...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
Kinh
Kim Cương
HT. Thích Trí Quang dịch giải
- Ghi Chú (1)
- Có 2 chỗ mà tôi cho là thêm rõ ràng: thêm 5 tên
vào 4 tên của ngã chấp (ví dụ như đoạn 8) và thêm 3 nghĩa nữa sau
nghĩa Như lai là Như của các pháp (đoạn 30). Có nhiều chứng cớ cho thấy
có trường hợp nói bản này thiếu bản kia đủ không bằng nói bản này
nguyên bản kia thêm.
-
-
- Ghi Chú (2)
- Lời tựa của Hd (Chính 7/979) nói Kim cương trước
sau có 5 bản dịch (trừ Nd, bấy giờ chưa có) không cũ không mới, càng
luyện càng sáng. Lời này xác đáng.
-
-
- Ghi Chú (3)
- Chỉ A tỳ đạt ma phát trí luận và tác giả là
Ca đa diễn ni tử. Đại tỳ bà sa chỉ là giải thích tác phẩm này.
-
-
- Ghi Chú (4)
- Xin liệt kê sơ khởi 16 điều dưới đây để thấy
những đoạn văn giống nghĩa khác hay nghĩa giống văn khác. Giống và khác
như thế nào, tạm coi phân khoa tiêu đề cũng biết được.
- 1. 2 câu hỏi căn bản: 3, 29.
- 2. sửa chữa tâm: 5, 29.
- 3. trú ở tâm (không trú ở): 6, 13, 23, 49.
- 4. nhìn tướng hảo của Phật: 7,19, 35, 41, 42.
- 5. không nắm lấy các pháp: 8, 9, 49.
- 6. không thuyết pháp: 9, 17, 36.
- 7. không được pháp: 9, 12, 30, 38.
- 8. phước là phi phước: 10, 34, 44.
- 9. thân lớn: 14, 31.
- 10. trang hoàng cõi Phật: 13, 32.
- 11. chỗ nói Kim cương là đặc biệt: 15, 26.
- 12. bát nhã phi bát nhã: 16, 21.
- 13. vi trần và thế giới: 18, 46, 47.
- 14. chúng sinh phi chúng sinh: 23, 37, 40.
- 15. phi ngã: 21, 40, 48.
- 16. Như lai: 21, 30, 45.
-
-
- Ghi Chú (5)
- Chỉ là hóa thành, chưa phải bảo sở. Coi Pháp
hoa phẩm 7.
-
-
- Ghi Chú (6)
- Tái sinh ở đây là ngoại đạo nói người vẫn
sinh lại làm người, vật vẫn sinh lại làm vật, không thay đổi, nhất là
không có gì thay đổi vì hành vi. Do đó, tái sinh ở đây không phải như
nghĩa luân hồi.
-
-
- Ghi Chú (7)
- Tái sinh ở đây là ngoại đạo nói người vẫn
sinh lại làm người, vật vẫn sinh lại làm vật, không thay đổi, nhất là
không có gì thay đổi vì hành vi. Do đó, tái sinh ở đây không phải như
nghĩa luân hồi.
-
-
- Ghi Chú (8)
- Ấy là nói đến câu sinh (bản năng) và phân biệt
(lý thuyết) của ngã chấp.
-
-
- Ghi Chú (9)
- Thấy con người với thấy con người ấy đáng
ghét hay đáng ưa, thấy con người ấy là gì của mình ..., 2 cái thấy ấy,
thấy đối cảnh và thấy đối tượng, khác nhau cũng xa lắm. Và biết vì
sao mà khác nhau thì biết sự bị lừa dối là gì.
-
-
- Ghi Chú (10)
-
- Hd phần nhiều đủ cả sở ngôn, tức phi và thị
danh. Tức phi và thị danh còn nói rõ Phật nói cả.
-
-
- Ghi Chú (11)
-
- Coi mục C điều 8 của Dẫn nhập, lại coi ghi chú
104 của đoạn 30.
-
-
- Ghi Chú (12)
- Nói như vầy cũng như Tâm kinh nói sắc tức
không, không tức sắc: nói rằng sắc thì sắc ấy Phật nói là phi sắc,
và đó là lý do tại sao Ngài nói là sắc.
-
-
- Ghi Chú (13)
- Cắt nghĩa sở ngôn, tức phi và thị danh như ở
đây nói thì chỉ là 1 cách. Cách này tôi chọn. Ngoài ra còn 2 cách nữa.
Cách thứ nhất thì tùy chỗ mà cắt nghĩa, không mấy chỗ giống nhau hay gần
giống nhau. Cách thứ hai thì phần nhiều lấy chân đế tục đế (thật
nghĩa và giả danh) mà nói: chúng ta nói A, A đó Phật nói theo chân đế là
phi A, và vì vậy Phật nói theo tục đế là A. Cả 2 cách đều có nhiều vị
sử dụng, có vị sử dụng cả 2 cách.
-
-
- Ghi Chú (14)
- Phát tâm, rú tâm và hàng tâm ở đây, đúng
chính văn Kim cương nói ngay trong phần mở đầu thì quá rõ ràng để nói
là tín thành tựu phát tâm (phát huy tâm bằng sự tin hoàn hảo) của Khởi
tín luận.
-
-
- Ghi Chú (15)
- Trong thì gian, 1 người nay dầu thế này mà mai
có thể thế khác: nay là chúng sinh nhưng mai là Phật. Xác quyết như vậy
nên phát nguyện độ sinh.
-
-
- Ghi Chú (16)
- Coi ghi chú 18 .
-
-
- Ghi Chú (17)
- Tham khảo đoạn 30 và ghi chú 104 của đoạn ấy.
-
-
- Ghi Chú (18)
- Chủ trương chết rồi mất hẳn. Vạn hữu cũng
vậy, không phải chỉ là chuyển biến mà là biến mất.
-
-
- Ghi Chú (19)
-
- Gần đây có 1 số hay nói đại thừa là chế biến,
nguyên thỉ mới nguyên chất. Cách nói như vậy thật thiếu nghiêm chỉnh.
