Bảng Viết Tắt
Chính : Đại tạng kinh bản Đại
chính tân tu.
Vạn : Tục tạng kinh bản chữ Vạn.
Td : Hoa dịch Kim cương của ngài Cưu
ma la thập (đầu thế kỷ 5).
Bd : Hoa dịch Kim cương của ngài Bồ
đề lưu chi (đầu thế kỷ 6).
Chd : Hoa dịch Kim cương của ngài
Chân đế (giữa thế kỷ 6).
Cd : Hoa dịch Kim cương của ngài Cấp
đa (cuối thế kỷ 6).
Hd : Hoa dịch Kim cương của ngài
Huyền tráng (giữa thế kỷ 7).
Nd : Hoa dịch Kim cương của ngài
Nghĩa tịnh (đầu thế kỷ 8).
Ecd : Anh dịch Kim cương của Edward
Conze, Luân đôn, 1957. Bản dịch của Lệ pháp.
Ghi chú : Td, Bd, Chd, Cd và Nd, mang số
hiệu của Chính như sau: 235, 236, 237, 238 và 239, cùng nằm trong Chính
8/748-775. Hd thì thuộc số hiệu 220, Chính 7/980-985.
- Mục Lục 2
- A. Dẫn Nhập
- 1. Kinh Kim Cương
- 2. Tài Liệu Tham Khảo Để Dịch Giải Kim Cương
- 3. Vài Dòng Về Dịch Chủ La Thập Và Ngài Tăng
Triệu
- 4. Cách Dịch Và Cách Giải Kim Cương Được Áp Dụng
- 5. Đại Thể Của Kim Cương
- 6. Đối Tượng Của Kim Cương
- 7. Nội Dung Của Kim Cương
- a. Ý Nghĩa Danh Hiệu Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật
- b. Ngã Chấp Trong Kim Cương
- c. Bát Nhã Của Kim Cương
- d. Phát Tâm, Trú Tâm Và Hàng Tâm
- 8. Kim Cương: Đại Thừa Và Tiểu Thừa
- a. Vấn Đề Phật
- b. Vấn Đề Chúng Sinh Thành Phật
- c. Vấn Đề Niết Bàn
- 9. Thực Hành Kim Cương
- 10. Vị Trí Của Kim Cương
- B. Lược Giải Kim Cương
- 1. Kinh 1. - Mở Đầu
- a. Kim 1. - Mở Đầu Như Các Kinh Khác (Đoạn 1)
- b. Kim 2. - Mở Đầu Bằng 2 Câu Hỏi Đáp Căn Bản
(Đoạn 2-6)
- 2. Kinh 2. - Nội Dung
- a. Kim 1. - Như Thật Tri Kiến Về Đối Tượng
- b. Kim 2. - Như Thật Tri Kiến Về Tuệ Giác
- c. Kim 3. - Như Thật Tri Kiến Về Chủ Thể
- 3. Kinh 3. - Kết Thúc
- a. Kim 1. - Kết Thúc Với 2 Câu Hỏi Đáp Căn Bản
- a1. Cương 1. - Kết Thúc Với 2 Câu Hỏi Đáp Căn
Bản (Đoạn 49)
- a2. Cương 2. - Khuyến Cáo Tu Học Và Diễn Tả Kim
Cương (Đoạn 50)
- a3. Cương 3. - Chỉ Cách Diễn Tả Kim Cương (Đoạn
51)
- b. Kim 2. - Kết Thúc Như Các Kinh Khác (Đoạn 52)
- Kim 1. - Như Thật Tri Kiến Về
Đối Tượng
-
- a1. Cương 1. - Như Thật Tri Kiến Về Phật
- a1.1 Bát 1. - Như Thật Tri Kiến Về Phật (Đoạn
7)
- a1.2 Bát 2. - Đức Tin Của Pháp Thoại (Đoạn 8)
- a2. Cương 2. - Như Thật Tri Kiến Về Pháp
- a1.1 Bát 1. - Như Thật Tri Kiến Về Pháp (Đoạn
9)
- a1.2 Bát 2. - Phước Đức Của Pháp Thoại (Đoạn
10)
- a3. Cương 3. - Như Thật Tri Kiến Về Tăng
- a1.1 Bát 1. - Như Thật Tri Kiến Về Thanh Văn (Đoạn
11)
- a1.2 Bát 2. - Như Thật Tri Kiến Về Bồ Tát
- - Nhã 1. - Như Thật Tri Kiến Về Bồ Tát Hạnh Quả
Của Phật (Đoạn 12)
- - Nhã 2. - Như Thật Tri Kiến Về Bồ Tát Hạnh (Đoạn
13)
- - Nhã 3. - Như Thật Tri Kiến Về Bồ Tát Quả (Đoạn
14)
- a1.3 Bát 3. - Phước Đức Của Pháp Thoại (Đoạn
15)
- Kim 2. - Như Thật Tri Kiến Về
Tuệ Giác
- a1. Cương 1. - Như Thật Tri Kiến Về Tuệ Giác
- a1.1 Bát 1. - Như Thật Tri Kiến Về Bản Thân Của
Tuệ Giác
- - Nhã 1. - Như Thật Tri Kiến Về Bản Thân Của
Tuệ Giác (Đoạn 16)
- - Nhã 2. - Như Thật Tri Kiến Về Tuệ Giác Phật
Dạy (Đoạn 17-18)
- - Nhã 3. - Như Thật Tri Kiến Về Cái Thân Phật
Dùng Để Dạy Tuệ Giác Ấy (Đoạn 19)
- - Nhã 4. - Phước Đức Của Pháp Thoại (Đoạn
20)
- a1.2 Bát 2. - Như Thật Tri Kiến Về Đức Tin Của
Tuệ Giác (Đoạn 21)
- a1.3 Bát 3. - Như Thật Tri Kiến Về Chi Tiết Của
Tuệ Giác
- - Nhã 1. - Như Thật Tri Kiến Về Nhẫn Nhục (Đoạn
22)
- - Nhã 2. - Như Thật Tri Kiến Về Bố Thí (Đoạn
23)
- a1.4 Bát 4. - Phước Đức Của Pháp Thoại (Đoạn
24)
- a2. Cương 2. - Như Thật Tri Kiến Về Sự Tin Của
Tuệ Giác Ấy
- a1.1 Bát 1. - Như Thật Tri Kiến Về Sự Tin Đặc
Biệt (Đoạn 25)
- a1.2 Bát 2. - Như Thật Tri Kiến Về Địa Điểm
Đặc Biệt (Đoạn 26)
- a1.3 Bát 3. - Như Thật Tri Kiến Về Hiệu Năng Đặc
Biệt (Đoạn 27)
- a1.4 Bát 4. - Như Thật Tri Kiến Về Phước Đức
Đặc Biệt (Đoạn 28)
-
-
- Kim 3. - Như Thật Tri Kiến Về
Chủ Thể
- a1. Cương 1. - Như Thật Tri Kiến Về Chủ Thể
- a1.1 Bát 1. - Như Thật Tri Kiến Chủ Thể Về Nhân
Và Quả Của Bồ Tát
- - Nhã 1. - Như Thật Tri Kiến Về Chủ Thể Phát
Tâm Vô Thượng Bồ Đề (Đoạn 29)
- - Nhã 2. - Như Thật Tri Kiến Về Chủ Thể Thực
Hiện Vô Thượng Bồ Đề (Đoạn 30)
- - Nhã 3. - Như Thật Tri Kiến Về Bồ Tát Hạnh Thực
Hiện Vô Thượng Bồ Đề (Đoạn 31-32)
- - Nhã 4. - Như Thật Tri Kiến Về Tuệ Của Vô Thượng
Bồ Đề (Đoạn 33)
- - Nhã 5. - Như Thật Tri Kiến Về Phước Của Vô
Thượng Bồ Đề (Đoạn 34)
- a1.2 Bát 2. - Như Thật Tri Kiến Chủ Thể Về Phật
Quả Của Bồ Tát
- - Nhã 1. - Như Thật Tri Kiến Về Phật Thân (Đoạn
35)
- - Nhã 2. - Như Thật Tri Kiến Về Phật Thuyết
(Đoạn 36)
- - Nhã 3. - Như Thật Tri Kiến Về Phật Hóa (Đoạn
37)
- - Nhã 4. - Như Thật Tri Kiến Về Phật Pháp (Đoạn
38)
- a1.3 Bát 3. - Phước Đức Của Pháp Thoại (Đoạn
39)
- a2. Cương 2. - Như Thật Tri Kiến Về Chủ Thể Mà
Loại Bỏ Tà Kiến
- a1.1 Bát 1. - Như Thật Tri Kiến Mà Loại Bỏ Tà
Kiến
- - Nhã 1. - Như Thật Tri Kiến Mà Loại Bỏ Tà Kiến
Thường Còn (Đoạn 40-41)
- - Nhã 2. - Như Thật Tri Kiến Mà Loại Bỏ Tà Kiến
Đoạn Diệt (Đoạn 42-43)
- a1.2 Bát 2. - Loại Bỏ Tà Kiến Mà Hội Nhập Như
Thật Tri Kiến
- - Nhã 1. - Hội Nhập Như Thật Tri Kiến Về Nhân
(Đoạn 44)
- - Nhã 2. - Hội Nhập Như Thật Tri Kiến Về Quả
(Đoạn 45)
- - Nhã 3. - Hội Nhập Như Thật Tri Kiến Về Vũ Trụ
(Đoạn 46-47)
- - Nhã 4. - Hội Nhập Như Thật Tri Kiến Về Bản
Thân (Đoạn 48)
Dẫn Nhập
Dẫn nhập này quá hơn những lời
hướng dẫn. Ở đây thực sự giải thích những gì cần làm trước như vậy
về Kim cương.
1. Kinh Kim Cương
Trong văn chương Trung hoa, Kim cương
và Tịnh danh của ngài La thập dịch, được ưa thích không những từ
phía quần chúng mà còn từ phía trí thức.Phật tử hay người ngoài đều
như vậy. Nhưng trong 2 kinh ấy, Kim cương được ưa thích hơn. Liêu trai cho
thấy tác giả của nó ưa thích Kim cương đến thế nào. Đó là chỉ nói
một tác phẩm dị thường.
Trong sự tụng niệm, Kim cương với
Pháp hoa của ngài La thập dịch được tụng niệm nhiều nhất, ở các xứ
Phật giáo văn hệ Trung hoa. Nhưng trong 2 kinh ấy, Kim cương cũng được tụng
niệm nhiều hơn.
Trong linh nghiệm, những sự ấy xảy
ra ở Trung hoa và còn được ghi lại thì Kim cương có 113 tờ so với 37 tờ
của Pháp hoa. Tất cả đều nằm trong Vạn 149/38-150. Trong số này, các tờ
60-73 là trích Thái bình quảng ký, sách ngoài, có tiếng.
Đặc biệt nhất,Kim cương liên hệ
trọn vẹn đối với lục tổ Huệ năng, một hiện tượng rất độc đáo
của Phật giáo Trung hoa. Truyện kể khá rõ trong Pháp bảo đàn (Chính
48/337-364) và đại khái như vầy. Có một chàng tiều phu không biết chữ,chưa
vợ con,còn mẹ già. Một hôm nhân bán củi mà được nghe tụng Kim
cương,liền đốn ngộ. Hỏi, được biết ngũ tổ Hoằng nhẫn dạy ai
cũng nên tụng kinh ấy. Tiều phu liền thu xếp cho mẹ già, lặn lội đến
Hoàng mai yết kiến ngũ tổ. Rồi một đêm,tế nhị và bí mật,ngũ tổ lấy
ca sa trương ra che kín thiền thất, đem Kim cương giảng cho. Giảng đến câu
"hãy đừng ở vào bất cứ nơi nào mà sinh tâm ra" (đoạn 13) thì
tiều phu đại ngộ tất cả các pháp không ngoài tựtánh,và thưa rằng không
ngờ tự tánh vốn tự trong sáng, không ngờ tự tánh vốn bất sinh diệt,không
ngờ tự tánh vốn tự đủ cả, không ngờ tự tánh vốn không dao động,
không ngờ tự tánh vốn sinh vạn pháp. Đó là cuộc truyền ngôi tổ vị
thứ 6, anh chàng tiều phu liền thành lục tổ Huệ năng. Sau này lục tổ
khuyên người làm theo chánh định Bát nhã bằng cách tụng niệm Kim cương,
với lời nói giản dị: lúc nào chỗ nào tâm cũng đừng ngu, ngu một chút
là bát nhã mất một chút, trí một chút là bát nhã sinh một chút.
Với văn dịch của Td, Kim cương
hoa văn quả thật ý càng cao từ càng giản, giản mà hoa. Đọc tụng cảm
thấy tiêu sái, khoái sảng, thấy chẳng có gì mà không bỏ nổi, chẳng
có gì mà không làm được.
2. Tài Liệu Tham Khảo
Để Dịch Giải Kim Cương
Chính văn mà tôi dịch giải là Td.
Nhưng để hiểu chính văn này, cần phải tham khảo 6 bản dịch khác mà Bảng
viết tắt đã liệt kê. Các bản chú thích phải tham khảo là của ngài Tăng
triệu; của các đại sĩ Vô trước, Thế thân và Công đức thi ; của các
đại sư Trí giả, Cát tạng và Khuy cơ; của các đại sư Trí nghiễm, Đức
thanh, Trí húc và Thái hư cũng có tham khảo. Văn bản của các vị trên đây
nằm trong Chính 25 và 33, trong Vạn 38 và 39, riêng của đại sư Thái hư có
đến 3 bản, nằm trong toàn thư tập 11.
Đọc kyՠcác bản dịch khác mới
càng thấy Td được tôn sùng rất phải. Cũng nhờ đọc các bản dịch
khác mới hiểu Td rõ ràng. Các bản dịch khác, Hd có lẽ bị thêm vài chỗ
(1) ; và khá kỳ, nhưng quí, là Cd: cố ý không đảo trang, nhuận sắc (2) .
