- đừng nói Như lai
- có cái ý nghĩ
- Như lai thuyết pháp.
- Đừng nói như vậy.
- Lý do tại sao,
- vì nói Như lai
- có sự thuyết pháp
- thì thế chính là
- phỉ báng Như lai --
- Nói thế tức là
- không khéo lĩnh hội
- ý nghĩa đã được
- Như lai tuyên thuyết.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- gọi là thuyết pháp
- là thật không có
- pháp gì để thuyết,
- như thế mới được
- gọi là thuyết pháp.
-
- Đoạn 37 - Đoạn 40
- (37)
- (1217-1234) Lúc ấy Thiện hiện,
- người lấy tuệ giác
- mà làm tính mạng,
- kính bạch Thế tôn,
- có thể có ai
- trong thì vị lai
- nghe Pháp như vầy
- mà tin tưởng không?
- Đức Thế tôn dạy,
- những người như vậy
- không phải chúng sinh
- hay không chúng sinh;
- tại sao, trưởng lão,
- gọi là chúng sinh
- thì Như lai nói
- là phi chúng sinh,
- vì thế Như lai
- gọi là chúng sinh.
- (38)
- (1235-1264) Trưởng lão Thiện hiện
- kính bạch Thế tôn,
- Thế tôn đạt được
- vô thượng bồ đề,
- thật ra là sự
- phi đạt được chăng?
- Đúng, đúng như vậy,
- trưởng lão Thiện hiện;
- Như lai đối với
- vô thượng bồ đề
- không có chút gì
- gọi là đạt được,
- nên được gọi là
- vô thượng bồ đề.
- Thêm nữa, trưởng lão,
- Pháp thì đồng đẳng,
- không bất đồng đẳng,
- thế nên gọi là
- vô thượng bồ đề:
- không có ngã nhân
- chúng sinh thọ giả
- mà làm pháp lành,
- thế thì đạt được
- vô thượng bồ đề.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- gọi là pháp lành
- thì Như lai nói
- là phi pháp lành,
- thế nên Như lai
- gọi là pháp lành.
- (39)
- (1265-1282) Trưởng lão Thiện hiện,
- có người đem cho
- bảy loại vàng ngọc
- chất đống bằng với
- những núi Tu di
- trong cõi đại thiên,
- và có người khác
- tiếp nhận ghi nhớ
- dầu chỉ bốn câu
- bản kinh Bát nhã
- ba la mật này,
- và nói cho người,
- thì phước người trước
- không bằng phần trăm,
- phần ngàn vạn ức,
- toán pháp, ví dụ,
- cũng không bằng được
- một phần nào cả.
- (40)
- (1283-1308) Trưởng lão Thiện hiện,
- các vị đừng nói
- Như lai nghĩ rằng
- Như lai giải thoát
- các loại chúng sinh;
- trưởng lão Thiện hiện,
- đừng nghĩ như vậy,
- vì thật không có
- một chúng sinh nào
- Như lai giải thoát.
- Nếu có chúng sinh
- Như lai giải thoát,
- thì thế chính là
- Như lai đã có
- ý tưởng ngã nhân
- chúng sinh thọ giả.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- ý tưởng về ngã
- thì Như lai nói
- phi ý tưởng ngã,
- nhưng người tầm thường
- thì bảo là ngã.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- người tầm thường ấy
- Như lai nói là
- phi người tầm thường.
- Đoạn 41 - Đoạn 44
- (41)
- (1309-1348) Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- phải chăng có thể
- nhìn thấy Như lai
- bằng ba mươi hai
- đặc tướng siêu nhân?
- Kính bạch Thế tôn,
- theo chỗ con hiểu
- nghĩa của Ngài dạy,
- không thể nhìn Ngài
- bằng ba mươi hai
- đặc tướng siêu nhân.
- Đức Thế tôn dạy,
- trưởng lão Thiện hiện,
- thật đúng như vậy,
- bởi vì nếu nhìn
- ba mươi hai nét
- đặc tướng siêu nhân
- mà cho có thể
- nhìn thấy Như lai,
- thì Chuyển luân vương
- cũng là Như lai.