Nói nguyên thỉ mà không biết, hay biết mà không nói, 3 tạng Paly cũng không
nguyên thỉ bao nhiêu -rằng 3 tạng ấy chép thành văn bản không sớm hơn
116 năm (Thiện kiến luật nói 218 năm) sau Phật niết bàn, rằng nội dung
có cả chuyện sinh hoạt của A dục vương, chưa kể giáo lý như 12 nhân
duyên, giáo chế như an cư, thực sự là chế biến từ dị giáo. Còn nói
đại thừa thì chỉ nói theo mấy ông đồ Âu Myՠphiến diện và xuyên tạc,
chứ tự mình không quán triệt đại thừa chút nào. Kim cương đáng được
đọc tụng cho bớt ngã chấp đi là phải.
-
-
- Ghi Chú (20)
- Nước Xá vệ.- Xá vệ vốn là tên thủ đô nước
Kiều tát la (nên gọi là thành Xá vệ). Sau vì để khác với nước Kiều
tát la ở nam bộ Ấn nên lấy tên Xá vệ làm quốc hiệu luôn. Xá vệ có
nghĩa là Nổi tiếng. Thời Phật, đấy là nước của Ba tư nặc vương,
thuộc tây bắc bộ Ấn.
-
- Ghi Chú (21)
- Chiến thắng Thiện thí.- Chiến thắng (hay Thắng)
là dịch nghĩa tên vương tử Kỳ đà. Thiện thí (khéo cho) hay Cấp cô độc
(chu cấp những người cô độc) là dịch nghĩa tên trưởng giả Tu đạt
đa. Chiến thắng Thiện thí (hay Thắng Cấp cô độc) là liên danh 2 người
này để gọi khu vườn rừng mà họ chung nhau hiến Phật. Ở đó có tinh
xá Kỳ viên, nơi Phật thuyết Kim cương.
-
-
- Ghi Chú (22)
- Sau câu này, Nd và Ecd thêm: và các đại bồ tát.
-
-
- Ghi Chú (23)
- Sửa y, cầm bát.- Y là y ca sa, bát là bát ứng
khí.
-
-
- Ghi Chú (24)
- Tuần tự khất thực.- Là khất thực hết đường
này đến đường khác, hết nhà này qua nhà khác, không lựa chọn, dầu
được hiến cúng hay không, và chưa giáp vòng thì không trở lại trên 1
đường, đến lại nơi 1 nhà.
-
-
- Ghi Chú (25)
- Trải đồ lót lót chỗ mà ngồi.- (a) Dịch rõ như
vậy là tham chiếu Cd. Chỗ ngồi của Phật có thể do Ngài tự sắp, hoặc
do người sắp cho như Nd và Ecd dịch, nhưng ai sắp đi nữa thì trước khi
ngồi, Phật cũng tự trải tọa cụ lót chỗ ấy rồi mới ngồi. Phép của
tỷ kheo là như vậy. (b) Sau câu này, các bản dịch khác đều thêm
:"mà ngồi xếp bằng, thẳng mình, tập trung tư tưởng như đối trước
mặt. Các vị tỷ kheo đến chỗ Ngài, lạy ngang chân và đi quanh Ngài 3
vòng rồi ngồi xuống một bên". Có người chú thích tập trung tư tưởng
như đối trước mặt là Phật nhập đại định Bát nhã, và thuyết Kim cương
là sự biểu hiện kỳ diệu của đại định này. Thêm và cắt nghĩa như
vậy không khỏi khuôn sáo và mất đi sự giản dị của Phật đáng có ở
đây.
-
-
- Ghi Chú (26)
- Thiện hiện.- Là chữ Hd dịch nghĩa tên ngài Tu bồ
đề. Các vị khác dịch Không sinh, Thiện cát, Thiện thật, Diệu sinh, đều
cùng nghĩa. Ngài Thiện hiện là vị lĩnh hội về Không hơn hết trong các
vị đại đệ tử của Phật.
-
-
- Ghi Chú (27)
- Nâng đỡ.- Chính văn là hộ niệm, nghĩa đen là
giữ gìn thương tưởng, trong đó có hàm ý truyền đạt cảm hứng.
-
-
- Ghi Chú (28)
- Giao phó.- Chính văn là phó chúc, nghĩa đen là
phó thác căn dặn.
-
-
- Ghi Chú (29)
- Phát tâm nguyện vô thượng bồ đề.- Có bản dịch
phát thú đại thừa (khởi hành bằng đại thừa), có bản dịch cả 2 từ
ngữ: phát tâm bồ đề mà tu hành đại thừa, hay ở trong đại thừa mà
phát tâm bồ đề. Thật ra nên dịch 1 trong 2 từ ngữ thôi, vì 2 từ ngữ
ấy chỉ có 1 nghĩa. Dầu vậy, dịch phát bồ đề tâm thì sát chữ nghĩa
của chính văn hơn cả, nhất là ăn khớp với câu đáp của Phật ở sau.
-
-
- Ghi Chú (30)
- a.- Cả 2 ghi chú 29 ở trên và 30 ở đây, phải
coi lại Dẫn nhập điều 7 mục d.
- b.- Các bản dịch khác có 3 câu hỏi: ở thế
nào, tu thế nào và sửa thế nào. Thêm tu thế nào là thừa, vì ở với sửa
là tu, nhất là thêm như vậy thì phân 3 câu đáp của Phật rất miễn cưỡng.
-
-
- Ghi Chú (31)
- Có không tư tưởng.- Dịch sát và rõ: hoặc
không phải có tư tưởng không phải không tư tưởng.
-
-
- Ghi Chú (32)
- Niết bàn hoàn toàn.- Là vô dư niết bàn. Đối lại,
niết bàn chưa toàn là hữu dư niết bàn. Chưa toàn là mới hết tập đế,
hoàn toàn là hết khổ đế nữa.
-
-
- Ghi Chú (33)
-
- Giải thoát.- Ở đây chính văn là diệt độ (dứt
tuyệt, vượt qua). Giải thoát hay diệt độ đều là nghĩa của chữ niết
bàn.
-
-
- Ghi Chú (34)
- Ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả.- Coi lại
Dẫn nhập điều 7 mục b.