3. Vài Dòng Về Dịch
Chủ La Thập Và Ngài Tăng Triệu
Ai liên hệ đến Phật giáo văn hệTrung
hoa đều biết ngài La thập, nhất là biết lối dịch thượng thặng của
"ông vua giới phiên dịch" ấy (từ ngữ của Lương Khải Siêu, Phật
học nghiên cứu bài 6). Sinh bình ngài có 1 sự tự than: nếu đặt bút viết
A tỳ đạt ma của đại thừa thì Ca chiên diên (3) không bằng, nhưng ở đất
Tần thì viết làm gì (Chính 55/101). Khi lâm chung, thệ nguyện nếu phiên dịch
không sai ý Phật thì hỏa thiêu rồi lưỡi vẫn còn, và quả nhiên lưỡi
vẫn còn. Sau đó có người cho biết những gì ngài dịch chỉ được một
phần mười những gì ngài thuộc lòng (Chính 55/102). Ngài thọ 70 tuổi, mất
năm quí sữu (dương lịch 413) ngày 13 tháng 4 (ngài Tăng triệu ghi trong lời
viếng thầy, Chính 52/264). Thì gian phiên dịch chỉ được 12 năm (401-412),
tạm ghi theo Lương Khải Siêu (Phật học nghiên cứu, phụ lục bài 1).
Còn ngài Tăng triệu thì là Nhan Hồi
và Tăng Sâm của ngài La thập, đứng đầu tứ thánh thập triết. Ngoài sự
cọng tác việc dịch của thầy, ngài còn chú thích và trước thuật. Chú
thích hiện còn 2 bản là Kim cương và Tịnh danh, trước thuật hiện còn,
gọi là Triệu luận. Với Triệu luận, cho đến nay ngài vẫn đứng đầu
trong sự lĩnh hội Bát nhã, và ngoài đời thì cũng với Triệu luận, ngài
đi vào văn học gia và văn học sử Trung hoa.
Riêng bản chú thích Kim cương thì
Trung hoa thất lạc lâu lắm. Nhật bản năm 1688 mới phát hiện và ấn
hành. Bản chú thích này nếu không phải viết lúc ngài La thập đang còn
thì sau đó cũng không lâu, vì ngài Tăng triệu không thọ, mất lúc 31 tuổi,
cùng năm với thầy (Chính 50/365). Chỉ tiếc là tôi cố tìm mà chưa thấy
khi ngài La thập dịch Kim cương thì ai là người bút thọ, ai là người viết
tựa mà tôi tin là có, và dịch vào năm nào.
4. Cách Dịch Và
Cách Giải Kim Cương Được Áp Dụng
Như đã nói, chính văn mà tôi dịch
giải là Td. Lý do không những vì Td là định bản Kim cương, mà còn vì
càng so sánh với các bản dịch khác càng thấy nên lấy Td làm chính văn.
Đại sư Khuy cơ, đệ tử đắc truyền của ngài Huyền tráng, mà khi chú
thích Kim cương cũng chú thích Td, không chú thích bản dịch của thầy
mình (Hd), như vậy cũng đủ biết giá trị của Td.
Về cách dịch, để dễ tụng, tôi
cố ý dịch mỗi câu 4 chữ và mỗi đoạn không lẽ câu. Tổng cọng có 52
đoạn, 1544 câu. Tuy nhiên, để mỗi dòng 1 câu thì dễ tụng mà đọc không
dễ hiểu như bình thường các câu liền nhau trong 1 dòng, nên phần tụng
niệm tôi để mỗi dòng 1 câu mà phần giải thích thì để các câu liền
nhau như tản văn thường.
Trở lại nói cách dịch câu và đoạn
như trên. Cách ấy thật mất thì giờ và công sức. Nhưng điều ấy không
đáng nói. Điều đáng nói là dịch như vậy thì phải bớt hay phải thêm
những chỗ không đáng bớt hoặc không đáng thêm, thậm chí có chỗ còn hại
ý nghĩa không nhỏ, chưa nói có lúc vụng về một cách không đáng. Ấy thế
nhưng tôi vẫn áp dụng cách dịch này ở đây, vì cốt để dễ tụng.
Lối giải thì những gì cần giải
thích trước và chung thì phải làm như vậy trong phần Dẫn nhập này, rồi
sau đó giải thích chính văn. Giải thích chính văn thì bằng 3 mục là
phân khoa, ghi chú và lược giải. Dĩ nhiên chỗ nào không cần thì thôi 1
hay 2 trong 3 mục ấy. Riêng mục ghi chú sẽ gồm có sự khảo dị, đối
chiếu với các bản dịch khác, ở những chỗ nào cần phải làm như vậy.
Cũng phải nói trước ở đây về
mục phân khoa, tức phân chia và tiêu đề các tiết mục mà lập thành Mục
lục. Các tiết mục này, phần đại thể thì tôi theo ngài Tăng triệu, và
sẽ được nói sau đây, còn phần hệ thuộc thì tôi phải tự làm lấy.
Phân chia và tiêu đề các tiết mục cũng là cách giải thích, nhưng là
cách giải thích nói lên nhiều nhất ý kiến chính của người giải thích.
Nhất là trường hợp Kim cương trùng văn không ít, nhưng phân chia và tiêu
đề thì thấy liền văn giống mà ý khác. Tôi biết như vậy, nhất là muốn
dịch giải Kim cương một cách hết lòng cẩn trọng, nên không phải muốn
khoe khoang hay lập dị mà tự làm như vừa nói. Tự làm chỉ vì sở tri lượng
của tôi phải tự làm mà thôi.
5. Đại Thể Của
Kim Cương
Ngài Tăng triệu nói chủ yếu của
kinh này là không tuệ, nên đại thể có 3 phần: Các đoạn 1-15 nói cảnh
không (nhưng ý nói cảnh, chưa nói tuệ); các đoạn 16-28 nói tuệ không (nhưng
chỉ nói tuệ, chưa nói người); các đoạn 29-52 nói người không (tức là
Bồ tát không). Văn tự 3 phần tự biểu hiện như thế, nên trước sau tuy
có phần giống nhau mà thật ra ý nghĩa không giống (4) . Trong 4 thời Phật
thuyết Bát nhã, kinh này là thời đầu tiên. Lời ước lược, nghĩa phong
phú, cái ý sâu kín khó mà thấy được (Vạn 38/208B).
Không tuệ là tuệ giác Bát nhã: tuệ
giác như thật tri kiến về Như (coi ghi chú 11 của Dẫn nhập), nghĩa là
không còn ngã chấp nên gọi là không tuệ. Không tuệ ấy như thật tri kiến
về đối tượng của nó thì gọi là cảnh không, như thật tri kiến về bản
thân của nó thì gọi là tuệ không, như thật tri kiến về chủ thể của
nó (về người tu không tuệ) thì gọi là người không. Ba phần như vậy tôi
đổi từ ngữ như sau và đã ghi trong Mục lục : kim 1 như thật tri kiến về
đối tượng, kim 2 như thật tri kiến về tuệ giác, kim 3 như thật tri kiến
về chủ thể.
Nhưng 3 tiết mục đại thể này
không được ngài Tăng triệu phân chia tiết mục hệ thuộc, nên việc ấy,
như đã nói, tôi phải tự làm. Và vì vậy mà có sự tách các đoạn 1 đến
6 làm kinh 1 mở đầu, tách các đoạn 49 đến 52 làm kinh 3 kết thúc, còn
các đoạn 7 đến 48 là kinh 2 nội dung gồm cả 3 phần đại thể nói
trên. Việc này không vì khuôn sáo mà vì chia tiết mục đại thể và hệ
thuộc thì văn kinh tự có như vậy.
Điều phải nói thêm, và đây mới
thật là đại thể của Kim cương, ấy là từ đại thể trên mà nhìn và
nói cách khác cho thật sát văn kinh, thì đại thể kinh này có 2 phần. Phần
1, với 2 câu hỏi đáp mở đầu, cho thấy phải có Bát nhã loại bỏ ngã
chấp mới phát nguyện và phát huy bồ đề tâm một cách chính xác. Phần
2, từ đó cho đến cuối, cho thấy Bát nhã ấy loại bỏ ngã chấp như thế
nào. Cả 2 phần này cũng với chi tiết như Mục lục ghi (mà đổi số chút
ít) chứ không chi khác.
6. Đối Tượng Của
Kim Cương
Kinh này Phật cốt dạy cho ai? Trong
phần mở đầu, trừ Nd và Ecd sau 1250 vị tỷ kheo ghi thêm chúng đại bồ
tát, tất cả các bản khác chỉ ghi 1250 vị tỷ kheo mà thôi. Thêm nữa,
trong phần kết thúc, Bd, Nd và Ecd ghi thêm bồ tát đại sĩ, nhưng các bản
khác chỉ ghi 4 chúng và chư thiên, nhân loại, a tu la, và chỉ ghi ở đây
chứ không ghi trong phần mở đầu. Như vậy đối tượng chủ yếu của
Kim cương là các vị tỷ kheo, nói cách khác là các vị Thanh văn.
Ở đây nên so sánh với Pháp hoa.
Pháp hoa lấy Thanh văn làm đối tượng, xác quyết họ chưa được niết bàn
hoàn toàn. Niết bàn hoàn toàn là phải như Phật. Họ từng là đệ tử
được Phật dạy cho làm Phật chứ không phải làm La hán. Kim cương cũng
vậy mà không vậy. Cái tim của Thanh văn là vô ngã, Kim cương cho thấy họ
chưa vô ngã. Kim cương không phủ nhận Thanh văn bằng cách cho họ thấy họ
tăng thượng mạn, tự tôn tự mãn với vị trí mà Phật giả định (5)
--dầu đến đoạn 25, Kim cương cũng nói vì sự ấy mà họ không tin nổi
Kim cương. Thế nhưng Kim cương không phủ nhận gì hết, mà chỉ cốt dạy
cho Thanh văn cái tuệ giác Bát nhã để họ tự nhìn thấy cái ngã mà tận
trừ, bước tới. Do vậy, Kim cương ít nói lý pháp mà nói hạnh pháp và
quả pháp nhiều hơn: nói ngay cái tuệ giác, cái việc tu hành và đắc quả
của tuệ giác ấy.
Nhưng trên đây chỉ là một cách
xét. Xét cách khác thì đối tượng Kim cương là Bồ tát. Bồ tát ở đây
có 2. Một là các vị Thanh văn đã hay có thể chuyển thành Bồ tát; Bồ
tát như vậy là như đã nói trên đây. Hai là Bồ tát theo Bồ tát thừa;
các vị này, qua sự đối thoại với ngài Tu bồ đề, Phật đã nói đến
từ đầu đến cuối kinh này.
Bồ tát là gì? Trong văn chương tư
tưởng bình dân của Ấn độ, Bồ tát là mẫu người lý tưởng. Tựa
như quân tử của Trung hoa, Bồ tát của Ấn độ cũng vậy mà hơn vậy:
minh triết, dũng liệt, xả thân, cứu đời ... Phât giáo thì đời Phật, và
ngay loài người, cũng có các vị Bồ tát nổi tiếng. Thắng man phu nhân
... Nhóm Hiền hộ ... Và Duy ma, 1 người không những là Bồ tát mà còn là
Bồ tát bất khả tư nghị. Thêm nữa, nói về Bồ tát thì rõ ràng có cái
khuynh hướng cho tại gia cũng quan trọng, chưa nói có khi quan trọng hơn; nói
về Bồ tát hạnh thì rõ ràng quan trọng là bố thí, nhẫn nhục và tuệ
giác; và căn bản của mọi sự trên đây là phát bồ đề tâm, chữ phát
vừa có nghĩa phát nguyện vừa có nghĩa phát huy. Bồ tát là như vậy,
nhưng đứng về mặt Tam bảo thì Bồ tát phải làm tỷ kheo mới được
ngang với tỷ kheo, với Thanh văn, và cũng là Tăng bảo ; chỉ đứng về mặt
làm Phật thì Bồ tát mới được nhận là Phật tử đích thực, mới là
người sẽ đạt đến địa vị của Phật.
Bồ tát, như vậy, không thể không
có Bát nhã --không thể còn có ngã chấp mà được gọi là Bồ tát, mà
làm được việc của Bồ tát. Đối tượng Bồ tát của Kim cương là như
vậy.
7. Nội Dung Của
Kim Cương
Ở đây sẽ đi sâu vào một vài
chi tiết mà qua đó càng thấy nội dung kinh này, ngoài nội dung đã thấy
qua 2 điều 5 và 6 ở trên.
Ý Nghĩa Danh Hiệu
Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật
a.Ý nghĩa danh hiệu Kim cương bát
nhã ba la mật.- Kim cương là chất kim cương, ở đây lấy chất ấy ví dụ
cho sự khó phá hủy. Bát nhã là tuệ giác như thật tri kiến về Như (coi
ghi chú 11 của Dẫn nhập). Ba la mật là rời bỏ, vượt đến: rời bỏ bờ
bến bên này và vượt đến bờ bến bên kia, tức là nói đến sự toàn hảo.
Kim cương bát nhã ba la mâểt có 2 nghĩa.
Nghĩa thứ 1, kim cương ví dụ cho
ngã chấp; tuệ giác toàn hảo có năng lực phá hủy cái ngã chấp khó phá
hủy đó, nên gọi tuệ giác ấy là Kim cương bát nhã ba la mật. Hd và Nd
thêm 2 chữ năng đoạn (Năng đoạn kim cương bát nhã ba la mật: Năng đoạn
kim cương chi bát nhã ba la mật) thì chỉ làm cho nghĩa thứ 1 này rõ hơn để
khỏi lầm rằng Kim cương bát nhã ba la mật chỉ có nghĩa thứ 2 dưới đây.
Nghĩa thứ 2, kim cương ví dụ cho
chính tuệ giác; tuệ giác toàn hảo có cái năng lực khó phá hủy là phá
hủy được ngã chấp, nên tuệ giác ấy gọi là Kim cương bát nhã ba la mật.