- Thế nên không thể
- nhìn thấy Như lai
- bằng ba mươi hai
- đặc tướng siêu nhân;
- hãy nhìn Như lai
- bằng cách nhìn thấy
- tất cả đặc tướng
- là phi đặc tướng.
- Bấy giờ Thế tôn
- nói chỉnh cú này:
- "Nếu đem sắc tướng
- nhìn thấy Như lai,
- hoặc đem âm thanh
- nhận thức Như lai,
- thì những người ấy
- đã đi lạc đường,
- không còn thể nào
- thấy biết Như lai".
- (42)
- (1349-1360) Trưởng lão Thiện hiện,
- nếu ông nghĩ rằng
- Như lai không do
- đặc tướng toàn hảo
- mà được tuệ giác
- vô thượng bồ đề,
- thì này, trưởng lão,
- đừng nghĩ như vậy,
- rằng ta, Như lai,
- không do đặc tướng
- toàn hảo mà được
- vô thượng bồ đề.
- (43)
- (1361-1372) Trưởng lão Thiện hiện,
- nếu ông nghĩ rằng
- những người phát tâm
- vô thượng bồ đề
- nói rằng các pháp
- là tiêu diệt hẳn,
- thì đừng nghĩ thế,
- tại sao, bởi vì
- những người phát tâm
- vô thượng bồ đề
- đối với các pháp
- không nói tiêu diệt.
- (44)
- (1373-1400) Trưởng lão Thiện hiện,
- một vị Bồ tát
- đem cho tất cả
- bảy loại vàng ngọc
- chất đầy thế giới
- như cát sông Hằng;
- vị Bồ tát khác
- biết tất cả pháp
- toàn là vô ngã,
- thành được sức Nhẫn,
- thì Bồ tát này
- hơn Bồ tát trước.
- Lý do là vì,
- trưởng lão Thiện hiện,
- Bồ tát thì không
- tiếp nhận phước đức.
- Trưởng lão Thiện hiện
- kính bạch Thế tôn,
- tại sao Bồ tát
- không nhận phước đức?
- Bởi vì, Thiện hiện,
- Bồ tát làm hết
- mọi sự phước đức,
- thế nhưng không nên
- tham đắm phước đức,
- Như lai do vậy
- nói là không nhận
- mọi sự phước đức.
-
- Đoạn 45 - Đoạn 48
- (45)
- (1401-1412) Trưởng lão Thiện hiện,
- nếu nói Như lai
- có đến, có đi,
- có ngồi, có nằm,
- thì người nói ấy
- không hiểu ý nghĩa
- Như lai đã nói.
- Tại sao như vậy,
- bởi vì Như lai
- không đến từ đâu,
- không đi về đâu,
- nên gọi Như lai.
- (46)
- (1413-1430) Trưởng lão Thiện hiện,
- có ai nghiền nát
- thế giới đại thiên
- thành ra vi trần,
- thì ông nghĩ sao,
- những vi trần ấy
- là nhiều hay ít?
- Rất nhiều, bạch Ngài.
- Tại sao, bởi vì
- những vi trần ấy
- nếu là thật có,
- thì Ngài không nói
- là những vi trần --
- Thế nhưng vi trần
- thì Ngài đã nói
- là phi vi trần,
- do đó Ngài nói
- là những vi trần.
- (47)
- (1431-1454) Và bạch Thế tôn,
- cái mà Ngài nói
- thế giới đại thiên
- thì phi thế giới,
- vì thế nên được
- gọi là thế giới.
- Tại sao như vây,
- bởi vì nếu nói
- thế giới thật có,
- thì đó chỉ là
- ý tưởng hợp nhất --
- Ý tưởng hợp nhất
- thì Ngài nói phi
- ý tưởng hợp nhất,
- nên được gọi là
- ý tưởng hợp nhất.
- Đức Thế tôn dạy,
- trưởng lão Thiện hiện,
- ý tưởng hợp nhất
- thì không là gì
- để mà nói cả,
- nhưng người tầm thường
- đam mê dính mắc
- cái sự như vậy.