-
-
- Ghi Chú (35)
- Pháp.- Pháp ở đây chỉ cho 6 cảnh nói ở dưới,
nhưng cũng có nghĩa rộng hơn là chỉ cho vạn hữu, bao gồm hết thảy tâm
vật, ngã pháp, nhiễm tịnh, có không ... Trong nghĩa rộng này, pháp không
những là những thứ cụ thể, mà những sự lệ thuộc những thứ ấy cũng
là pháp. Nên cây bút là pháp, mà cây bút ấy dài hay ngắn, cũ hay mới, đẹp
hay xấu, hữu ích hay vô dụng, cũng là pháp cả. Một ý tưởng cũng vậy,
nó là 1 pháp, nhưng nó thiện hay ác, lợi hay hại, đúng hay sai, cũng toàn
là pháp. Pháp, như vậy, là không đơn thuần; mỗi pháp chính là và nghĩa
là một khái niệm, biểu thị sự tổ hợp bao nhiêu là dữ kiện, đối
chiếu, kinh nghiệm ... Thế nên có, không, phi có, phi không, toàn là pháp,
và vì thế nên các pháp đều tự nói lên cái Phi của mỗi pháp.
-
-
- Ghi Chú (36)
- Trú ở.- Ở đây nghĩa là đam mê, vướng mắc, lấy
làm đất đứng, làm yếu tố hỗ trợ.
-
-
- Ghi Chú (37)
- Bố thí.- Theo các vị chú giải, bố thí ở đây,
và những chỗ tương tự, là gồm cả các pháp ba la mật khác nữa, trừ
ba la mật căn bản là bát nhã.
-
-
- Ghi Chú (38)
- Không ở nơi sắc đến hương vị xúc pháp.- Sắc
thanh hương vị xúc pháp, tạm dịch: hình sắc, âm thanh, hơi hướng, mùi vị,
tiếp xúc và ấn tượng. Ở đây cũng nên dịch 1 chiều: sắc đẹp, tiếng
hay, hơi thơm, mùi ngon, xúc khoái, bóng thích. Sáu thứ này hay gọi là 6 trần
(6 loại bụi bặm làm mờ tâm trí), hoặc gọi là 6 cảnh (6 đối cảnh của
6 thức). Sáu thứ này bao gồm mọi tài sản ở trong (là thân thể, sức lực,
tư tưởng) và tài sản ở ngoài (tiền của, tư liệu để sống, hưởng
thụ). Trú ở 6 trần mà bố thí là cho người những thứ ấy mà kể, mà
ỷ, nhất là cầu kết quả (mong được những thứ ấy mà nhiều và tốt
hơn lên). Không trú ở mà bố thí là thuận theo bản thể không keo lẫn
nên cho mà không thấy người cho, của cho và người nhận. Trú ở là ngã
chấp, không trú ở là bát nhã.
-
-
- Ghi Chú (39)
- Đặc tướng.- Ở đây chính văn là thân tướng,
dịch đủ là tổng thể hoàn hảo mọi đặc tướng siêu nhân; tức là chỉ
cho cái thân trượng lục của Phật đủ 32 tướng đại trượng phu (hay đại
sĩ phu). Chư thiên, các loài khác, loài người mà trong đó có các vị Thanh
văn và các vị Bồ tát mới phát tâm, chỉ thấy Phật qua cái thân này -
-
-
- Ghi Chú (40)
- Hễ có đặc tướng đến thì thấy Như lai.- Đặc
tướng ở đây, chính văn là tướng, tham chiếu các bản dịch khác thì biết
tướng ấy chỉ cho đặc tướng của Phật, mặc dầu chữ tướng ấy có
thể bao gồm mọi hiện tượng. Giả dối ở đây là nói dối, gian trá, lừa
phỉnh. Như lai ở đây là nói Phật là biểu tượng của Như (coi ghi chú
104 của đoạn 30 và mục c điều 7 của Dẫn nhập). Trọn câu này được
biết Td dịch tắt, và vì vậy rất độc đáo, chuyển văn bao nhiêu sát ý
bấy nhiêu, hơn hẳn các bản khác dịch như sau: đặc tướng toàn hảo đi
nữa cũng là giả dối, phi đặc tướng mới là trung thực; như vậy nên
đem đặc tướng là phi đặc tướng mà nhìn Như lai (nên nhìn Như lai bằng
cách thấy đặc tướng là phi đặc tướng; Ecd sót câu này).
-
-
- Ghi Chú (41)
- Pháp thoại.- Chính văn là ngôn thuyết chương cú,
nói nôm na là bài thuyết pháp, hội thoại về pháp. Pháp thoại ở đây chỉ
kinh Kim cương này, nhưng xác hơn thì là pháp thoại vừa nói đoạn trên.
-
-
- Ghi Chú (42)
- Năm trăm năm sau.- Có 3 chỗ nói đến là các đoạn
8, 21, 28. Đối chiếu 3 chỗ ấy của Td, lại đối chiếu Td với các bản
khác, thì biết các bản khác có ý nói 500 năm sau là 500 năm thứ 5 của 5
lần 500 năm sau Phật nhập diệt; còn Td thì 2 chỗ sau có thể cũng là ý
này, nhưng ở đây, và chỗ khác như Đại trí độ luận, thì 500 năm sau có
ý chỉ cho hậu bán thiên kỷ thứ nhất sau Phật nhập diệt, tức 500 năm
thứ 2 trong 5 lần 500 năm. Ý này cũng không cốt nói chánh pháp tượng pháp
gì, mà thực sự là thì gian các bộ phái tiểu thừa rộn ràng đến nỗi
rõ ràng là đấu tranh kiên cố.
-
-
- Ghi Chú (43)
- Có ai giữ giới, làm phước, tu tuệ.- Chính văn
Td chỉ có giữ giới và làm phước. Tu tuệ là căn cứ các bản khác mà bổ
túc. Td tại sao không có tu tuệ thì không biết được, chỉ biết nói giữ
giới, làm phước và tu tuệ mới tin nổi Kim cương là nói thông thường,
còn chỉ nói giữ giới và làm phước là có ý nói những sự này sẽ
phát tuệ, có khi phát đột ngột, thần kỳ nữa: điều này thì đáng quan
tâm.