Như vậy danh hiệu kinh này cho thấy
kinh này cốt nói năng lực của Bát nhã và nói ngã chấp mà năng lực ấy
phá hủy.
Ngã Chấp Trong Kim
Cương
b.- Ngã chấp trong Kim cương.- Kim
cương nói về ngã chấp bằng 4 tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Tướng,
các bản khác dịch tưởng hay chấp, vậy tướng là ý tưởng, tức khái
niệm. Về 4 tướng, thứ tự có thể không phải là ngã, nhân, chúng sinh,
thọ giả, như Td và Bd ghi, mà là như sau, theo các bản dịch khác: ngã,
chúng sinh, thọ giả, nhân.
Ngã thì bản nào cũng dịch là
ngã. Chúng sinh thì Hd là hữu tình. Thọ giả thì Hd là mạng giả. Nhân
thì Hd chỉ dịch âm là bổ đặc dà la (dịch nghĩa: sác thủ thú), Chd là
thọ giả (chữ thọ là chịu), Nd là cánh cầu thú. Do sự cắt nghĩa của
đại sĩ Thế thân (Chính 25/783 và 876) mà biết ngã là khái niệm tự ngã,
chúng sinh là khái niệm sinh thể (hay khái niệm liên tục), thọ giả là
khái niệm đời sống (hay khái niệm tồn tại), nhân là khái niệm tái
sinh (6) .
Nếu sắp thứ tự ngã, nhân, chúng
sinh, thọ giả thì đọc và hiểu dễ hơn, nhưng, dầu muốn dầu không, thứ
tự ấy cũng hàm ý ngã nhân là tự tha (tôi với anh), và chính hàm ý này
lại khẳng định tự ngã hơn lên.
Ngoài 4 tướng này, Hd còn nói sĩ
phu, ý sinh, ma nạp bà, tác giả, thọ giả. Trong 5 chữ này chữ ma nạp bà
đáng nói. Chữ ấy có người nói phải dịch là thắng ngã (Phật học đại
từ điển, 2569), và nhân đấy nên nói lược về ngã chấp.
Ngoại đạo ban đầu nói chỉ ông
trời Đại phạn hay ông trời Đại tự tại mới có trước, tự có, rồi
sinh ra và chi phối tất cả, nghĩa là chỉ ông trời ấy mới là ngã. Kế
đến, ông trời ấy biến thành phiếm thần: cái bản thể phổ biến của
ông trời ấy phú cho mỗi người mỗi vật đều có một phần; phần ấy
đồng nhất với ông trời, vậy là ông trời= bản ngã = tự ngã. Tự ngã
này gọi là thắng ngã hay thần ngã. Tự ngã này biểu thị lắm đặc tính
tự tại chủ tể (tự chủ và chủ đạo) dưới những danh xưng như những
ký hiệu về nó: chúng sinh, thọ giả, nhân, v/v. Đó là ngã chấp của kiến
thức lý thuyết. Kiến thức lý thuyết ấy thật ra bắt nguồn rồi suy diễn
từ ngã chấp của mỗi người chúng ta, chưa nói của cả mọi loài động
vật. Ngã chấp ấy chỉ là và chính là ý thức cái tôi: cái tôi tự chủ
(ngã tướng), cái tôi mà do nó nên tôi là một sinh thể liên tục mà có
tâm thức (chúng sinh tướng), là một sinh mạng có đời sống và sống hết
đời (thọ giả tướng), là một linh hồn sẽ tái sinh những đời khác y
như đời này (nhân tướng) (7) . Cái tôi như vậy không mấy ai nghe nói đến,
chứ chưa nói không mấy ai biết nói đến, nhưng không vì vậy mà sự tự
ý thức về nó không có. Trong ý thức bình thường rằng tôi đây, tôi
khác anh đây, cũng như anh đấy, anh không phải tôi đấy, thì ý thức này
chính là ý thức về ngã, càng đơn sơ bao nhiêu càng sâu dày bấy nhiêu.
Ngã như vậy là bản năng hơn là kiến thức (8) , nên động vật hạ đẳng
nhất cũng có chứ đừng nói loài người. Ngã này là đệ thất thức, và
mới đáng nói (vì Thanh văn cũng vẫn còn), hơn là nói đến ngã chấp của
ngoại đạo (mà Thanh văn đã hết). Ngã này không phải chỉ là ngã trong 2
thứ ngã với pháp, mà là ngã trong cả 2 thứ ấy là nhân ngã và pháp
ngã. Nói giản dị, hễ có ngã thì nhìn vào đâu cũng thấy ta; thấy không
phải ta chính là phản diện khẳng định sự thấy ta. Ngã này mới là
cái ngã của Kim cương nói đến, cái ngã mà chỉ có Bát nhã mới hủy diệt
được.
Bát Nhã Của Kim Cương
c. Bát nhã của Kim cương.- Kim
cương nói Phật có 5 thứ mắt, 2 thứ nghĩa đen, 3 thứ nghĩa bóng. Hai thứ
nghĩa đen là nhục nhãn với thiên nhãn. Nhục nhãn nhìn không suốt qua chướng
ngại vật và bóng tối, nhìn không xa, thiên nhãn trái lại, nhưng thứ nào
cũng nhìn thấy hình sắc như người với trời. Nói như người với trời
mà thật ra không như rất nhiều: Phật thấy hình sắc mà không bị hình sắc
lừa dối, không như người với trời thấy hình sắc nhưng thật ra chỉ
nhìn thấy đối tượng (9) . Ba thứ nghĩa bóng là tuệ nhãn, tức nhất thế
trí, thấy thực thể; pháp nhãn, tức đạo chủng trí, thấy cách tu; Phật
nhãn, tức nhất thế chủng trí, thấy hết thực thể, tướng dụng, cách
tu. Tất cả 5 thứ mắt này là Bát nhã toàn hảo của Phật trong Kim cương.
Nhưng sơ khởi Phật dạy cho người nghe kinh này thì chính yếu là tuệ
nhãn. Cách dạy nói khá nhiều là sở ngôn (nói rằng, gọi là) tức phi
(là phi, là không phải) và thị danh (thế nên nói là, vì lý do ấy nên
nói là) (10) . Dĩ nhiên sở ngôn, tức phi và thị danh không phải là một
ước lệ nhất quán trong Kim cương, nhưng quá rõ ràng để thấy cách dạy
này nhiều chỗ, giống nhau, và không thể không có tính cách nhất quán.
Không những như vậy, mà đoạn 10 chữ phi có kèm chữ tính (tính phi phước
đức), và Hd đoạn 14, không những "thân lớn ấy Ngài nói là phi thân
lớn, vì thế nên Ngài nói là thân lớn" mà còn thêm, "chứ không
phải vì là thân lớn mà Ngài nói là thân lớn".
Cách dạy như vậy cho thấy, ví dụ,
chúng ta nói A thì Phật nói A đó là phi-A, và đó là tại sao Ngài nói là
A (chứ không phải vì A là A mà Phật nói là A). Như vậy phi A không phải
là B, mà là A tự siêu việt, có trường hợp là tự phủ nhận, có trường
hợp vừa tự phủ nhận vừa tự siêu việt. Vậy Phi là thế nào?
Ở chỗ khác, Phi là duyên sinh tính
không, là đương sinh vô sinh, hay thấp một chút là mộng ảo bào ảnh (mà
đoạn 51 của Kim cương cũng nói đến, trong trình độ này). Nhưng ở Kim
cương thì Phi có cái ngữ khí trực chỉ : Phi là như thật tri kiến các
pháp toàn là Như (11) . Nói giản dị một chút, Phi là siêu việt: siêu việt
khái niệm và diễn tả. Cho nên A là phi-A (là Như), và đó là lý do tại
sao Phật nói là A (12) ; nói A như vậy thì không phải như ngã chấp chỉ
thấy biết A là A, và vì vậy mà nói là A (13) .
Phi, như thế, là Bát nhã của Kim cương,
như thật thấy biết nên thấy biết gì cũng Phi, hủy bỏ cái ngã thấy biết
gì cũng là ngã cả.
Phát Tâm, Trú Tâm
Và Hàng Tâm
d.Phát tâm, trú tâm và hàng tâm.-
Phát tâm, nói rõ là phát tâm bồ đề, nói rõ hơn nữa là phát tâm vô thượng
bồ đề, và nói rõ nhất là phát tâm vô thượng chánh đẳng giác. Vô thượng
chánh đẳng giác (a nậu đa la tam miệu tam bồ đề) là tuệ giác biết đúng,
biết hết và biết hơn tất cả. Tuệ giác ấy là Bát nhã, là tuệ giác của
Phật. Phát nguyện mong cầu tuệ giác ấy, đồng thời phát huy tuệ giác
ấy, thì gọi là phát tâm - Phát huy trọn vẹn tuệ giác ấy là trở thành
Phật đà. Phát nguyện và phát huy tâm bồ đề như vậy có 2 lý do, và do
đó có 2 việc làm, ấy là vì thương nỗi đau khổ của chúng sinh mà nỗ
lực cứu độ, vì xót sự suy tàn của chánh pháp mà nỗ lực duy trì.
Phát tâm như vậy là căn bản của
đại thừa, là làm theo đại thừa (nên thay vì phát tâm bồ đề, có bản
dịch là phát thú đại thừa). Phát tâm thì phải trú tâm và hàng tâm.
Trú là đứng vững, là trú ở. Hàng là buộc đầu hàng, là chiến thắng,
sửa chữa. Trú tâm là trú ở nơi sự phát tâm, hàng tâm là hủy diệt
ngã chấp. Nói cách khác, trú tâm hàng tâm là vận dụng Bát nhã. Như vậy
chủ đích Kim cương là dạy Bát nhã để phát tâm, trú tâm và hàng tâm
(14) . Đó là nội dung căn bản của kinh này.
Ở tiểu thừa, tuệ giác các vị
Thanh văn hủy diệt ngã chấp chỉ là ngã chấp lý thuyết như ngoại đạo
nói, còn ngã chấp bản năng mà chúng sinh có thì Thanh văn còn tự mãn tự
tôn là vẫn còn loại ngã chấp ấy. Do vậy, sự phát tâm, trú tâm và
hàng tâm đã nói như trên không được có ở các vị Thanh văn. Kim cương
dẫn tiến Thanh văn, cũng như dẫn tiến Bồ tát, là dẫn tiến cái điều
căn bản này đây.
8. Kim Cương: Đại
Thừa Với Tiểu Thừa
Vấn đề không phải cần đặt ra
do một số luận điệu gần đây liên hệ đến đại thừa tiểu thừa, mà
vấn đề đặt ra để một mặt nhìn nội dung Kim cương rõ hơn nữa, mặt
khác cần nói đến mấy vấn đề căn bản của đại thừa tiểu thừa,
ít nhất cũng nói mở đầu và vắn tắt.
Vấn Đề Phật
a. Vấn đề Phật.- Tiểu thừa thì
nhất thiết cho Phật cũng chỉ là 1 vị La hán. Căn cứ gần như duy nhất
chỉ vì trong 10 huy hiệu của Phật có huy hiệu La hán, và vì khi 5 vị tỷ
kheo thành La hán đầu tiên thì Phật nói thế gian có 6 vị La hán. Thật
quá dễ dàng để thấy căn cứ như vậy không xứng đáng là căn cứ để
nói Phật cũng là và chỉ là 1 vị La hán.
La hán tương đồng được 1 phần
với Phật về đoạn đức (giải thoát), nhưng không tương đồng được
phần nào với Phật về trí đức (tuệ giác) và ân đức (độ sinh). La hán
không có 10 lực, 18 bất cọng, và nhiều pháp khác của Phật, mà đó là
những pháp số không phải chỉ đại thừa nêu lên. Trong tín ngưỡng, 4 bất
hoại tín tin Phật riêng, tin Tăng riêng; và 3 ngôi báu cho thấy Phật bảo
không thể là Tăng bảo. Trong qui chế, Phật không đồng chúng kiết ma tác
pháp tăng sự. Thành thật luận (của tiểu thừa) đã nói rõ như vậy (Chính
32/258).
Vấn Đề Chúng
Sinh Thành Phật
b. Vấn đề chúng sinh thành Phật.-
Tiểu thừa không công nhận, ngay cả trong thì gian, rằng ai cũng có thể trở
thành La hán, có đâu công nhận ai cũng trở thành Phật đà. Đại thừa thì
sự công nhận này là 1 trong những căn bản quan trọng, đặc biệt quan trọng
cho tín niệm độ sinh (15) .
Vấn Đề Niết Bàn
c. Vấn đề Niết bàn.- Hai vấn đề
trên nói theo ngôn ngữ Kim cương thì Như lai là Như, chúng sinh là phi chúng
sinh (nghĩa là cũng Như). Do vậy, cả 2 vấn đề dẫn đến vấn đề Niết
bàn, vì Niết bàn là Như chứ không chi khác.
Tiểu thừa hay nói mình không đề
cập bản thể, có khi còn loạn hơn, cho bản thể là không có, là biến chế
từ ngoại đạo. Nhưng có lúc cũng thấy ra bản thân của mình, và đỉnh
cao của mình là Niết bàn, dầu nói hoa myՠđến đâu cũng không khỏi bị
cho là hư vô, đoạn kiến (16) . Ấy thế nên gần đây hay đề cao Như lai
(Tathata). Như lai, đúng ra là Như, ở tiểu thừa gần như không nói đến,
trừ ra nói đến trong chữ Như lai, và Thành thật luận nói thừa như thật
đạo lai thành chánh giác (Chính 32/242); càng không xác định rằng Như lai
là sự thật, là bản thể trung thực. Đại thừa, như Kim cương, với chữ
Phi, cho thấy Như lai là cả 2: là bản thể trung thực, và vì bản thể
này mà sự thật các pháp không phải những gì ngã chấp thấy là thật.
Nói giản dị, Như là bản thể siêu việt của các pháp. Như ấy là Niết
bàn (17) .
