- Sa Di Giới Và Sa Di Ni Giới
- Hòa thượng Thích Trí Quang dịch
giải
- 4
- Cảnh Sách
- Quy Sơn Cảnh Sách Văn
- (Bài Văn Cảnh Sách Của
Ngài Quy Sơn)
- (Đề này còn viết "Qui sơn Đại viên thiền
sư cảnh sách", nghĩa: Bài văn Cảnh sách của Đại viên thiền sư ở
núi Quy sơn.)
(1) Phù nghiệp hệ thọ thân, vị
miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cọng thành.
Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vị bội.
Vì nghiệp lực kết buộc mà có
thân thể, thì chưa ai thoát khỏi cái lụy của hình hài. Nên bẩm thụ thể
chất tiết ra của cha mẹ, vay mượn những yếu tố tương quan mà hợp
thành. Tuy được bốn thứ đại chủng hỗ trợ, nhưng chính bốn thứ này
lại luôn luôn đối nghịch lẫn nhau.
(2) Vô thường lão bịnh bất dữ
nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế. Thí như xuân sương, hiểu
lộ, thúc hốt tức vô; ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu.
Niệm niệm tấn tốc, nhất sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà
nãi yến nhiên không quá?
Do đó mà vô thường già bịnh
không hẹn với ai cả. Sớm còn tối mất, trong một sát na là qua đời khác.
Khác nào sương mùa xuân, móc sáng sớm, chốc lát đã không ; cây bên bờ,
dây trong giếng, đâu được lâu bền. Như ý nghĩ này nối tiếp ý nghĩ khác,
chuyển biến cực kỳ mau chóng, nên trong một sát na, chuyển hơi thở đã
là đời sau. Như vậy tại sao vẫn an nhiên để đời mình trôi đi một cách
vô ích ?
(3) Phụ mẫu bất cung cam chỉ, lục
thân cố dĩ khí ly, bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn quyên kế
tự, miến ly hương đảng, thế phát bẩm sư. Nội cần khắc niệm chi công,
ngoại hoằng bất tránh chi đức, huýnh thoát trần thế, ký kỳ xuất ly.
Đối với cha mẹ thì không cung phụng
ngọt ngon, đối với thân quyến cố nhiên rời bỏ xa cách, đối với đất
nước không có khả năng bình trị, đối với gia tộc bỏ hết nghĩa vụ
thừa kế, xa làng bỏ xóm, cắt tóc, bẩm thụ Phật pháp với bổn sư.
Như vậy lẽ đáng trong thì siêng về công phu khắc niệm, ngoài thì bủa
ra đức tính hòa bình, xa hẳn trần tục, kỳ vọng giải thoát.
(4) Hà nãi tài đăng giới phẩm, tiện
ngôn ngã thị tỷ kheo. Đàn việt sở tu, khiết dụng thường trú, bất giải
thỗn tư lai xứ, vị ngôn pháp nhĩ hiệp cúng. Khiết liễu tụ đầu huyên
huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại. Nhiên tắc nhất kỳ sấn lạc, bất
tri lạc thị khổ nhân. Nẵng kiếp tuẫn trần, vị thường phản tỉnh. Thời
quang yểm một, tuế nguyệt sa đà, thọ dụng ân phồn, thí lợi nùng hậu,
động kinh niên tải, bất nghĩ khí ly. Tích tụ tư đa, bảo trì huyễn chất.
Đạo sư hữu sắc, giới húc tỷ kheo, tiến đạo nghiêm thân, tam thường
bất túc. Nhân đa ư thử đam vị bất hưu, nhật vãng nguyệt lai, táp
nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác vấn tiên tri, tương
vị xuất gia quí cầu y thực.