-
-
- Ghi Chú (44)
- Như lai cũng vẫn biết và thấy rõ. - Được biết
nói rõ là Như lai đem tuệ giác của Như lai mà biết rõ, Như lai đem mắt
Phật của Như lai mà thấy rõ. Phước đức Kim cương phi con mắt và tuệ
giác của Phật thì không dễ thấy ra và biết hết.
-
-
- Ghi Chú (45)
- Tại sao như vậy đến và về phi pháp.- Đoạn này
Td như vậy là chỉ có 3: ngã, pháp, phi pháp. Các bản khác dịch 5, thêm tưởng,
phi tưởng. Có thể Td cho 2 thứ này cũng là pháp và phi pháp nên lược bỏ
--Như thế xét ra có lý hơn về văn cũng như ý. Nghĩa của 3 thứ ngã,
pháp, phi pháp, coi ghi chú 46 dưới đây.
-
-
- Ghi Chú (46)
- Nếu những người này đến huống chi phi pháp.-
Chiếc bè để từ bờ nguy hiểm bên này vượt qua bờ an toàn bên kia.
Pháp của Phật dạy là như chiếc bè ấy. Bờ bên này là sinh tử. Bờ
bên kia là niết bàn. Dòng sông là ác pháp phiền não. Qua bên kia rồi bỏ
bè mới lên bờ được --trừ ra sau đó dùng bè ấy trở lại đưa người
khác cùng qua với. Pháp là thiện pháp của Phật dạy, đối lại, phi pháp
là ác pháp mà thiện pháp đối trị. Phi pháp tệ hơn pháp. Như vậy pháp
và phi pháp trong 3 thứ (hay 5 thứ) trên, cắt nghĩa cao và hay đến mấy mà
không ăn khớp với từ và ý của ví dụ thì vẫn thấy khó thông. Nay tạm
lấy ý của bồ tát Công đức thi (Chính 25/889) và đại sư Tăng triệu (Vạn
38/200B) mà cắt nghĩa như sau, khá thấp và dễ. Ngã là ngã chấp (gồm cả
nhân, chúng sinh và thọ giả của ngã chấp ấy). Pháp là chấp có (gồm cả
thường kiến của ngoại đạo và pháp số 5 uẩn của tiểu thừa). Phi
pháp là chấp không (gồm cả đoạn kiến của ngoại đạo và ác thủ
không của đại thừa). Cả 3 ý tưởng này toàn là ngã mà biến thể (nên
chính văn nói còn ý tưởng, còn ý tưởng pháp, còn ý tưởng phi pháp,
thì toàn là còn ngã nhân chúng sinh thọ giả). Vậy ý tưởng là phi pháp,
bát nhã là pháp: pháp này đối trị phi pháp kia, khi phi pháp kia hết rồi
thì pháp này cũng hết.
-
-
- Ghi Chú (47)
- Vô thượng giác.- Là gọi tắt từ ngữ vô thượng
chánh đẳng giác (a nậu đa la tam miệu tam bồ đề).
-
-
- Ghi Chú (48)
- Phải chăng Như lai được vô thượng giác? phải
chăng Như lai có sự thuyết pháp?.- 2 câu hỏi này cho thấy Phật pháp (hay
Pháp) có 2: Một, Phật pháp là pháp của Phật chứng, tức những công đức
mà Phật thực hiện: là tuệ giác vô thượng, và Như của tuệ giác ấy
chứng ngộ; là thuộc tính của tuệ giác ấy, như 10 lực, 18 bất cọng,
v/v. Hai, Phật pháp là pháp của Phật nói, tức những giáo lý mà Phật
khai thị, những tiếng nói diễn đạt pháp của Phật chứng.
-
-
- Ghi Chú (49)
- Pháp.- Pháp ở đây là Như (Vô vi). Coi ghi chú 48
ở trên (điều một) và ghi chú 6 ở dưới.
-
-
- Ghi Chú (50)
- Không phải là pháp, không phải phi pháp.- Không
phải những khái niệm khẳng định hay phủ định theo sự chấp trước.
-
-
- Ghi Chú (51)
- Hiền thánh.- Là mượn thành ngữ của Trung hoa
mà dịch. Dịch rõ có lẽ nên nói là các vị giải thoát (chưa toàn và
hoàn toàn).
-
-
- Ghi Chú (52)
- Toàn do Vô vi biểu hiện khác nhau.- Biểu hiện
là chữ của Hd và các bản khác. Vô vi, Chd là Vô vi chân như, do đó biết
Vô vi ở đây là Như (coi ghi chú 104 của đoạn 30). Tùy sự hội nhập
Chân như vô vi chưa toàn hay đã toàn mà biểu hiện các địa vị giải thoát
chưa toàn hay đã toàn.
-
-
- Ghi Chú (53)
- Chỉ Cd và Ecd thêm: hiến cúng các đức Như lai,
cúng, Chánh biến tri. Nhưng không thêm như vậy thì hơn.
-
-
- Ghi Chú (54)
- Đại thiên thế giới.- Gọi đủ là tam thiên đại
thiên thế giới: thế giới hệ gồm 1 tỷ thế giới, Ecd nói tương
đương thiên hà.
-
-
- Ghi Chú (55)
- Tính phi phước đức.- Chính văn là phi phước đức
tính. Chữ tính ở đây là chữ duy nhất đi với chữ Phi. Tra xét thì Td quả
có, không phải sau này thêm vào. Nhưng các bản khác không có. Như vậy có
lẽ nên hiểu Td đặt chữ tính ở đây để nhắc ta nhớ đến Như, dẫu
rằng chữ Phi (siêu việt) đã là nói đến Như.
-
-
- Ghi Chú (56)
- Chỉnh cú 4 câu.- Chính văn là tứ cú kệ, chỉ
cho 1 đơn vị trong lối tính chữ xưa của kinh sách Phật giáo Ấn, cứ 32
chữ, bất cứ bắt đầu từ đâu, là 1 kệ 4 câu, mỗi câu 8 chữ. Nói chỉnh
cú 4 câu cũng như nói 1 đoạn có ý nghĩa chính yếu của pháp thoại.
-
-
- Ghi Chú (57)
- Phật pháp.- Coi ghi chú 59 dưới đây.