Ở tiểu thừa, Niết bàn được chứng
dưới 2 dạng: dạng thứ nhất đoạn tập đế mà còn khổ đế, dạng thứ
hai khổ đế cũng không còn. Thuật ngữ gọi 2 dạng này là hữu dư y và
vô dư y. Nhưng Niết bàn rồi, nói nôm na, cái thân thuộc khổ đế này chết
rồi, thì sau đó là thế nào? Ở đây chỉ còn diễn tả bằng mấy cách
mà đáng nói là vài cách sau đây. Cách thứ nhất, có người rành xương
người chết. Người chết đã là gì, và là gì sau khi chết, người ấy cầm
xương mà gõ là biết hết. Nhưng có 1 loại xương người ấy cầm gõ
không thể biết là gì cả, vì đó là xương La hán: La hán không còn sinh
ra nữa nên người ấy không thể biết là gì như đã biết các loại xương
khác. Cách thứ hai là nói Như lai phi chung phi bất chung --thì đại thừa mới
cắt nghĩa được cách nói này có ý nghĩa gì.
Đại thừa không nhận Niết bàn như
trên là cứu cánh. Niết bàn như trên, và đức Phật có Niết bàn như trên,
gần như không thể nói là liên quan đến sự tồn tại của chánh pháp và
sự giải thoát của chúng sinh.
Đại thừa nói căn bản của Niết
bàn là Như: thực thể chúng sinh là Như nên Phật mới có thể làm cho Niết
bàn thể hiện. Niết bàn ấy là vô trú niết bàn: vì có đại bi nên
không ham niết bàn, vì có đại trí nên không bị sinh tử - đại nguyện tự
tại ở trong sinh tử mà hóa độ chúng sinh. Niết bàn của đại thừa là
như vậy. Niết bàn của Kim cương cũng là như vậy. Nên trong đoạn mở đầu
Kim cương đã nói đến Niết bàn, rồi trong đoạn gần cuối Kim cương nói
rõ rằng tâm nguyện bồ đề thì không nói đoạn diệt (18) .
9. Thực Hành Kim Cương
Những điều đã trình bày ở trên
cho thấy thực hành theo Kim cương là như thế nào. Phát tâm, trú tâm và
hàng tâm là quan trọng nhất. Thực hành theo Kim cương là như thế. Và, như
đã thấy, phát tâm, trú tâm và hàng tâm là vô trú bát nhã, được diễn
đạt bằng chữ Phi. Sánh với chữ Không của toàn bộ Bát nhã, chữ Vượt
qua (yết đế) của Bát nhã tâm kinh, thì chữ Phi của Kim cương bát nhã hoạt
bát hơn nhiều lắm.
Chữ Phi được thực hành bằng luận
chứng sơ khởi là bài chỉnh cú cuối cùng của Kim cương, quán sát các
pháp hữu vi như mộng ảo bào ảnh. Nhưng chữ Phi cũng có thể thực hành
từ sơ khởi đến chung cục theo phong cách của Thiền tông.
Theo phong cách ấy thì thấy gì cũng
phi cả. Nhất là phi cả cái Phi. Phi thì không vướng mắc vào đâu cả, nhất
là vướng mắc vào phóng đãng, phóng khí, tự nhiên, nhác, nhát, thoái chuyển,
lệch hướng. Phi thì làm cho tâm trí và tâm hồn rỗng thông như không gian
mà phong phú như hoa lá. Mình với cuộc đời phi tức mà cũng phi ly, siêu
nhiên cũng như tục lụy đều không vướng mắc.
Loài cọp cũng như loài mèo, khi bị
ném lên trong không thì có cái khả năng chuyển mình để rơi xuống vẫn
chạm đất bằng 4 chân. Chúng không thương tổn hay phải chết vì sự rơi
xuống, dầu rơi xuống từ cao. Thiền tông lấy hình ảnh này làm một bài
học cho con người rơi vào cuộc đời này. Bài học quan trọng ở chỗ ta
có chuyển mình được như cọp với mèo hay không. Chữ Phi là sự chuyển
mình ấy.
10. Vị Trí Của
Kim Cương
Sự phát tâm và sự niết bàn của
Kim cương vừa nói trên đây cho thấy đại thừa không đặt sự tồn tại
của chánh pháp ngoài sự ích lợi của cuộc đời, không đặt sự toàn
giác ngoài sự độ sinh. Do vậy, đại thừa thích ứng mọi xã hội. Nhưng
nội cách nói sở ngôn, tức phi và thị danh mà thôi, Kim cương đã cho thấy
đại thừa thích ứng như thế nào. Đại thừa không như phàm phu và tiểu
thừa thấy A vì A là A: thấy có hay thấy không đều thấy theo cái ngã bản
năng --Và chính vì thế mà tai họa cho cuộc đời, chính vì thế mà lý tưởng
vị tha cũng thành ra đỉnh cao vị kỷ. Đại thừa thấy vì A là phi-A nên
mới là A: biến mọi hoạt động của bản năng thành mọi hoạt dụng của
đại thừa. Thích ứng như vậy mới thật viên dung và viên mãn. Thích ứng
như vậy là Bát nhã của Kim cương được hoạt dụng vào sự thích ứng.
Thì sự thích ứng không những có, mà còn có một cách hoạt bát chứ
không phải tha hóa, không phải tục hóa. Khả năng này được đặt thành
vấn đề, và là vấn đề chính yếu, thì đại thừa và Kim cương của đại
thừa phải được quan tâm nghiêm chỉnh (19) .
Lược Giải
Kim Cương
Lược giải: Kim cương dịch thành
1544 câu, chia 52 đoạn, phân khoa có 5 lớp, đánh dấu bằng 5 chữ kinh, kim,
cương, bát, nhã. Kim cương có 3 kinh:
Kim 1. - Mở Đầu Như Các Kinh Khác
(Đoạn 1)
Chính Văn.-
(1) Tôi nghe như vầy: Một thời Thế
tôn ở nước Xá vệ (20) , trong khu vườn rừng Chiến thắng Thiện thí
(21) , cùng với một ngàn hai trăm năm chục vị đại tỷ kheo (22) .
Kim 2. - Mở Đầu Bằng 2 Câu Đáp Căn
Bản
(Đoạn 2-6)
Chính Văn.-
(2) Vào lúc bấy giờ gần đến giờ
ăn, nên đức Thế tôn sửa y, cầm bát (23) , đi vào khất thực trong thành
Xá vệ. Tuần tự khất thực (24) trong thành này rồi, Ngài về chỗ ở,
ăn uống xong xuôi, thu dọn y bát, rửa sạch hai chân, và trải đồ lót
lót chỗ mà ngồi (25) .
Lược Giải.-
Tả Phật như đoạn này là nói Phật
vì chúng sinh nên không ở niết bàn mà ở sinh tử, và ở sinh tử thì
Ngài cũng chịu cái thân đói khát ăn uống, cũng làm 1 vị tỷ kheo, và là
vị tỷ kheo rất gương mẫu. Tất cả điều này chính là vô trú bát nhã
( = vô trú niết bàn) của đại thừa mà Phật đem ra nâng đỡ và giao phó
cho Bồ tát, một cách đích thân biểu thị chứ không phải chỉ cần lời
nói.
Chính Văn.-
(3) Lúc ấy Thiện hiện (26) , một
vị trưởng lão, cũng có ở trong các đại tỷ kheo. Từ chỗ mình ngồi,
trưởng lão đứng dậy, vắt một vạt y, để trần vai phải, đầu gối bên
phải quì xuống chấm đất, hai tay chắp lại, cung kính mà thưa: kính bạch
Thế tôn, Ngài thật hiếm có; Ngài khéo nâng đỡ (27) cho các Bồ tát, lại
khéo giao phó (28) cho các Bồ tát. Kính bạch Thế tôn, thiện nam thiện nữ
đã phát tâm nguyện vô thượng bồ đề (29) , thì phải làm sao để ở tâm
ấy? và phải làm sao để sửa tâm mình? (30)
LượcGiải.-
Ngài Thiện hiện nhận thấy sự
nâng đỡ và giao phó như đoạn 2 đã tả nên hỏi như đoạn 3 ở đây --
Hỏi để Phật nâng đỡ và giao phó bằng lời nói, rõ thêm cho sự nâng
đỡ và giao phó không lời ở trên. Kim cương là sự nâng đỡ và giao phó
bằng thân và miệng của Phật giành cho các vị có tư cách Bồ tát. Hai
câu hỏi ở đây, và 2 câu đáp của Phật, quán triệt toàn bộ Kim cương
như vậy.
Chính Văn.-
(4) Đức Thế tôn dạy: tốt lắm,
Thiện hiện; thật đúng như lời trưởng lão đã nói, Như lai rất khéo
nâng đỡ Bồ tát, Như lai rất khéo giao phó Bồ tát. Do vậy, trưởng lão,
hãy nghe cho kyլ Như lai sẽ nói cho các vị biết thiện nam thiện nữ phát
tâm bồ đề thì bằng cách nào trú ở tâm ấy, và bằng cách nào sửa chữa
tâm mình. Trưởng lão thưa rằng, dạ, bạch Thế tôn, chúng con ước muốn
được nghe Ngài dạy.
(5) Trưởng lão Thiện hiện, Bồ
tát thì phải sửa chữa tâm mình bằng tuệ giác này: Bao nhiêu chúng sinh,
hoặc sinh bằng trứng, hoặc sinh bằng thai, sinh bằng ẩm thấp, sinh bằng
biến hóa, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tư tưởng,
hoặc không tư tưởng, có không tư tưởng (31) , ta làm hết thảy đều
được nhập vào niết bàn hoàn toàn (32) mà giải thoát (33) cả --Làm cho
vô lượng vô số chúng sinh niết bàn như vậy, mà thật không thấy có
chúng sinh nào được niết bàn cả. Tại sao như vậy, trưởng lão Thiện
hiện, vì nếu Bồ tát mà vẫn còn có ý tưởng ngã, nhân, chúng sinh, thọ
giả (34) , thì bồ tát ấy không phải Bồ tát.
(6) Trưởng lão Thiện hiện, đối
với các pháp (35) , Bồ tát không nên trú ở (36) đâu cả mà làm bố thí
(37) : không ở nơi sắc mà làm bố thí, không ở nơi thanh, hương, vị, xúc,
pháp (38) mà làm bố thí. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát hãy nên bố
thí như thế: không ở đâu cả. Tại sao như vậy, vì nếu Bồ tát không
ở đâu cả mà làm bố thí thì được phước đức không thể lường được.
Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, không gian hướng đông có lường
được không? Không, bạch Thế tôn. Trưởng lão Thiện hiện, không gian hướng
nam, hướng tây, hướng bắc, và cả bốn góc, cả trên, cả dưới, có lường
được không? Càng không, bạch Ngài. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát bố
thí mà không ở đâu thì được phước đức cũng y như thế, không thể lường
được. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát chỉ nên trú ở theo lời Như lai
dạy đây.
Lược Giải Đoạn 4-6.-
Phật đáp câu hỏi sửa tâm như thế
nào bằng cách nói nguyện độ chúng sinh mà không thấy có chúng sinh là người
được hóa độ, có mình là người hóa độ. Vì thấy như vậy là ngã chấp,
không thể hóa độ chúng sinh.
Phật đáp câu hỏi ở tâm như thế
nào bằng cách nói đừng ở đâu cả thì như thế chính là ở nơi tâm
nguyện bồ đề đó.
Cách nói như 2 câu đáp này cho thấy
phát tâm ở đây là tín thành tựu phát tâm sắp lên trong Khởi tín luận;
sự không trú ở đâu cả là phương tiện thứ 1 của sự tín thành tựu
phát tâm, là sự làm của sự giải hành phát tâm.
"Không ở đâu cả thì như thế
chính là ở nơi tâm nguyện bồ đề", đó là vô trú bát nhã. Vô trú
bát nhã ấy là căn bản; từ sau các đoạn 2-6 mở đầu này sắp đi, cho
đến các đoạn 49-51 kết thúc ứng với các đoạn mở đầu này, chỉ là
và toàn là vô trú bát nhã ấy.
Mặt khác, bản năng chúng sinh là
đam mê mới hoạt động: có trú ở mới có mọi sự, dầu là sự lý tưởng.
Kim cương cho thấy bản năng ấy là ngã chấp; ngã chấp ấy được tập
chuyển hóa, lọc bỏ, thì hoạt động trở thành diệu dụng đại thừa.
Bát 1. - Như Thật Tri Kiến Về Phật
(Đoạn 7)
Chính Văn.-
(7) Trưởng lão Thiện hiện, ông
nghĩ thế nào, đối với Như lai, có thể hay không thấy bằng đặc tướng
(39) ? Không, bạch Thế tôn, không thể thấy Ngài bằng các đặc tướng; tại
sao như vậy, vì theo Ngài dạy thì các đặc tướng là phi đặc tướng. Đức
Thế tôn bảo, trưởng lão Thiện hiện, hễ có đặc tướng thì đặc tướng
ấy toàn là giả dối, nếu thấy đặc tướng là phi đặc tướng thì thấy
Như lai (40) .
Lược Giải.-
Vô trú bát nhã trước hết như thật
tri kiến về Phật, qua đặc tướng của Ngài. Thì thấy đặc tướng ấy
là phi đặc tướng mới là thấy Ngài. Ở đây không cần đem hóa thân và
pháp thân ra mà giải thích.