- (48)
- (1455-1478) Trưởng lão Thiện hiện,
- nếu có ai nói
- Thế tôn nói về
- ý tưởng ngã nhân
- chúng sinh thọ giả,
- thì này, trưởng lão,
- ông nghĩ thế nào,
- người đó có hiểu
- ý nghĩa Như lai
- đã nói hay không?
- Không, bạch Thế tôn,
- người ấy không hiểu
- ý nghĩa đã được
- Thế tôn nói ra.
- Lý do tại sao,
- vì Thế tôn nói
- ý tưởng ngã nhân
- chúng sinh thọ giả
- thì tức là phi
- ý tưởng ngã nhân
- chúng sinh thọ giả,
- thế nên gọi là
- ý tưởng ngã nhân
- chúng sinh thọ giả.
-
- Đoạn 49 - Đoạn 52
- (49)
- (1479-1494) Trưởng lão Thiện hiện,
- những người phát tâm
- vô thượng bồ đề,
- thì với các pháp
- hãy biết như vậy,
- hãy thấy như vậy,
- tin tưởng, lĩnh hội
- cũng là như vậy:
- đừng nên trú ở
- nơi ý tưởng pháp.
- Trưởng lão Thiện hiện,
- nói ý tưởng pháp
- thì Như lai nói
- phi ý tưởng pháp,
- vì thế mới gọi
- là ý tưởng pháp.
- (50)
- (1495-1512) Trưởng lão Thiện hiện,
- nếu có người nào
- đem cho tất cả
- bảy loại vàng ngọc
- chất đầy vô lượng
- vô số thế giới,
- và có người khác,
- không kể thiện nam
- hay là thiện nữ,
- đối với pháp thoại
- Bát nhã như vầy,
- tiếp nhận, ghi nhớ,
- nghiên cứu, tụng thuộc,
- diễn tả cho người,
- thì dầu chỉ được
- chỉnh cú bốn câu,
- phước họ đạt được
- vẫn hơn người trước.
- (51)
- (1513-1528) Diễn tả cho người
- bằng cách thế nào?
- Bằng cách đừng nắm
- ý tưởng về pháp,
- mà như sự Như
- chứ không dao động.
- Tại sao mà phải
- diễn tả cách ấy?
- "Bởi vì tất cả
- các pháp hữu vi
- toàn là giống như
- chiêm bao, ảo thuật,
- bóng nước, ảnh tượng,
- sương mai, điện chớp;
- rất cần phải có
- cái nhìn như vậy".
- (52)
- (1529-1544) Khi đức Thế tôn
- tuyên thuyết hoàn tất
- bản kinh Kim cương
- bát nhã này rồi,
- trưởng lão Thiện hiện,
- các vị tỷ kheo
- và tỷ kheo ni,
- những cận sự nam
- và cận sự nữ,
- toàn thể thế giới
- chư thiên, nhân loại,
- và a tu la,
- được nghe những điều
- Thế tôn tuyên thuyết,
- ai cũng hoan hỷ,
- tín thọ, phụng hành.
-
- Hồi Hướng
- Nghĩa lý kinh Kim cương
- là ngoài tầm nghĩ bàn,
- phước đức kinh Kim cương
- cũng siêu việt như vậy.
- Nay con được tụng niệm,
- cầu nguyện cùng chúng sinh
- ở trong cảnh giới này
- mà thấy phi cảnh giới,
- và chính nơi thân này
- mà thấy là Phật thân.
-
- Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni thế tôn (3 lần)
- Kính lạy đức Thích ca mâu ni thế tôn, cùng hết
thảy Phật bảo.
- Kính lạy kinh Kim cương bát nhã ba la mật, cùng hết
thảy Pháp bảo.
- Kính lạy tôn giả Thiện hiện, cùng hết thảy Tăng
bảo.
http://buddhismtoday.com/viet/kinh/dt/010-kimcuong.htm
Chân
thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh
Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000
| Phần chính văn | Phần giải
thích | Phần ghi chú |
|
|