-
-
- Ghi Chú (58)
- Pháp thoại.- Ở đây vừa chỉ đoạn kinh này vừa
chỉ bản kinh này, nhưng chỉ bản kinh này nhiều hơn.
-
-
- Ghi Chu (59)
- Phật pháp.- Coi ghi chú 48 (điều một) ở trên.
-
-
- Ghi Chú (60)
-
- Thế nên Như lai nói là Phật pháp.- Câu này Td
không có, Bd cũng vậy, nhưng các bản còn lại đều có, nên phải tổ
túc. Xét có thì đúng hơn.
-
-
- Ghi Chú (61)
- Vào dòng nước.- Là nghĩa của chữ dự lưu hay
nhập lưu: ngược với dòng đời mà nhập vào dòng giải thoát.
-
-
- Ghi Chú (62)
- Trừ Td, Bd và Chd, các bản còn lại, sau câu này
còn thêm: Nếu Tu đà hoàn nghĩ rằng ta được đạo quả Tu đà hoàn, thì
thế là chấp ngã nhân chúng sinh thọ giả. Thêm như vậy thật cần thiết
và chính xác. Câu này còn phải có sau 3 đạo quả kế tiếp. Td chỉ có
sau đạo quả La hán, như vậy có lẽ biểu thị 3 đạo quả trước không
có là dịch lược đi.
-
-
- Ghi Chú (63)
- Một trở lại.- Là nghĩa của chữ nhất lai: một
lần nữa trở lại nhân gian và lục dục thiên.
-
-
- Ghi Chú (64)
- Không trở lại.- Là nghĩa của chữ bất lai hay bất
hoàn: không còn như nhất lai.
-
-
- Ghi Chú (65)
- Nên được mệnh danh là A la hán.- Là lấy Hd mà
bổ túc.
-
-
- Ghi Chú (66)
- Nếu vị La hán đến chấp trước thọ giả.- Là
nói La hán tự mãn tự đắc thì thế chính là ngã chấp. Câu này phải có
cả nơi 3 đạo quả trước và cùng nghĩa.
-
-
- Ghi Chú (67)
- Định Không cãi.- Một phép định có đặc tính
an bình, không xung đột.
-
-
- Ghi Chú (68)
- Làm theo chánh định Không cãi.- Làm theo, chính văn
là hành, cũng có thể dịch đi theo. Có bản dịch trú: ở trong, cùng nghĩa.
Nhưng ở trong hay đi theo, làm theo gì cũng có nghĩa là sống trong, sống
theo.
-
-
- Ghi Chú (69)
- Trang hoàng cõi Phật.- Cõi Phật, chính văn là Phật
độ, gồm một hay nhiều đại thiên thế giới làm một cõi mà một đức
Phật làm hóa chủ. Cõi Phật như vậy, trong nghĩa hóa thân hóa độ thì
không nhất thiết là tịnh độ như Cực lạc hay uế độ như Sa bà, mà
là hoàn toàn tùy bản nguyện của đức Phật hóa chủ; nhưng trong nghĩa báo
thân báo độ thì tất cả đều là tịnh độ, và tịnh độ Sa bà thì coi
Pháp hoa các phẩm 11 và 16. Còn trang hoàng cõi Phật là Bồ tát hạnh. Nói
tổng quát, Bồ tát hạnh là tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh:
làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh.
-
-
- Ghi Chú (70)
- Riêng Hd ở đây có thêm và tóm tắt như sau: không
ở nơi lục trần, không ở nơi phi lục trần.
-
-
- Ghi Chú (71)
- Tương truyền lục tổ Huệ năng nghe ngũ tổ Hoằng
nhẫn giảng đến câu này thì đốn ngộ, thốt lên 5 tiếng không ngờ nổi
tiếng (coi Dẫn nhập điều 1), tỏ ra hiểu Kim cương một cách xứng đáng
là sự đốn ngộ của một vị tổ sư.
-
-
- Ghi Chú (72)
- Tại sao, bởi vì đến đó là thân lớn.- Đoạn
này Td lược mà độc đáo. Hd như sau, cũng rõ: tại sao, vì thân lớn thì
Ngài nói thân lớn ấy là phi thân lớn; (vì là phi thân lớn) nên gọi là
thân lớn, chứ không phải vì là thân lớn mà gọi là thân lớn.
-
-
- Ghi Chú (73)
- Trừ Chd và Td, các bản khác thêm vào câu này như
sau: mà phụng hiến Phật. Nhưng không thêm thì đúng hơn.
-
-
- Ghi Chú (74)
- Đoạn 15 này có 4 chữ pháp thoại, đều có nghĩa
như ghi chú 58 của đoạn 10.
-
-
- Ghi Chú (75)
- Bốn câu.- Là nói tắt câu chỉnh cú 4 câu. Các
đoạn sau đây, chỗ nào có chữ ấy thì cũng đồng nghĩa.
-
-
- Ghi Chú (76)
- Đem nói cho bao người khác.- Đem nói là giới thiệu,
loan báo và giảng dạy.
-
-
- Ghi Chú (77)
- Giảng nói cho người.- Td thiếu câu này, đối
chiếu phần trên thì thấy. Nên phải lấy Chd, Cd và Hd mà bổ túc. Nghĩa:
coi ghi chú 76 ở trên.
-
-
- Ghi Chú (78)
- Và những địa điểm người ấy giảng dạy pháp
thoại như vầy.- Dịch sát chính văn là: những địa điểm có bản kinh
này. Dịch sát như vậy không ăn khớp lắm với văn ý ở trên.
-
-
- Ghi Chú (79)
- Pháp thoại.- Trong đoạn này, những chữ này chỉ
cho bản kinh này mặc dầu bản kinh này chưa phải kết thúc ở đây.
-
-
- Ghi Chú (80)
- Kim cương bát nhã ba la mật đa.- Tên kinh này được
nói trong đoạn này thì Chd, Cd, Nd và Ecd không có chữ Kim cương. Td Kim
cương bát nhã ba la mật đa, Hd Năng đoạn kim cương bát nhã ba la mật đa.
Nghĩa: coi Dẫn nhập điều 7 mục a.
-
-
- Ghi Chú (81)
- Thế nên Như lai nói là bát nhã ba la mật đa.- Là
lấy Hd và Cd mà bổ túc.