Bát 2. - Đức Tin Của Pháp Thoại
(Đoạn 8)
Chính Văn.-
(8) Trưởng lão Thiện hiện bạch
đức Thế tôn, có thể có ai nghe pháp thoại (41) này mà sinh đức tin đúng
chân lý không? Đức Thế tôn dạy, đừng hỏi như vậy, trưởng lão Thiện
hiện; sau khi Như lai nhập niết bàn rồi, năm trăm năm sau (42) , có ai giữ
giới, làm phước tu tuệ (43) , thì với pháp thoại như thế này đây, có
thể tin tưởng đúng với chân lý. Trưởng lão phải biết những người
như vậy không chỉ gieo trồng gốc rễ điều lành nơi một đức Phật,
nơi hai đức Phật, nơi ba bốn năm đức Phật mà thôi, mà đã gieo trồng
gốc rễ điều lành ở nơi vô số ngàn vạn đức Phật. Những người
như vậy mà được nghe đến pháp thoại thế này, thì dầu đến nỗi chỉ
một ý niệm tin tưởng trong sáng, Như lai cũng vẫn biết và thấy rõ (44)
họ thực hiện được vô lượng phước đức. Tại sao như vậy, vì những
người này không còn có nữa ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả, không
còn có nữa ý tưởng về pháp và về phi pháp (45) . Nếu những người này
còn có ý tưởng là còn ngã nhân chúng sinh thọ giả, còn ý tưởng pháp
là còn ngã nhân chúng sinh thọ giả, còn tưởng phi pháp là còn ngã nhân
chúng sinh thọ giả. Vì lý do ấy, đừng nắm lấy pháp, lại càng đừng nên
nắm lấy phi pháp. Do ý nghĩa này, Như lai thường nói, các vị Tỷ kheo,
hãy nhận thức rằng pháp Như lai nói tựa như chiếc bè: pháp còn phải bỏ,
huống chi phi pháp (46) ?
Lược Ggiải.-
Còn ý tưởng là còn ngã, còn ngã
thì khẳng định thế nào cũng là ngã biến thể, phủ định đến mấy vẫn
là ngã biến thể. Tin bát nhã là nhận thức và đã bắt đầu không còn
như vậy. Không còn như vậy thì phước đức làm ra mới gọi là thiện
pháp (đoạn 38).
Bát 1. - Như Thật Tri Kiến Về Pháp
(Đoạn 9)
Chính Văn.-
(9) Trưởng lão Thiện hiện, ông
nghĩ thế nào, phải chăng Như lai được vô thượng giác (47) ? phải chăng
Như lai có sự thuyết pháp (48) ? Trưởng lão thưa rằng, kính bạch Thế
tôn, theo con hiểu biết ý của Ngài nói, thì không thể có một pháp khẳng
định để được mệnh danh là vô thượng giác, cũng không thể có một
pháp khẳng định để được gọi là Thế tôn thuyết pháp. Tại sao như vậy,
vì Pháp (49) ngài nói không thể nắm lấy, không thể diễn tả, không phải
là pháp, không phải phi pháp (50) - Lý do là vì hết thảy hiền thánh (51)
toàn là Vô vi biểu hiện khác biệt (52) .
Lược Giải.-
Cũng như Phật, Pháp của Phật chứng
và thuyết, và cả hiền thánh, những vị tu học Pháp ấy, toàn là biểu
hiện của Như, siêu việt nhận thức, diễn đạt, và đối tượng của nhận
thức, diễn đạt: hãy như thật tri kiến như vậy về Pháp.
Bát 2. - Phước Đức Của Pháp Thoại
(Đoạn 10)
Chính Văn.-
(10) Trưởng lão Thiện hiện, ông
nghĩ thế nào, có ai đem cho (53) đủ hết bảy loại vàng ngọc chất đầy
đại thiên thế giới (54) , thì người cho ấy được phước nhiều không?
Rất nhiều, bạch Ngài; vì phước đức ấy Ngài đã nói là tính phi phước
đức (55) , thế nên Ngài nói phước đức rất nhiều. Trưởng lão Thiện
hiện, nhưng nếu có ai từ pháp thoại này, tiếp nhận ghi nhớ dầu là chỉ
được chỉnh cú bốn câu (56) , và biết đem nói cho bao người khác, thì
phước người ấy vẫn hơn người trước. Tại sao như vậy, vì lẽ, trưởng
lão, hết thảy Phật đà cùng với Phật pháp (57) -- pháp vô thượng giác
của các Phật đà-- toàn là xuất ra từ pháp thoại (58) này. Trưởng lão
Thiện hiện, gọi là Phật pháp (59) thì Như lai nói là phi Phật pháp, thế
nên Như lai nói là Phật pháp (60) .
Lược Giải.-
Phước đức học, nhớ, tụng và
giảng Kim cương mà Phật nói là nhiều, vì phước đức ấy siêu việt phước
đức: vì phước đức ấy là Như. Nhưng điều này chỉ nói phía người học,
nhớ, tụng và giảng, lý do nhiều còn vì Kim cương là mẹ sinh ra Phật và
tuệ giác của Phật.
Bát 1. - Như Thật Tri Kiến Về
Thanh Văn
(Đoạn 11)
Chính Văn.-
(11) Trưởng lão Thiện hiện, ông
nghĩ thế nào, vị Tu đà hoàn có ý nghĩ rằng ta được đạo quả Tu đà
hoàn chăng? Trưởng lão thưa Ngài, không, bạch Thế tôn; tại sao như vậy,
vì Tu đà hoàn là Vào dòng nước (61) , thế nhưng thật ra không có cái gì
nhập vào đâu cả: không nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nên được
mệnh danh là Tu đà hoàn (62) . Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào,
vị Tư đà hàm có ý nghĩ rằng ta được đạo quả Tư đà hàm chăng? Trưởng
lão thưa Ngài, không, bạch Thế tôn; tại sao như vậy, vì Tư đà hàm là Một
trở lại (63) , thế nhưng thật ra không có cái gì một lần trở lại,
nên được mệnh danh là Tư đà hàm. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế
nào, vị A na hàm có ý nghĩ rằng ta được đạo quả A na hàm chăng? Trưởng
lão thưa Ngài, không, bạch Thế tôn; tại sao như vậy, vì A na hàm là
Không trở lại (64) , thế nhưng thật ra không có cái gì không còn trở lại,
nên được mệnh danh là A na hàm. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào,
vị A la hán có ý nghĩ rằng ta được đạo quả A la hán chăng? Trưởng lão
thưa Ngài, không, bạch Thế tôn; tại sao như vậy, vì lẽ thật ra không
có cái gì là A la hán, nên được mệnh danh là A la hán (65) . Kính bạch Thế
tôn, nếu vị La hán nghĩ rằng mình được đạo quả La hán, thì như thế
là chấp trước ngã nhân, chấp trước chúng sinh, chấp trước thọ giả
(66) . Bạch Ngài, Ngài nói trong số những người được định Không cãi
(67) , con là hơn hết, con là La hán ly dục bậc nhất; nhưng con không có ý
nghĩ mình là một vị La hán ly dục bậc nhất. Nếu con còn nghĩ mình là
La hán, thì Ngài không nói Thiện hiện là người thích thú làm theo chánh
định Không cãi (68) ; vì con không còn làm theo gì cả, nên Ngài nói con
theo định Không cãi.
Lược Giải.-
Nghĩa của câu "hết thảy hiền
thánh toàn do Vô vi biểu hiện khác biệt" (đoạn 9) càng phải được
nói ở đây, khi như thật tri kiến về 4 đạo quả Thanh văn: 4 đạo quả
ấy cũng là Phi, là biểu hiện của Như. Là ở đây có nghĩa phải là. Vì
nếu các vị Thanh văn, trong đó đặc biệt La hán, còn nghĩ mình chứng quả
nào hay được pháp gì, thì ý nghĩ ấy chính là ngã chấp.
Nhã 1. - Như Thật Tri Kiến Về Bồ
Tát Hạnh Quả Của Phật
(Đoạn 12)
Chính Văn.-
(12) Đức Thế tôn bảo trưởng lão
Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, Như lai xưa kia, nơi đức Nhiên đăng, được
pháp gì chăng? Không, bạch Thế tôn; nơi đức Nhiên đăng, thực sự Thế
tôn không được pháp gì.
Lược Giải.-
Như thật tri kiến về Bồ tát hạnh
quả của Phật bằng cách nhìn lại 1 mẫu của hạnh quả ấy, ấy là lúc
Ngài gặp đức Nhiên đăng. Việc này sẽ nói rõ hơn ở đoạn 30.
Nhã 2. - Như Thật Tri Kiến Về Bồ
Tát Hạnh
(Đoạn 13)
Chính Văn.-
(13) Trưởng lão Thiện hiện, ông
nghĩ thế nào, phải chăng Bồ tát trang hoàng cõi Phật (69) ? Không, bạch
Thế tôn; lý do là vì trang hoàn cõi Phật, sự trang hoàng ấy Thế tôn đã
nói là phi trang hoàng, thế nên Ngài nói đó là trang hoàng. Do vậy, trưởng
lão, Bồ tát đại sĩ hãy sinh cái tâm trong sạch như vầy: không ở nơi sắc
mà sinh tâm ra, không ở nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà sinh tâm ra (70)
; hãy đừng ở vào bất cứ chỗ nào mà sinh tâm ra (71) .
Lược Giải.-
Bồ tát hạnh là vô trú bát nhã hoạt
hiện mọi việc làm sạch thế giới và làm nên chúng sinh. Hãy như thật
tri kiến như vậy về Bồ tát hạnh.
Nha 3. Như Thật Tri Kiến Về Bồ Tát
Quả
(Đoạn 14)
Chính Văn.-
(14) Trưởng lão Thiện hiện, ví dụ
có người thân thể cao lớn như núi Tu di, ông nghĩ thế nào, thân ấy lớn
không? Rất lớn, bạch Ngài; tại sao, bởi vì Ngài nói thân lớn là phi
thân lớn, thế nên Ngài nói đó là thân lớn (72) .
Lược Giải.-
Bồ tát quả là gì? Là chủ đích
mà Bồ tát hạnh nhắm đến. Chủ đích ấy là Như: là Phật thân. Trong
ngôn ngữ Kim cương, thân chúng sinh cũng là phi thân: là tự siêu việt, là
Như. Đoạn 14 này giả dụ có cái thân lớn, và vì thân lớn là phi thân
(là Như) mà gọi là thân lớn, chứ không phải vì thân lớn là thân lớn
mà gọi là thân lớn. Như vậy thân nhỏ cũng là phi thân (cũng là Như):
cũng là thân lớn, cũng là Phật thân. Tăng triệu đại sư giải thích đoạn
này chỉ có mấy chữ (Vạn 38/212A), Trí giả đại sư lặp lại cũng như
thế (Chính 33/79), tôi viết lại giản dị như sau: biết thân này là phi
thân thì thân này là Phật thân.
Bát 3. - Phước Đức Của Pháp Thoại
(Đoạn 15)
Chính Văn.-
(15) Trưởng lão Thiện hiện, giả
thiết sông Hằng có bao nhiêu cát, thì mỗi hạt cát là một sông Hằng,
ông nghĩ thế nào, số cát tất cả sông Hằng như vậy nhiều hay không nhiều?
Rất nhiều, bạch Ngài; số lượng sông Hằng đã là vô số, huống chi số
cát những sông Hằng ấy. Trưởng lão Thiện hiện, với lời nói thật, Như
lai hôm nay nói với trưởng lão: giả sử thiện nam hay thiện nữ nào đem
hết bảy loại vàng ngọc chất đầy thế giới đại thiên nhiều như số
cát những sông Hằng ấy mà làm bố thí (73) , thì phước họ được là
nhiều hay ít? Trưởng lão kính thưa, rất nhiều, bạch Ngài. Trưởng lão
Thiện hiện, nếu có thiện nam hay thiện nữ khác, với pháp thoại (74)
này, tiếp nhận ghi nhớ dầu chỉ bốn câu (75) , và biết đem nói cho bao
người khác (76) , thì phước người này hơn phước người trước. Thêm nữa,
trưởng lão, chỗ nào giảng dạy pháp thoại như vầy, dầu chỉ bốn câu,
trưởng lão cũng phải nhận thức chỗ ấy, tất cả thế giới chư thiên
nhân loại và a tu la đều nên hiến cúng y như hiến cúng chùa tháp Như
lai. Huống chi có người tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng
được thuộc lòng, giảng nói cho người (77) trọn pháp thoại này; trưởng
lão phải biết người ấy đạt được cái pháp tối thượng hiếm có bậc
nhất, và những địa điểm người ấy giảng dạy pháp thoại như vầy
(78) là có Như lai, hay có các vị đệ tử cao trọng.
Nhã 1. - Như Thật Tri Kiến Về Bản
Thân Của Tuệ Giác
(Đoạn 16)
Chính Văn.-
(16) Vào lúc bấy giờ, trưởng lão
Thiện hiện bạch đức Thế tôn, pháp thoại (79) như vầy nên gọi tên
gì? Chúng con cần phải ghi nhớ thế nào? Đức Thế tôn dạy, trưởng lão
Thiện hiện, pháp thoại như vầy nên gọi tên là Kim cương bát nhã ba la mật
đa (80) , trưởng lão hãy nhớ pháp thoại như vầy qua danh hiệu ấy. Tại
sao như vậy, trưởng lão Thiện hiện, bởi vì bát nhã ba la mật đa thì Như
lai nói là phi bát nhã ba la mật đa, thế nên Như lai nói là bát nhã ba la mật
đa (81) .
Lược Giải.-
Đoạn này không phải kết thúc như
thường lệ ở các kinh khác. Đoạn này Phật đặt tên kinh là Bát nhã ba
la mật đa (Trí độ) để dạy cho ngài Tu bồ đề như thật tri kiến về
bản thân của Bát nhã ấy: Bát nhã mà gọi là Bát nhã là vì phi Bát nhã:
vì sự siêu việt chính Nó, vì là Như.
Nhã 2. - Như Thật Tri Kiến Về Tuệ
Giác Phật Dạy
(Đoạn 17-18)
Chính Văn.-
(17) Trưởng lão Thiện hiện, ông
nghĩ thế nào, Như lai có sự thuyết pháp hay không ? Trưởng lão thưa Ngài,
không, bạch Thế tôn, Thế tôn không có thuyết pháp gì cả.