Sao lại mới bước lên phẩm bậc
của giới pháp, mà đã tự thị ta đây là vị tỷ kheo. Dùng của thí chủ,
ăn của thường trú, không biết xét kyՠvì sao mà có của ấy, lại bảo rằng
lẽ tự nhiên là phải hiến cúng. Ăn rồi, xúm đầu huyên náo, chỉ nói
toàn chuyện tạp của thế gian. Nhưng một thì thừa dịp vui thích, mà
không biết chính cái vui ấy là nguyên nhân của sự thống khổ. Bao kiếp
xưa kia, đem thân theo trần cảnh, chưa từng phản tỉnh. Thì giờ mất
mát, năm tháng lần lữa, hưởng dụng càng nhiều, thí lợi càng lắm, hết
năm này qua năm khác mà không biết nghĩ đến sự rời bỏ. Chất chứa càng
nhiều cũng chỉ bảo trì xác huyễn mà thôi. Đức Đạo sư có huấn dụ,
khuyên dạy các vị tỷ kheo, hãy tiến bộ đạo nghiệp mà trang hoàng cơ
thể, còn ăn, mặc, và ngủ, cả ba thứ ấy không lúc nào nên hưởng dụng
sung túc. Nhưng con người đa số đối với ba thứ ấy đam mê không ngừng,
đến nỗi ngày qua tháng lại, vụt cái bạc đầu. Nên hậu học chưa nghe
tôn chỉ của Phật pháp thì phải học hỏi sâu rộng với các vị tiên
giác, sao lại toan bảo xuất gia quí hồ cơm áo.
(5) Phật tiên chế luật, khải
sáng phát mông. QuyՍ tắc uy nghi tịnh như băng tuyết. Chỉ trì tác phạm
thúc liễm sơ tâm, vi tế điều chương cách chư ổi tệ. Tỳ ni pháp tịch
tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng chân biệt. Khả
tích nhất sanh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thác hoài,
huyền đạo vô nhân khế ngộ.
Đức Phật trước tiên thiết chế
giới luật là để bắt đầu mở mang cho sự ngu muội. Phép tắc uy nghi sạch
như băng tuyết. Đình chỉ là giữ, hành động là phạm, nguyên tắc ấy kềm
thúc sơ tâm ; điều mục đầy đủ, chương tiết minh bạch, giới pháp
này đổi bỏ tồi tệ. Pháp tịch giảng dạy Luật tạng mà chưa hề học
hỏi và thân cận, thì đối với Thượng thừa là giáo lý liễu nghĩa, làm
sao có khả năng cứu xét rành mạch. Nên thật đáng đau tiếc là để một
đời trôi đi một cách trống rỗng, sau này hối hận cũng khó mà đuổi kịp.
Giáo lý chưa từng để dạ thì diệu pháp không nhân đâu mà khế ngộ.
(6) Cập chí niên cao lạp trưởng,
không phúc cao tâm, bất khẳng thân phụ lương bằng, duy tri cứ ngạo, vị
am pháp luật, tập liễm toàn vô. Hoặc đại ngữ cao thanh, xuất ngôn vô
độ. Bất kính thượng trung hạ tọa, Bà la môn tụ hội vô thù. Oản bát
tác thanh, thực tất tiên khởi. Khứ tựu quai giác, tăng thể toàn vô ; khởi
tọa chung chư, động tha tâm niệm. Bất tồn ta ta quyՠtắc, tiểu tiểu uy
nghi, tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân phỏng hiệu.
Cập kỳ đến lúc tuổi đời đã
cao, tuổi hạ cũng lớn, nhưng bụng thì rỗng, lòng lại cao, bởi vốn
không chịu thân cận thiện hữu nên chỉ biết xấc láo ngạo ngược,
chưa hiểu thành thuộc giáo pháp và giới luật nên sự tự chế ngự hoàn
toàn không có. Lời to, tiếng lớn, nói năng vô phép. Không kính thượng tọa,
trung tọa, hạ tọa, ngồi với nhau không khác gì sự tụ họp của các đạo
sĩ Bà la môn. Khua bát ra tiếng, ăn rồi dậy trước. Đi ở trái phép nên
bản chất tăng sĩ mất hẳn, đứng ngồi quàng hoảng nên làm động tâm
niệm của kẻ khác. Phép tắc ít nhất cũng không giữ, uy nghi nhỏ nhất cũng
không còn, thì đưa cái gì ra để kềm thúc hậu bối, nên kẻ sơ học không
biết do đâu mà mô phỏng.
(7) Tài tương giác sát, tiện ngôn
ngã thị sơn tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn thô
tháo. Như tư chi kiến cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần, nhẫm
nhiễm nhân gian, toại thành sơ dã. Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự
diện tường. Hậu học tư tuân, vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết,
bất thiệp điển chương. Hoặc bị khinh ngôn, tiện trách hậu sinh vô lễ,
sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân.