-
-
- Ghi Chú (82)
- Vi trần.- Nghĩa đen là bụi nhỏ. Cũng gọi là cực
vi: phân tử nhỏ nhất. Trong lý thuyết vài học phái cổ của Ấn cho vi trần
là phân tử tối sơ của cấu trúc vũ trụ. Xa hơn chút nữa, sau đó có học
phái cho vi trần không chỉ thuần là vật lý mà còn là phân tử tối sơ của
cấu trúc tâm lý. Các bộ phái Phật giáo tiểu thừa cũng có kẻ gần như
có tư tưởng ấy. Nhưng đại thừa thì cho vi trần không là tối sơ hay tối
hậu gì hết, mà chỉ là sự phân tích tưởng tượng rằng đó là phân tử
vật lý nhỏ nhất trong cấu trúc vũ trụ.
-
-
- Ghi Chú (83)
- Thế giới.- Thế là thì gian, giới là không gian,
đó là định nghĩa của Lăng nghiêm. Nên thế giới là vũ trụ.
-
-
- Ghi Chú (84)
- 32 đặc tướng siêu nhân.- Coi lại ghi chú 39 của
đoạn 7.
-
-
- Ghi Chú (85)
- Tuệ giác thật.- Chính văn là thật tướng, Hd dịch
chân thật tưởng, có nghĩa là tuệ giác chính xác. Chữ này thích hợp ở
đây hơn.
-
-
- Ghi Chú (86)
- Chính văn của từ ngữ này vẫn là thật tướng.
Coi ghi chú 85 ở trên.
-
-
- Ghi Chú (87)
- Phi mọi ý tưởng, thì thế gọi là chư Phật
như lai.- Được biết Td câu này cũng chuyển mà dịch, và vì vậy mà rất
độc đáo. Không chuyển thì như Hd: bởi vì chư Phật tách rời tất cả
ý tưởng.
-
-
- Ghi Chú (88)
- Bởi vì Bát nhã chính là tối thượng ba la mật
đa.- Bát nhã ba la mật đa: tuệ giác toàn hảo. Tối thượng ba la mật đa:
tuyệt đối toàn hảo, 1 tên khác của Bát nhã. Câu trên đây là lấy các
bản dịch khác mà bổ túc. Nhưng bổ túc thật đủ thì phải là: Bởi vì
Bát nhã chính là tối thượng ba la mật đa. Tối thượng ba la mật đa mà
Như lai nói thì chư vị Như lai cũng nói là tối thượng ba la mật đa.
-
-
- Ghi Chú (89)
- Nhẫn nhục ba la mật đa.- Nghĩa là sự chịu đựng
toàn hảo.
-
-
- Ghi Chú (90)
- Thế nên Như lai nói là nhẫn nhục ba la mật
đa.- Là lấy Hd mà bổ túc.
-
-
- Ghi Chú (91)
- Rời mọi ý tưởng mà phát huy tâm vô thượng bồ
đề.- Nghĩa là phát huy tuệ giác tối thượng bằng cách tách rời mọi thứ
khái niệm phản ảnh ngã chấp.
-
-
- Ghi Chú (92)
- Đừng ở nơi sắc đến mà sinh tâm ra.- Câu này
có thể dịch tắt: đừng ở nơi lục trần mà sinh tâm ra. Hd còn thêm: đừng
ở nơi phi lục trần mà sinh tâm ra.
-
-
- Ghi Chú (93)
- Phi trú ở.- Chữ Phi ở đây là sự tự phủ nhận.
-
-
- Ghi Chú (94)
- Ý tưởng chúng sinh là phi ý tưởng.- Ý tưởng
chúng sinh, chính văn là tướng, chỉ có nghĩa là ý tưởng; dịch ý tưởng
chúng sinh là lấy các bản khác mà bổ túc. Ý tưởng chúng sinh là phi ý tưởng,
chữ Phi ở đây, coi ghi chú 93 ở trên.
-
-
- Ghi Chú (95)
- Phi chúng sinh.- Chữ Phi ở đây vừa tự phủ nhận
vừa tự siêu việt. Coi thêm lược giải của đoạn 37.
-
-
- Ghi Chú (96)
- Không phải chắc chắn, không phải trống rỗng.-
Nói nôm na là không thật không dối, nói cách khác là không khẳng định
không phủ định, nói tổng quát là siêu việt mọi phạm trù đối kháng
nhau.
-
-
- Ghi Chú (97)
- Nói cho người khác.- Là lấy các bản khác mà bổ
túc.
-
-
- Ghi Chú (98)
-
- Và thấy rất rõ.- Đủ thì phải là: và Như lai
sử dụng mắt Phật của Như lai mà thấy rất rõ.
-
-
- Ghi Chú (99)
- Thời kỳ.- Là dịch chữ kiếp. Kiếp là kiếp
ba: thời kỳ dài. Thời kỳ này có 3 loại: lớn, giữa, nhỏ.
-
-
- Ghi Chú (100)
- Đại thừa.- cỗ xe vĩ đại.
-
-
- Ghi Chú (101)
- Đại thừa tối thượng.- Chính văn là tối thượng
thừa: cỗ xe trên hết.
-
-
- Ghi Chú (102)
- Những ai ưa pháp tiểu thừa.- Là các vị Thanh văn.
-
-
- Ghi Chú (103)
- Thời kỳ vô số.- là a tăng kỳ kiếp.
-
-
- Ghi Chú (104)
- Vì chữ Như lai chính là nghĩa Như của tất cả
pháp.- Hd thêm: Như lai là dị danh của chân như chân thật, Như lai là dị
danh của pháp tánh vô sinh, Như lai là dị danh của con đường vĩnh diệt,
Như lai là dị danh của bất sinh tuyệt đối. Cd cũng thêm như vậy. Thêm
như vậy rõ ràng là thêm thắt và rất kém cả văn lẫn ý. Như lai là nghĩa
Như, dịch như vậy, và nguyên bản như vậy, thì văn và ý đều độc đáo.