(18) Trưởng lão Thiện hiện, ông
nghĩ thế nào, thế giới đại thiên có bao vi trần (82) , số lượng nhiều
không? Rất nhiều, bạch Ngài. Trưởng lão Thiện hiện, những vi trần ấy,
Như lai nói chúng là phi vi trần, thế nên Như lai nói là vi trần. Và bao thế
giới (83) , Như lai cũng nói những thế giới ấy là phi thế giới, thế
nên Như lai nói là thế giới.
Lược Giải Đoạn 17-18.
Đoạn 17 nói tắt đoạn 9 ở trước
và đoạn 36 ở sau. Nhưng lời như nhau mà ý không đồng. Đoạn 17 này cốt
nói tuệ giác bát nhã biết Phật thuyết là phi Phật thuyết, biết Pháp của
Phật thuyết là phi Pháp. Và cái biết, như cái được biết của nó, nó cũng
là phi biết. Đoạn 18 cho thấy, cái biết biết Phật thuyết và Pháp của
Phật thuyết là như vậy, và cũng là như vậy mà biết về phân tử và vũ
trụ của phân tử: biết cái cấu trúc khổng lồ đè nặng tâm thức con
người ấy cũng chỉ là Phi. Hãy như thật tri kiến như vậy về bát nhã
Phật dạy.
Nhã 3. - Như Thật Tri Kiến Về Cái
Thân Phật Dùng Để Dạy Tuệ Giác Ấy
(Đoạn 19)
Chính Văn.-
(19) Trưởng lão Thiện hiện, trong
ý của ông, ông nghĩ thế nào, có thể hay không nhìn thấy Như lai bằng ba
mươi hai đặc tướng siêu nhân (84) ? Không, bạch Thế tôn; tại sao như vậy,
vì các đặc tướng thì Thế tôn nói là phi đặc tướng, thế nên Thế
tôn nói là đặc tướng.
Lược Giải.-
Cái thân mà Phật dùng để thuyết
bát nhã ở đây là thân trượng lục, thân 32 tướng tốt. Nhưng thân ấy
là phi thân, là Như. Như vậy nếu thấy 32 tướng là Như thì thế là thấy
Phật bằng 32 tướng. Bát nhã thấy là như vậy, và chính cái thấy ấy đã
là như vậy.
Nhã 4. - Phước Đức Của Pháp Thoại
(Đoạn 20)
Chính Văn.-
(20) Trưởng lão Thiện hiện, nếu
có thiện nam hay thiện nữ nào đem thân mạng mình bằng cát sông Hằng mà
bố thí cả, và có người khác với pháp thoại này tiếp nhận ghi nhớ dầu
chỉ bốn câu, và đem giảng nói cho bao người khác, thì phước người này
quá nhiều hơn nữa.
Bát 2. - Như Thật Tri Kiến Về Đức
Tin Của Tuệ Giác
(Đoạn 21)
Chính Văn.-
(21) Vào lúc bấy giờ, trưởng lão
Thiện hiện nghe pháp thoại này, lĩnh hội sâu xa, lòng đầy xúc cảm, rơi
lụy mà khóc. Trưởng lão thưa rằng, thật quá hiếm có, kính bạch Thế
tôn: Ngài đã tuyên thuyết pháp thoại cực sâu. Từ khi có được con mắt
tuệ giác cho đến ngày nay, con chưa nghe được pháp thoại như vầy. Bạch
Ngài, có ai nghe pháp thoại này tin tưởng trong sáng, và phát sinh được cái
tuệ giác thật (85) , thì biết người ấy đạt được công đức hiếm có
bậc nhất. Kính bạch Thế tôn, tuệ giác thật ấy thì Ngài nói là phi tuệ
giác thật, thế nên Ngài nói là tuệ giác thật (86) . Kính bạch thế tôn,
hôm nay con được nghe pháp thoại này, tin tưởng, lĩnh hội, tiếp nhận,
ghi nhớ, thì không khó mấy. Nhưng nếu tương lai, năm trăm năm sau, người
nào nghe được pháp thoại như vầy, tin tưởng, lĩnh hội, tiếp nhận, ghi
nhớ, mới hiếm có nhất. Tại sao như vậy, bởi vì người ấy thì không
còn có ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả --Ý tưởng ngã nhân chúng
sinh thọ giả là phi ý tưởng: phi mọi ý tưởng, thì thế gọi là chư Phật
như lai (87) . Đức Thế tôn dạy, trưởng lão Thiện hiện, thật đúng như
vậy; nếu có người nào được nghe pháp thoại Bát nhã như vầy mà không
kinh ngạc, cũng không sợ hãi, thì biết người ấy cực kỳ hiếm có. Tại
sao, trưởng lão, bởi vì Bát nhã chính là tối thượng ba la mật đa (88) ,
và Như lai nói cái pháp tối thượng ba la mật đa là phi tối thượng ba la
mật đa, thế nên Như lai nói là tối thượng ba la mật đa.
Lược Giải.-
Đức tin của Bát nhã cũng như Bát
nhã, đức tin mà bản thân của nó là như Phật: siêu việt mọi ý tưởng.
Nhã 1. - Như Thật Tri Kiến Về Nhẫn
Nhục
(Đoạn 22)
Chính Văn.-
(22) Trưởng lão Thiện hiện, cái
pháp nhẫn nhục ba la mật đa (89) , như lai cũng nói là phi nhẫn nhục ba la
mật đa, thế nên Như lai nói là nhẫn nhục ba la mật đa (90) . Tại sao,
trưởng lão, vì như xưa kia, trong khi Như lai bị Ca lị vương cắt thịt khắp
nơi tay chân Như lai, Như lai không có ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả.
Nếu lúc bấy giờ Như lai còn có ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả,
thì phải sinh ra giận dữ oán hận. Trưởng lão Thiên hiện, Như lai lại
nhớ trong thì quá khứ, có năm trăm đời Như lai đã làm tiên nhân Nhẫn
nhục. Vào lúc bấy giờ, Như lai cũng không ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ
giả.
Lược Giải.-
Bồ tát hạnh có 6 sự toàn hảo gọi
là lục độ. Căn bản của lục độ là trí độ (bát nhã), 5 độ còn lại
là chi tiết của căn bản ấy. Trong 5 độ còn lại, liên hệ nhất với
ngã chấp là thí độ và nhẫn độ. Nhẫn độ là xả bỏ tự ngã (bỏ
thân), thí độ là xả bỏ ngã sở (bỏ của). Đoạn này Phật lấy tiền
thân của mình để dạy hãy như thật tri kiến như thế nào về nhẫn độ.
Nhã 2. - Như Thật Tri Kiến Về Bố
Thí
(Đoạn 23)
Chính Văn.-
(23) Vì lý do ấy, trưởng lão Thiện
hiện, Bồ tát thì phải rời mọi ý tưởng mà phát huy tâm vô thượng bồ
đề (91) ; đừng ở nơi sắc mà sinh tâm ra, đừng ở nơi thanh, hương, vị,
xúc, pháp, mà sinh tâm ra (92) . Hãy sinh cái tâm không ở đâu cả. Nếu tâm
ở đâu, thì chính như thế là phi trú ở (93) . Vì lý do này, Như lai nói rằng
Bồ tát thì phải không ở sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà làm bố
thí. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát thì vì ích lợi chúng sinh một cách
khắp cả mà hãy bố thí theo cách như vậy. Vì Như lai nói ý tưởng chúng
sinh là phi ý tưởng (94) , Như lai cũng nói hết thảy chúng sinh là phi
chúng sinh (95) . Trưởng lão Thiện hiện, Như lai là người nói phải, nói
chắc, nói như sự thật, nói không lừa đảo, nói không mâu thuẫn. Trưởng
lão Thiện hiện, Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ được, cái Pháp như vậy
không phải chắc chắn, không phải trống rỗng (96) . Trưởng lão Thiện hiện,
Bồ tát nếu tâm ở nơi mọi thứ mà làm bố thí, thì như một người vào
trong bóng tối, không còn thấy được một thứ gì hết; Bồ tát nếu tâm
không ở mọi thứ mà làm bố thí, thì như một người đã có mắt sáng,
lại có ánh sáng mặt trời soi rõ, nên thấy đủ cả.
Lược Giải.-
Đoạn này dạy như thật tri kiến
về thí độ: người cho, vật cho và người nhận, kể cả ý tưởng về
ba thứ này, toàn là Phi: siêu việt mọi phạm trù có không. Trong phần đầu
của đoạn này, từ vì lý do ấy đến vô thượng bồ đề là phi người
cho, từ đừng ở nơi sắc đến mà làm bố thí là phi vật cho, từ trưởng
lão Thiện hiện đến là phi chúng sinh là phi người nhận. Bố thí bằng
vô trú bát nhã như vầy bổ túc hơn nữa cho đoạn 6 đã nói.
Bát 4. - Phước Đức Của Pháp Thoại
(Đoạn 24)
Chính Văn.-
(24) Trưởng lão Thiện hiện, trong
thì vị lai, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, đối với pháp thoại
Bát nhã như vầy, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được
thuộc lòng, nói cho người khác (97) , thì thế là được Như lai sử dụng
tuệ giác Như lai mà biết rất rõ, và thấy rất rõ (98) , rằng người
như vậy ai cũng đạt được vô lượng công đức.
Bát 1. - Như Thật Tri Kiến Về
Sự Tin Đặc Biệt
(Đoạn 25)
Chính Văn.-
(25) Trưởng lão Thiện hiện, nếu
có thiện nam hay thiện nữ nào buổi sáng đã đem hằng sa thân mạng mà bố
thí cả, buổi trưa cũng đem hằng sa thân mạng mà bố thí nữa, buổi chiều
lại đem hằng sa thân mạng mà bố thí luôn, và sự bố thí thân mạng như
vậy làm đến trăm ngàn vạn ức thời kỳ (99) ; và có người khác nghe
pháp thoại này, trong lòng tin tưởng chứ không đối kháng, thì phước
người này hơn phước người trước, huống chi có người sao chép ấn
hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng,
nói cho người khác. Trưởng lão Thiện hiện, chính yếu mà nói, thì bài
pháp thoại Bát nhã như vầy có những công đức ngoài tầm nghĩ bàn, ước
lượng, đối chiếu, siêu việt giới hạn; Như lai nói cho những người
đi theo giáo pháp đại thừa (100) , nói cho những người đi theo giáo pháp
đại thừa tối thượng (101) . Ai có năng lực tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét
văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, trình bày phong phú cho bao người khác,
thì chính Như lai biết rõ người ấy, thấy rõ người ấy, đạt được công
đức không thể ước lượng, không thể đối chiếu, không có giới hạn,
ngoài tầm nghĩ bàn. Những người như vậy có thể gánh vác tuệ giác vô
thượng của ta, Như lai. Tại sao như thế, trưởng lão Thiện hiện, bởi
vì những ai ưa pháp tiểu thừa (102) , vẫn còn ngã nhân chúng sinh thọ giả,
thì với Pháp này không thể lắng nghe, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn
nghĩa, tụng được thuộc lòng, nói cho người khác.
Lược Giải.-
Tiểu thừa thanh văn còn ngã chấp
là vì tự mãn với niết bàn tiểu thừa. Sự tự mãn ấy chính là ngã chấp
không những theo bản năng mà cũng còn theo lý thuyết. Ngã chấp như vậy nên
chữ Phi của Kim cương là "mũi dao tổn thương con tim" của họ. Do
vậy, hãy như thật tri kiến về đức tin Bát nhã: tin nổi Bát nhã là theo
nổi Đại thừa.
Bát 2. - Như Thật Tri Kiến Về Địa
Điểm Đặc Biệt
(Đoạn 26)
Chính Văn
(26) Trưởng lão Thiện hiện, bất
cứ chỗ nào, hễ có bản kinh Kim cương bát nhã, thì cả thế giới chư
thiên, nhân loại, và a tu la, đều nên hiến cúng. Nên biết chỗ ấy chính
là chùa tháp tôn thờ Như lai; hãy lạy, đi nhiễu, tung rãi các loại bông
hoa, hương liệu.
Bát 3. - Như Thật Tri Kiến Về Hiệu
Năng Đặc Biệt
(Đoạn 27)
Chính Văn.-
(27) Thêm nữa, trưởng lão, bất cứ
thiện nam hay thiện nữ nào học hỏi, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc
kinh Kim cương này mà bị khinh dễ, thì biết người ấy tội ác đời trước
đáng sa chỗ dữ, nhưng vì đời này bị người khinh dễ thì tội ác đó
tiêu tan hết cả, người ấy sẽ được tuệ giác vô thượng.
Lược Giải.-
Hiệu năng Kim cương được nói như
đoạn này thì thật rõ và gần như độc đáo. Phải là kinh như kinh Kim
cương mới có cái hiệu năng tiêu diệt ngay trong đời này những ác nghiệp
đã thuần thục. Hãy như thật tri kiến như vậy để khỏi ngờ và sợ
khi thấy đọc tụng Kim cương mà hay bị những sự bất như ý.
Bát 4. - Như Thật Tri Kiến Về Phước
Đức Đặc Biệt
(Đoạn 28)
Chính Văn.-
(28) Trưởng lão Thiện hiện, Như
lai nhớ lại quá khứ vô số thời kỳ vô số (103) , trước khi Như lai gặp
đức Nhiên đăng, thì đã gặp được tám trăm bốn ngàn vạn ức trăm triệu
chư Phật như lai, đối với Ngài nào Như lai cũng đồng thừa sự hiến cúng
chứ không bỏ qua. Nhưng nếu có ai, ở trong thời kỳ cuối cùng sau này,
mà có năng lực học hỏi, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc bản kinh Kim cương
bát nhã này đây, thì bao công đức người ấy đạt được, công đức
Như lai phụng sự chư Phật không bằng phần trăm, phần ngàn vạn ức, đến
nỗi toán pháp và ví dụ nữa, cũng không bằng được một phần nào cả.
Trưởng lão Thiện hiện, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào ở trong thời
kỳ cuối cùng sau này, mà có khả năng tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng
thuộc bản kinh Kim cương bát nhã như vầy, bao nhiêu công đức mà họ đạt
được, nếu Như lai nói một cách đầy đủ, thì tất có kẻ nghe mà nổi
khùng, bối rối, hoài nghi, không thể tin được. Trưởng lão Thiện hiện,
phải nhận thức rằng ý nghĩa Kim cương không thể nghĩ bàn, hiệu quả cũng
vậy không thể nghĩ bàn.
Lược Giải.-
Phật đem chính phước đức của mình
mà đề cao phước đức Kim cương: phước đức Kim cương siêu việt là
vì ý nghĩa Kim cương siêu việt.
Nhã 1. - Như Thật Tri Kiến Về Chủ
Thể Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề
(Đoạn 29)
Chính Văn.-
(29) Vào lúc bấy giờ, trưởng lão
Thiện hiện kính bạch Thế tôn, thiện nam thiện nữ đã phát tâm nguyện
vô thượng bồ đề, thì phải làm sao để ở tâm ấy? và phải làm sao để
sửa tâm mình? Đức Thế tôn dạy, trưởng lão Thiện hiện, thiện nam thiện
nữ phát tâm bồ đề, thì sửa tâm mình bằng tuệ giác này: ta phải làm
cho hết thảy chúng sinh đều được niết bàn, hết thảy chúng sinh được
niết bàn rồi mà thật không thấy một chúng sinh nào được niết bàn cả.
Lý do là vì Bồ tát mà có ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả, thì như
thế là không phải Bồ tát. Tại sao như vâểy, trưởng lão Thiện hiện,
bởi vì thật ra không có pháp gì là người phát tâm vô thượng bồ đề.
Lược Giải.-
Đoạn 29 này văn tự gần như lặp
lại đoạn 3 và đoạn 5, nhưng cốt ý nói bát nhã không thấy có mình là
người phát tâm vô thượng bồ đề.
Nhã 2. - Như Thật Tri Kiến Về Chủ
Thể Thực Hiện Vô Thượng Bồ Đề
(Đoạn 30)
Chính Văn.-
(30) Trưởng lão Thiện hiện, ông
nghĩ thế nào, nơi đức Nhiên đăng, phải chăng Như lai có một pháp gì gọi
là đạt được vô thượng bồ đề? Không, bạch Thế tôn; theo chỗ con hiểu
ý nghĩa đã được Thế tôn dạy cho, thì khi Ngài ở nơi đức Nhiên
đăng, không có pháp gì gọi là đạt được vô thượng bồ đề. Đức Thế
tôn dạy, đúng vậy Thiện hiện, đúng là không có pháp gì gọi là Như
lai đạt được vô thượng bồ đề. Nếu có pháp gì gọi là Như lai đạt
được tuệ giác vô thượng bồ đề, thì đức Nhiên đăng đã không ghi
nhận, rằng trong tương lai ông thành Phật đà, danh hiệu gọi là Thích ca
mâu ni; vì thật không có pháp gì gọi là Như lai đạt được vô thượng
bồ đề, nên đức Nhiên đăng mới ghi nhận cho, bằng cách nói rằng ông
thành Phật đà danh hiệu gọi là Thích ca mâu ni --Tại sao như vậy, vì chữ
Như lai chính là nghĩa Như của tất cả pháp (104) . Nếu có ai nói Như lai
đạt được vô thượng bồ đề, thì nói như vậy là không chính xác
(105) , bởi vì, trưởng lão, thật ra không có pháp gì gọi là Như lai đạt
được vô thượng bồ đề. Trưởng lão Thiện hiện, Như lai đạt được
vô thượng bồ đề, sự đạt được ấy không phải chắc chắn, không phải
trống rỗng. Vì lý do này, Như lai tuyên ngôn rằng tất cả pháp toàn là
Phật pháp. Trưởng lão Thiện hiện, tất cả pháp ấy Như lai đã nói phi
tất cả pháp, nên Như lai nói là tất cả pháp.
Lược Giải.-
Đoạn 30 này đã được nói lược
ở đoạn 12, nhưng đoạn ấy cốt nói bát nhã không thấy có bồ tát hạnh
quả của Phật, còn đoạn này cốt nói bát nhã không thấy có cái người
thực hiện vô thượng bồ đề.
Nhã 3. - Như Thật Tri Kiến Về Bồ
Tát Hạnh Thực Hiện Vô Thượng Bồ Đề
(Đoạn 31-32)
Chính Văn.-
(31) Trưởng lão Thiện hiện, ví như
có người thân thể cao lớn... Trưởng lão Thiện hiện liền bạch Thế
tôn, thân cao lớn ấy thì Ngài đã nói phi thân cao lớn, thế nên Ngài nói
là thân cao lớn. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát cũng vậy; Bồ tát mà
nói ta phải làm cho vô số chúng sinh đều được niết bàn, thì không được
gọi là vị Bồ tát; trưởng lão Thiện hiện, bởi vì thật ra không có
pháp gì gọi là Bồ tát. Vì thế Như lai nói tất cả pháp không phải ngã
nhân chúng sinh thọ giả.
(32) Trưởng lão Thiện hiện, nếu
Bồ tát nói ta phải trang hoàng cõi Phật của ta, thì không được gọi là
vị Bồ tát. Tại sao, trưởng lão, trang hoàng cõi Phật thì Như lai nói là
phi trang hoàng, thế nên Như lai nói là trang hoàng. Trưởng lão Thiện hiện,
Bồ tát thấu triệt về sự vô ngã (106) , Như lai mới nói vị ấy đích
thực là vị Bồ tát.
Lược Giải Đoạn 31-32.-
Cả 2 đoạn này cốt nói bát nhã
không thấy có cái người làm bồ tát hạnh: đoạn 31 nói sự làm nên
chúng sinh, đoạn 32 nói sự làm sạch thế giới. Đoạn 31, văn phần đầu
gần như lặp lại đoạn 14, nhưng đoạn 14 cốt nói Phật thân là phi Phật
thân (thân lớn là phi thân lớn), còn đoạn 31 này cốt nói Bồ tát là phi
Bồ tát (thân lớn là phi thân lớn). Đoạn 32 cũng vậy, văn như đoạn 13
mà ý cốt nói không có cái người làm sự làm sạch thế giới.
Nhã 4. - Như Thật Tri Kiến Về Tuệ
Của Vô Thượng Bồ Đề
(Đoạn 33)
Chính Văn.-
(33) Trưởng lão Thiện hiện, ông
nghĩ thế nào, có đúng Như lai hiện có mắt thịt, mắt trời phải không?
Phải, bạch Thế tôn, Ngài có mắt thịt và có mắt trời. Có đúng Như
lai hiện có mắt tuệ, mắt pháp phải không? Phải, bạch Thế tôn, Ngài
có mắt tuệ và có mắt pháp. Như lai hiện có mắt Phật phải không? Phải,
bạch Thế tôn, Ngài có mắt Phật. Trưởng lão Thiện hiện, ông nghĩ thế
nào, cát trong sông Hằng Như lai cũng nói là cát phải không? Phải, Ngài
nói cát. Ông nghĩ thế nào, có bao nhiêu cát trong một sông Hằng thì có
sông Hằng bằng số cát ấy, và những cõi Phật bằng với số cát những
sông Hằng này thì nhiều hay không? Rất nhiều, bạch Ngài. Trưởng lão Thiện
hiện, bao nhiêu tâm tưởng (107) tất cả chúng sinh trong những cõi Phật
được nói như vậy, Như lai biết hết. Tại sao, trưởng lão, Như lai nói
rằng bao tâm tưởng ấy là phi tâm tưởng, thế nên Như lai nói là tâm tưởng:
Tâm tưởng quá khứ không thể nhận được, tâm tưởng hiện tại không
thể nhận được, tâm tưởng vị lai không thể nhận được.
Lược Giải.-
Về ngũ nhãn của Phật, Dẫn nhập
điều 7 mục c đã nói sơ lược. Nay nói sơ lược hơn nữa, theo ngôn ngữ
Kim cương. Thấy A (sở ngôn) là nhục nhãn và thiên nhãn. Thấy A là phi-A
(tức phi) là tuệ nhãn. Vì A là phi-A nên nói là A (thị danh) là pháp nhãn.
Phật nhãn viên mãn và siêu việt tất cả. Ngũ nhãn như vậy là tuệ của
vô thượng bồ đề. Ngũ nhãn là như vậy nên thấy biết bình thường
như cát Phật cũng thấy biết, thấy biết cái biến hóa và siêu tốc nhất
như tâm lý Phật càng thấy biết --thấy biết tận cùng số lượng, thực
chất.
Nhã 5. - Như Thật Tri Kiến Về Phước
Của Vô Thượng Bồ Đề
(Đoạn 34)
Chính Văn.-
(34) Trưởng lão Thiện hiện, giả
sử có ai đem hết vàng ngọc đầy cõi đại thiên mà bố thí cả, người
này vì thế được phước nhiều không? Rất nhiều, bạch Ngài; người này
vì thế được phước rất nhiều. Trưởng lão Thiện hiện, nêắu phước
có thật thì Như lai đã không nói phước nhiều, nhưng vì phước ấy thật
là phi phước, thế nên Như lai nói là phước nhiều.
Lược Giải.-
Phước của vô thượng bồ đề là
thuận tánh mà tu hành và diệu dụng. Tức như Khởi tín luận nói thuận
theo sự không trú ở của chân như mà không trú ở sinh tử và niết
bàn..., thuận theo chân như không tham lẫn mà bố thí...
Nhã 1. - Như Thật Tri Kiến Về Phật
Thân
(Đoạn 35)
Chính Văn.-
(35) Trưởng lão Thiện hiện, ông
nghĩ thế nào, có thể hay không nhìn thấy Như lai bằng cái sắc thân toàn
hảo đặc tướng? Không, bạch Thế tôn, không nên nhìn Ngài bằng cái sắc
thân toàn hảo đặc tướng. Tại sao như vậy, vì cái sắc thân toàn hảo
đặc tướng thì Thế tôn nói là phi sắc thân toàn hảo đặc tướng, đó
là lý do tại sao Thế tôn nói là sắc thân toàn hảo đặc tướng. Trưởng
lão Thiện hiện, ông nghĩ thế nào, có thể hay không nhìn thấy Như lai bằng
các đặc tướng toàn hảo tất cả? Không, bạch Thế tôn, không nên nhìn
Ngài bằng các đặc tướng toàn hảo tất cả. Tại sao như vậy, vì các
đặc tướng toàn hảo tất cả thì Thế tôn nói là phi đặc tướng toàn
hảo tất cả, đó là lý do tại sao Thế tôn nói là đặc tướng toàn hảo
tất cả.
Lược Giải.-
Đây là lần thứ 3 trong 5 lần
(các đoạn 7, 19, 35, 41, 42) đã và còn nói về sự thấy Phật bằng tướng
hảo. Nhưng 5 lần như vậy văn đồng mà ý khác. Ở đây, đoạn 35, là như
thật tri kiến về cái chủ thể có cái thân đầy đủ tướng hảo và có
tướng hảo đầy đủ.
Nhã 2. - Như Thật Tri Kiến Về Phật
Thuyết
(Đoạn 36)
Chính Văn.-
(36) Trưởng lão Thiện hiện, đừng
nói Như lai có cái ý nghĩ Như lai thuyết pháp. Đừng nói như vậy. Lý do tại
sao, vì nói Như lai có sự thuyết pháp thì thế chính là phỉ báng Như lai.
Nói thế tức là không khéo lĩnh hội ý nghĩa đã được Như lai tuyên thuyết.
Trưởng lão Thiện hiện, gọi là thuyết pháp là thật không có pháp gì để
thuyết, như thế mới được gọi là thuyết pháp.
Lược Giải.-
Thuyết pháp không những chỉ là
thuyết rằng Pháp là Phi (Như): là siêu việt ngôn thuyết, mà ngay cái người
thuyết pháp cũng là Phi. Đó là như thật tri kiến về Phật thuyết Pháp
và Pháp của Phật thuyết.
Nhã 3. - Như Thật Tri Kiến Về Phật
Hóa
(Đoạn 37)
Chính Văn.-
(37) Lúc ấy Thiện hiện, người lấy
tuệ giác mà làm tính mạng, kính bạch Thế tôn, có thể có ai trong thì vị
lai nghe Pháp như vậy mà tin tưởng không? Đức thế tôn dạy, những người
như vậy không phải chúng sinh hay không chúng sinh; tại sao, trưởng lão, gọi
là chúng sinh thì Như lai nói là phi chúng sinh, vì thế Như lai gọi là
chúng sinh (108) .
Lược Giải.-
Người thuyết Pháp và Pháp được
thuyết như thế nào thì người nghe Pháp cũng vậy. Người nghe Pháp không
phải là chúng sinh (vì là Phi, là Như), dầu hiện không phải là không
chúng sinh (vì chưa tự biết là Phi, là Như). Phật hóa là giáo hóa cho họ
biết sự không tự biết ấy. Hãy như thật tri kiến như vậy về Phật hóa
và người được Phật hóa.
Nhã 4. - Như Thật Tri Kiến Về Phật
Pháp
(Đoạn 38)
Chính Văn.-
(38) Trưởng lão Thiện hiện kính bạch
Thế tôn, Thế tôn đạt được vô thượng bồ đề, thật ra là sự phi đạt
được chăng? Đúng, đúng như vậy, trưởng lão Thiện hiện; Như lai đối
với vô thượng bồ đề không có chút gì gọi là đạt được, nên được
gọi là vô thượng bồ đề. Thêm nữa, trưởng lão, Pháp thì đồng đẳng,
không bất đồng đẳng (109) , thế nên gọi là vô thượng bồ đề: không
có ngã nhân chúng sinh thọ giả mà làm pháp lành, thế thì đạt được vô
thượng bồ đề. Trưởng lão Thiện hiện, gọi là pháp lành thì Như lai nói
là phi pháp lành, thế nên Như lai gọi là pháp lành.