Như là Như Thế. Như, nói đủ là Chân như: trung thực như thế. Mà Như Thế
thì nghĩa là ở đâu, lúc nào, người nào, vật gì, cũng vốn như thế, toàn
như thế, và vẫn như thế, chứ không khác đi vì phân biệt, khái niệm.
Nói cách khác, Như Thế là các pháp tự siêu việt mọi sự sai khác. Như
Thế là thực thể của Phật (cũng như của các pháp), Phật là biểu tượng
của thực thể ấy, nên nói Như lai và Như.
-
-
- Ghi Chú (105)
- Thì nói như vậy là không chính xác.- Là lấy Hd
mà bổ túc.
-
-
- Ghi Chú (106)
- Sự vô ngã.- Chính văn là vô ngã pháp. Tra cứu tất
cả bản dịch, biết đích chính văn ấy có nghĩa cái pháp vô ngã, chứ
không phải vô ngã vô pháp. Sự vô ngã ở đây là vô nhân ngã và vô pháp
ngã, chứ không phải chỉ là vô ngã khác với vô pháp.
-
-
- Ghi Chú (107)
- Tâm tưởng.- Hd rõ là tâm tưởng diễn biến (tâm
lưu chú).
-
-
- Ghi Chú (108)
- Được biết trọn đoạn này là lấy Bd mà bổ
túc, nguyên Td không có. Người làm việc này là ai thì không rõ. Các bản
dịch khác sau Bd đều có đoạn này. Xét cả văn và ý thì thấy bổ túc rất
phải.
-
-
- Ghi Chú (109)
- Pháp thì đồng đẳng, không bất đồng đẳng.-
Chính văn là thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ, dịch sát: Pháp ấy
bình đẳng, không có cao thấp. Hd rõ hơn: Pháp ấy bình đẳng, không bất
bình đẳng. Nghĩa: Pháp là Như, tự Nó không có gì là không Như, không có
gì sai khác vì ngã chấp.
-
-
- Ghi Chú (110)
- Phi ý tưởng ngã.- Nghĩa là chính thực chất ngã
chấp tự phủ nhận lấy nó. Ngã ở đây bao gồm tất cả ngã nhân chúng
sinh thọ giả: bao gồm nhân ngã và pháp ngã.
-
-
- Ghi Chú (111)
- Phi người tầm thường.- Sau câu này Hd thêm: thế
nên gọi là những người tầm thường. Người tầm thường: phàm phu của
Td hay ngu phu dị sinh của Hd. Người tầm thường phi người tầm thường là
chúng sinh phi chúng sinh: chúng sinh vốn là Như (coi lại lược giải đoạn
37). Đại sư Tăng triệu chú thích: phàm phu phi phàm phu nên có thể giáo
hóa cho thành thánh giả (Vạn 38/217A).
-
-
- Ghi Chú (112)
- Đoạn 41 này tham chiếu Hd mà chuyển dịch chính
văn của Td. Nếu dịch đúng chính văn Td thì như sau, vẫn dịch mỗi câu 4
chữ để ai muốn thì dùng:
- Trưởng lão Thiện hiện,
- ông nghĩ thế nào,
- phải chăng có thể
- nhìn thấy Như lai
- bằng ba mươi hai
- đặc tướng siêu nhân?
- Trưởng lão thưa Ngài,
- kính bạch Thế tôn,
- đúng là có thể
- nhìn thấy Thế tôn
- bằng ba mươi hai
- đặc tướng siêu nhân.
- Đức Thế tôn dạy,
- trưởng lão Thiện hiện,
- nếu nói có thể
- đem ba mươi hai
- đặc tướng siêu nhân
- mà thấy Như lai,
- thì Chuyển luân vương
- cũng là Như lai.
- Trưởng lão thưa Ngài,
- kính bạch Thế tôn
- theo con hiểu ý
- đức Thế tôn dạy
- thì thật không thể
- nhìn thấy Thế tôn
- bằng ba mươi hai
- đặc tướng siêu nhân.
-
- Td như vậy có thể Phạn bản của Td là như vậy,
mà cũng có thể Td chuyển văn mà dịch cho rõ ý. Ý đó là sự chấp ngã
(chấp thường, chấp có) là cái bản năng không dễ bỏ: ngài Tu bồ đề
nghe Phật dạy đến đây rồi mà còn bộc lộ không tự kiểm cái chấp
ấy đến như vậy - bộc lộ theo bản năng, không những thấy có mình
nhìn Phật, thấy có Phật mình nhìn, mà nhìn thấy chỉ qua sắc tướng
như người thường nhìn thấy. Nhưng nguyên Phạn bản Td như vậy hay Td
chuyển văn như vậy, đằng nào cũng đã gây bối rối cho người đọc tụng,
vì văn tự khác quá với các đoạn 7, 19 và 35, chưa kể 42. Nên tôi phải
đối chiếu Hd mà chuyển dịch. Hd tuy không làm rõ được nhiều cái ý như
đã nói, nhưng không gây bối rối nào cả.
-
-
- Ghi Chú (113)
- Bài chỉnh cú này của Td, văn ý già dặn, không
như các bản khác còn thêm 4 câu nữa: Hãy nhìn thấy pháp tánh của Như
lai là pháp thân của Như lai, pháp tánh thì siêu việt nhận thức nên người
(đi lạc đường) ấy không thể biết được.
-
-
- Ghi Chú (114)
- Không do.- Chữ không, chính văn là bất, có vị
cho là không có (Vạn 38/327A hay Chính 33/152). Xét ý Td thì phải có (coi điều
thứ ba của ghi chú 115 dưới đây).
-
-
- Ghi Chú (115)
- Đoạn 42 này chỉ Nd không có, nhưng xét có thì
đúng hơn. Đoạn 42 này có 3 điều cần ghi chú. Điều thứ nhất, đoạn này
loại bỏ ý nghĩ Phật không do đặc tướng mà thành Phật (nghĩa là nghĩ
Phật là đoạn diệt, hư vô), bởi vì 32 đặc tướng của Phật mỗi đặc
tướng do cả trăm phước trang nghiêm, và Phật do phước ấy mà thành Phật,
mà được Phật thân toàn hảo đặc tướng. Điều thứ hai, đoạn này
các bản khác trái hẳn với Td. Hãy lấy Hd làm mẫu mà đối chiếu, như
sau: Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, Như lai chứng vô thượng giác là do
các đặc tướng toàn hảo chăng? Thiện hiện, đừng nghĩ như vậy, tại
sao, bởi vì, Thiện hiện, Như lai không do các đặc tướng toàn hảo mà chứng
vô thượng giác. Điều thứ ba, ngay Td mà bỏ chữ bất đi (coi ghi chú 1),
và dịch ép câu chót, thì cũng cùng ý : Thiện hiện, nếu ông nghĩ rằng
Như lai được vô thượng giác là do các đặc tướng toàn hảo (thì), Thiện
hiện, đừng nghĩ như vậy, (vì) Như lai không do các đặc tướng toàn hảo
mà chứng vô thượng giác. Nhưng xét ý đại sư Tăng triệu (Vạn 38/217B)
thì đoạn 42 này phải hiểu và dịch như đã dịch, lại phải đặt vào
tiết mục loại bỏ chấp đoạn diệt (chấp không). Nếu hiểu và dịch như
các bản khác thì đoạn này là loại bỏ chấp thường còn (chấp có), và
như vậy thì thừa (vì trùng ý với đoạn 41).
-
-
- Ghi Chú (116)
- Không nói tiêu diệt.- Chính văn là bất thuyết
đoạn diệt tướng, so với các bản khác và dịch đủ thì phải là không
nhận thức, qui định và tuyên bố các pháp là tiêu diệt.
-
-
- Ghi Chú (117)
- Vô ngã.- Ngã ở đây bao gồm tất cả khái niệm
về ngã là ngã nhân chúng sinh thọ giả, bao gồm tất cả cái ngã bản năng
và cái ngã lý thuyết, bao gồm cả nhân ngã và pháp ngã.
-
-
- Ghi Chú (118)
- Sức Nhẫn.- Chính văn là nhẫn, Hd thêm: kham nhẫn.
Như vậy Nhẫn ở đây là chấp nhận. Chấp nhận cái gì? Một, chấp nhận
vô ngã chứ không chới với; sự chấp nhận này là tuệ giác. Hai, chấp
nhận nghịch cảnh chứ không thoái chuyển; sự chấp nhận này là nhẫn nhục.
Sự chấp nhận trước dẫn ra sự chấp nhận sau, và gồm cả 2 sự Nhẫn
này lại thì thấy vô ngã là vô sinh (Hd rõ như vậy): không còn si mê phiền
não. Nên sức Nhẫn ở đây gọi là Vô sinh pháp nhẫn. Điển hình sức Nhẫn
này là tiền thân Phật được nói trong đoạn 22.
-
-
- Ghi Chú (119)
- Td như vầy thật rõ. Hd như sau, hãy đối chiếu
để thấy: Nên nắm nhận mà không nên nắm nhận, thế nên nói là nên nắm
nhận.
-
-
- Ghi Chú (120)
- Những chữ vi trần trong đoạn này, dịch đủ chữ
của chính văn thì phải là khối lượng vi trần (vi trần chúng). Nhưng dịch
như vậy không giữ được nguyên ý nói về phân tử, nên phải lược bỏ.
-
-
- Ghi Chú (121)
- Cả 2 đoạn 46 và 47 này, về văn tự thì vừa giống
vừa nói rộng đoạn 18.
-
-
- Ghi Chú (122)
- Phi.- Ở đây có nghĩa là tự phủ nhận.
-
-
- Ghi Chú (123)
- Các pháp.- Pháp ở đây là tổng quát cả 3 mặt
đối tượng, tuệ giác và chủ thể, mà đã được nói trong phần nội
dung.
-
-
- Ghi Chú (124)
- Bằng cách đừng nắm ý tưởng về pháp, mà như
sự Như chứ không dao động.- Câu này là 1 trong những câu đọẤc đáo của
Td Kim cương. Hãy đối chiếu với câu Hd sau đây: Như là không diễn tả
chỉ bảo cho người, và vì thế nên gọi là diễn tả chỉ bảo cho người.
Đây là ý nghĩa của Td. "Bằng cách đừng nắm ý tưởng về pháp"
là vô trú bát nhã không thấy người nói, pháp được nói và người nghe.
"Mà như sự Như chứ không dao động" là vô trú bát nhã thấy tất
cả đều là Như, chứ không dao động theo những thứ không Như, những khái
niệm về ngã, nhân ngã cũng như pháp ngã.
-
-
- Ghi Chú (125)
- Bài chỉnh cú này chỉ có 6 ví dụ, khác với
các bản khác có 9: tinh tú, ảo ảnh (của mắt bịnh), ngọn đèn, ảo thuật,
sương mai, bóng nước, chiêm bao, điện chớp, đám mây. Trong 6 ví dụ của
Td thì chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, sương mai và điện chớp là 5 ví
dụ dễ hiểu nhất, và có thể vì vậy mà Td để nguyên. Còn ảnh tượng
thì không có trong 9 ví dụ, rõ ràng chứng tỏ Td dùng chữ này để tổng
quát 4 ví dụ toàn là ảnh tượng, đó là tinh tú, ảo ảnh, ngọn đèn và
đám mây. Về ý nghĩa của 9 ví dụ thì nên coi sự giải thích của Thế
thân đại sĩ (Chính 25/797 và 884). Nhưng ở đó chỉ giải thích theo biến
kế chấp tánh; giải thích theo y tha khởi tánh thì phải tham khảo Nhiếp
luận (Chính 31/140). Còn ý nghĩa 6 ví dụ của Td thì rõ ràng chỉ nói tổng
quát rằng các pháp hữu vi toàn như mộng ảo bào ảnh --toàn là Phi với
nghĩa tự phủ nhận : hãy quan sát như vậy mà diễn tả Kim cương. Nhưng
đó là mới nói một mặt. Mặt khác, cũng những ví dụ ấy mà cho thấy
các pháp hữu vi toàn là Phi với nghĩa tự siêu việt, hoạt hiện và hoạt
dụng một cách đa dụng và vô tận như mộng ảo bào ảnh: hãy quan sát như
vậy mà diễn tả Kim cương.
Chân
thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh
Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000
| Phần chính văn | Phần giải
thích | Phần ghi chú |
|
|