Lược Giải.-
Pháp là pháp vô thượng bồ đề của
Phật, là Phật pháp. Pháp ấy là Như, siêu việt mọi khái niệm mà độc
chất là ngã chấp. Thiện pháp đạt đến Pháp ấy cũng là Như biểu hiện
- là thuận tánh khởi dụng.
Bát 3. - Phước Đức Của Pháp Thoại
(Đoạn 39)
Chính Văn.-
(39) Trưởng lão Thiện hiện, có người
đem cho bảy loại vàng ngọc chất đống bằng với những núi Tu di trong
cõi đại thiên, và có người khác tiếp nhận ghi nhớ dầu chỉ bốn câu
bản kinh Bát nhã ba la mật này, và nói cho người, thì phước người trước
không bằng phần trăm, phần ngàn vạn ức, toán pháp, ví dụ, cũng không bằng
được một phần nào cả.
Nhã 1. - Như Thật Tri Kiến Mà Loại
Bỏ Tà Kiến Thường Còn
(Đoạn 40-41)
Chính Văn.-
(40) Trưởng lão Thiện hiện, các vị
đừng nói Như lai nghĩ rằng Như lai giải thoát các loại chúng sinh; trưởng
lão Thiện hiện, đừng nghĩ như vậy, vì thật không có một chúng sinh
nào Như lai giải thoát. Nếu có chúng sinh Như lai giải thoát, thì thế
chính là Như lai đã có ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả. Trưởng lão
Thiện hiện, ý tưởng về ngã thì Như lai nói phi ý tưởng ngã (110) , nhưng
người tầm thường thì bảo là ngã. Trưởng lão Thiện hiện, người tầm
thường ấy Như lai nói là phi người tầm thường (111) .
Lược Giải.-
Loại bỏ chấp thường còn (chấp
có) có 2 đoạn. Đây là đoạn thứ nhất cốt nói nếu Phật thấy có
chúng sinh được mình hóa độ (cũng như nếu thấy có mình hóa độ chúng
sinh) thì cái thấy ấy là ngã chấp: chấp thường, chấp có.
Chính Văn.-
(41) Trưởng lão Thiện hiện, ông
nghĩ thế nào, phải chăng có thể nhìn thấy Như lai bằng ba mươi hai đặc
tướng siêu nhân? Kính bạch Thế tôn, theo chỗ con hiểu nghĩa của Ngài dạy,
không thể nhìn Ngài bằng ba mươi hai đặc tướng siêu nhân. Đức Thế tôn
dạy, trưởng lão Thiện hiện, thật đúng như vậy, bởi vì nếu nhìn ba mươi
hai nét đặc tướng siêu nhân mà cho có thể nhìn thấy Như lai, thì Chuyển
luân vương cũng là Như lai. Thế nên không thể nhìn thấy Như lai bằng ba
mươi hai đặc tướng siêu nhân; hãy nhìn Như lai bằng cách nhìn thấy tất
cả đặc tướng là phi đặc tướng (112) . Bấy giờ Thế tôn nói chỉnh
cú này:
- "Nếu đem sắc tướng
- nhìn thấy Như lai,
- hoặc đem âm thanh
- nhận thức Như lai,
- thì những người ấy
- đã đi lạc đường,
- không còn thể nào
- thấy biết Như lai" (113) .
Lược Giải.-
Đây là đoạn thứ hai loại bỏ chấp
thường còn (chấp có): Nếu thấy Phật qua sắc tướng (hay tìm Phật qua
âm thanh) như cái thấy (và cái nghe) của ngã chấp, thì ai có 32 tướng tốt
(dầu không tốt bằng Phật) cũng là Phật cả.
Nhã 2. - Như Thật Tri Kiến Mà Loại
Bỏ Tà Kiến Đoạn Diệt
(Đoạn 42-43)
Chính Văn.-
(42) Trưởng lão Thiện hiện, nếu
ông nghĩ rằng Như lai không do (114) đặc tướng toàn hảo mà được tuệ
giác vô thượng bồ đề, thì này, trưởng lão, đừng nghĩ như vậy, rằng
ta, Như lai, không do đặc tướng toàn hảo mà được vô thượng bồ đề
(115) .
Lược Giải.-
Loại bỏ chấp đoạn diệt (chấp
không) cũng bằng 2 đoạn. Đây là đoạn thứ nhất, nói quả bất diệt
(Phật đà bất diệt). Quả ấy là Phật thân đủ mọi tướng hảo: chính
Phật thân này tự phủ nhận sự chấp không (chấp đoạn) rồi. Muốn hiểu
Phật đà bất diệt như thế nào thì coi Pháp hoa phẩm 16.
Chính Văn.-
(43) Trưởng lão Thiện hiện, nếu
ông nghĩ rằng những người phát tâm vô thượng bồ đề nói rằng các
pháp là tiêu diệt hẳn, thì đừng nghĩ thế, tại sao, bởi vì những người
phát tâm vô thượng bồ đề đối với các pháp không nói tiêu diệt (116)
.
Lược Giải.-
Đây là đoạn thứ hai loại bỏ chấp
đoạn diệt (chấp không), bằng cách nói nhân bất diệt (Bồ tát bất diệt).
Nhân ấy là phát tâm vô thượng bồ đề: chính sự phát tâm này tự phủ
nhận sự chấp không (chấp đoạn) rồi.
Bát 2. - Loại Bỏ Tà Kiến Mà Hội
Nhập Như Thật Tri Kiến
Phân khoa trên đây, có thể đổi từ
ngữ mà nói một cách khác, nghĩa là nhìn một cách khác hơn nữa về 4 nhã
này: nhã 1 hội nhập như thật tri kiến về nghiệp quả, nhã 2 hội nhập
như thật tri kiến về thực thể, nhã 3 hội nhập như thật tri kiến về
vũ trụ, nhã 4 hội nhập như thật tri kiến về bản thân. Cách nhìn như vầy
có nghĩa đoạn 44 cho thấy phi thường phi đoạn nên có nghiệp thì có nghiệp
quả, đoạn 45 cho thấy phi thường phi đoạn nên bản thể vốn siêu việt,
đoạn 46-47 cho thấy phi thường phi đoạn nên cảnh giới là phi cảnh giới,
đoạn 48 cho thấy phi thường phi đoạn nên bản thân là Phật thân. Cách
nhìn như vầy sát ý hơn, nhưng hơi kém sát văn, nhất là văn đoạn 44, nên
tôi không dùng mà thấy phải nêu lên ở đây.
Nhã 1. - Hội Nhập Như Thật Tri Kiến
Về Nhân
(Đoạn 44)
Chính Văn.-
(44) Trưởng lão Thiện hiện, một
vị Bồ tát đem cho tất cả bảy loại vàng ngọc chất đầy thế giới
như cát sông Hằng; vị Bồ tát khác biết tất cả pháp toàn là vô ngã
(117) , thành được sức Nhẫn (118) , thì Bồ tát này hơn Bồ tát trước.
Lý do là vì, trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát thì không tiếp nhận phước
đức. Trưởng lão Thiện hiện kính bạch Thế tôn, tại sao Bồ tát không
nhận phước đức? Bởi vì, Thiện hiện, Bồ tát làm hết mọi sự phước
đức, thế nhưng không nên tham đắm phước đức, Như lai do vậy nói là
không nhận mọi sự phước đức (119) .
Lược Giải.-
Hội nhập như thật tri kiến về
nhân là thấy Vô sinh pháp nhẫn hoạt dụng thành cái phước đức siêu việt
đam mê, cố thủ.
Nhã 2. - Hội Nhập Như Thật Tri Kiến
Về Quả
(Đoạn 45)
Chính Văn.-
(45) Trưởng lão Thiện hiện, nếu
nói Như lai có đến, có đi, có ngồi, có nằm, thì người nói ấy không
hiểu ý nghĩa Như lai đã nói. Tại sao như vậy, bởi vì Như lai không đến
từ đâu, không đi về đâu, nên gọi Như lai.
Lược Giải.-
Hội nhập như thật tri kiến về
quả là thấy Như lai và Như: siêu việt mọi sự không Như.
Nhã 3. - Hội Nhập Như Thật Tri Kiến
Về Vũ Trụ
(Đoạn 46-47)
Chính Văn.-
(46) Trưởng lão Thiện hiện, có ai
nghiền nát thế giới đại thiên thành ra vi trần, thì ông nghĩ sao, những
vi trần ấy là nhiều hay ít? Rất nhiều, bạch Ngài. Tại sao, bởi vì những
vi trần ấy nếu là thật có, thì Ngài không nói là những vi trần --Thế
nhưng vi trần thì Ngài đã nói là phi vi trần, do đó Ngài nói là những vi
trần (120) .
(47) Và bạch Thế tôn, cái mà Ngài
nói thế giới đại thiên thì phi thế giới, vì thế nên được gọi là
thế giới. Tại sao như vậy, bởi vì nếu nói thế giới thật có, thì đó
chỉ là ý tưởng hợp nhất --Ý tưởng hợp nhất thì Ngài nói phi ý tưởng
hợp nhất, nên được gọi là ý tưởng hợp nhất. Đức Thế tôn dạy,
trưởng lão Thiện hiện, ý tưởng hợp nhất thì không là gì để mà nói
cả, nhưng người tầm thường đam mê dính mắc cái sự như vậy. (121)
Lược Giải Đoạn 46-47.-
Cả 2 đoạn 46 và 47 này là hội nhập
như thật tri kiến về vũ trụ (về phân tử của vũ trụ và về vũ trụ
của phân tử), thấy chúng không là gì để mà cãi và ham.
Nhã 4. - Hội Nhập Như Thật Tri Kiến
Về Bản Thân
(Đoạn 48)
Chính Văn.-
(48) Trưởng lão Thiện hiện, nếu
có ai nói Thế tôn nói về ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả, thì
này, trưởng lão, ông nghĩ thế nào, người đó có hiểu ý nghĩa Như lai
đã nói hay không? Không, bạch Thế tôn, người ấy không hiểu ý nghĩa đã
được Thế tôn nói ra. Lý do tại sao, vì Thế tôn nói ý tưởng ngã nhân
chúng sinh thọ giả thì tức là phi (122) ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ
giả, thế nên gọi là ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả.
Lược Giải.-
Hội nhập như thật tri kiến về bản
thân là thâm tín Bát nhã. Thâm tín Bát nhã thì thường nghĩ nhớ bản thân,
nhất là bản thân trong ngã chấp, vốn là và vẫn là Phi, là Như.
Cương 1. - Kết Thúc Với 2 Câu
Hỏi Đáp Căn Bản
(Đoạn 49)
Chính Văn.-
(49) Trưởng lão Thiện hiện, những
người phát tâm vô thượng bồ đề, thì với các pháp (123) hãy biết như
vậy, hãy thấy như vậy, tin tưởng, lĩnh hội cũng là như vậy: đừng nên
trú ở nơi ý tưởng pháp. Trưởng lão Thiện hiện, nói ý tưởng pháp
thì Như lai nói phi ý tưởng pháp, vì thế mới gọi là ý tưởng pháp.
Lược Giải.-
"Đừng nên trú ở nơi ý tưởng
pháp" là lặp lại vô trú bát nhã đã nói suốt từ đoạn 2 đến đây,
tổng kết kinh này ứng với 2 câu hỏi đáp căn bản mở đầu trong đoạn
2-6.
Cương 2. - Khuyến Cáo Tu Học Và Diễn
Tả Kim Cương
(Đoạn 50)
Chính Văn.-
(50) Trưởng lão Thiện hiện, nếu
có người nào đem cho tất cả bảy loại vàng ngọc chất đầy vô lượng
vô số thế giới, và có người khác, không kể thiện nam hay là thiện nữ,
đối với pháp thoại Bát nhã như vầy, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu,
tụng thuộc, diễn tả cho người, thì dầu chỉ được chỉnh cú bốn
câu, phước họ đạt được vẫn hơn người trước.
Lược Giải.-
Pháp hạnh đối với Kim cương mà
đoạn này và các đoạn tương tự ở trước đã khuyến cáo là sao chép
ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng,
diễn nói cho người (thư tả, thọ trì, độc, tụng, vị tha nhân thuyết).
Tựu trung, diễn nói hay diễn tả cho người là giới thiệu, loan báo và giảng
dạy. Cách này được chỉ thêm ở đoạn 51 dưới đây. Cách ấy cho thấy
diễn tả Kim cương cho người thì chính mình phải có và sống theo tuệ
giác Kim cương.
Cương 3. - Chỉ Cách Diễn Tả Kim Cương
(Đoạn 51)
Chính Văn.-
(51) Diễn tả cho người bằng cách
thế nào? Bằng cách đừng nắm ý tưởng về pháp, mà như sự Như chứ không
dao động (124) . Tại sao mà phải diễn tả cách ấy?
- "Bởi vì tất cả
- các pháp hữu vi
- toàn là giống như
- chiêm bao, ảo thuật,
- bóng nước, ảnh tượng,
- sương mai, điện chớp;
- rất cần phải có
- cái nhìn như vậy" (125) .
Lược Giải.-
Hãy diễn tả Kim cương bằng cách
chính mình phải thường xuyên tưởng nhớ, chiêm nghiệm và diệu dụng đạo
lý chữ Phi. Như thế đó là vô trú bát nhã mà hủy diệt ngã chấp cũng
ở đó, phát tâm với hàng tâm và trú tâm cũng ở đó.
Kim 2. - Kết Thúc Như Các Kinh Khác
(Đoạn 52)
Chính Văn.-
(52) Khi đức Thế tôn tuyên thuyết
hoàn tất bản kinh Kim cương bát nhã này rồi, trưởng lão Thiện hiện,
các vị tỷ kheo và tỷ kheo ni, những cận sự nam và cận sự nữ, toàn thể
thế giới chư thiên, nhân loại, và a tu la, được nghe những điều Thế tôn
tuyên thuyết, ai cũng hoan hỷ, tín thọ, phụng hành.
Chân
thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh
Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000
| Phần chính văn | Phần giải
thích | Phần ghi chú |