Vậy mà có ai mới cảnh giác cho
thì liền bảo ngay rằng ta đây là tăng sĩ rừng núi. Quả là kẻ chưa bao
giờ nghe đến sự hành trì của Phật huấn dụ, nên chỉ có một chiều hướng
là tánh tình vẫn còn y nguyên. Cung cách như vậy là vì sơ tâm biếng
nhác, nên ham muốn xấu xa y như thói cũ, dần dà theo đời, hóa thành quê
kệch. Thế rồi bất giác mà lóng cóng già yếu, nhưng gặp việc thì như
đối diện với tường vách. Hậu học thưa hỏi thì không có lời tiếng
chi để hướng dẫn. Có nói cũng không liên hệ gì với kinh điển. Và bị
khinh thì bảo hậu sinh vô lễ, sân tâm nổi giận, lời tiếng át người.
(8) Nhất triêu ngọa tật tại
sàng, chúng khổ oanh triền bức bách, hiểu tịch tư thỗn, tâm lý hồi
hoàng. Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng. Tùng tư thỉ tri hối quá, lâm
khát quật tỉnh hề vi. Tự hận tảo bất dự tu, niên vãn đa chư quá cựu,
lâm hành huy hoắc, phạ bố chương hoàng. Hộc xuyên tước phi, thức tâm
tùy nghiệp. Như nhân phụ trái, cường giả tiên khiên, tâm tự đa đoan,
trọng xứ thiên trụy. Vô thường sát quỷ niệm niệm bất đình, mạng bất
khả diên, thời bất khả đãi. Nhân thiên tam hữu ưng vị miễn chi, như
thị thọ thân phi luận kiếp số.
Một mai bịnh nằm trên giường thì
mọi thứ đau đớn bao vây, xiết buộc, bức bách, sớm tối lo nghĩ, trong
lòng khiếp sợ, đường trước man mác, chưa biết đi về chỗ nào. Bấy
giờ mới biết hối hận, là sắp chết khát mới đào giếng, thì đào mà
làm gì. Chỉ còn tự giận lấy mình sớm không dự bị tu tập, tuổi về
chiều thì lắm điều tội lỗi, nên khi sắp đi khỏi cuộc đời thì sự
sống tan rã thật mau chóng, lòng càng khiếp sợ hãi hùng. Rồi lụa thủng
chim bay, tâm thức phải tùy theo nghiệp lực. Như kẻ mắc nợ thì ai mạnh
kéo trước, tâm thức lắm thứ ác nghiệp thì chỗ nào nặng hơn là phải
rơi trước vào đó. Nên quỉ sứ vô thường sát nhân, ý tưởng này nối
tiếp ý tưởng khác, tác hại không ngừng. Sinh mạng không thể kéo dài,
thì giờ không hề chờ đợi. Rồi ba cõi luân hồi chưa thể thoát khỏi,
và thọ thân như vậy khó nói cho hết số lượng của thì gian lâu dài.
(9) Cảm thương thán nhạ, ai tai thiết
tâm, khởi khả giam ngôn, đệ tương cảnh sách. Sở hận đồng sanh tượng
quý, khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải đãi, lược thân
quản kiến dĩ hiểu hậu lai. Nhược bất quyên căng, thành nan luân hoán.
Cảm thương than thở, đau đớn
như cắt đứt tim gan, làm sao có thể phong gói lời nói, nên phải cảnh
giác để sách tiến cho nhau. Điều đáng tủi hận là chúng ta cùng sinh
vào thì gian cuối cùng của thời kỳ Phật pháp tương tự, cách xa thời
đại của Phật, Phật pháp lơ thơ, lòng người đa số biếng nhác, nên phải
trình bày sơ lược cái thấy chỉ như ống dòm trời, để khuyên bảo những
người hậu học. Nếu không loại bỏ tính nết kiêu căng, thì quả thật
khó mà thay đổi cho nhau.
(10) Phù xuất gia giả, phát túc
siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma
quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Nhược bất như thử, lạm xí tăng
luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí, tích niên hành xứ thốn bộ bất
di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị. Huống nãi đường đường
tăng tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thực thiện căn cảm tư dị
báo, tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất quí thốn âm. Sự nghiệp bất cần,
công quả vô nhân khắc tựu, khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc lại
nghiệp vô tì.
Người xuất gia là cất bước thì
muốn vượt tới phương trời cao rộng, tâm tính và hình dung khác hẳn thế
tục, tiếp nối một cách rạng rỡ dòng giống của Phật, làm cho quân đội
của ma phải rúng động khuất phục, với mục đích báo đáp bốn ân, cứu
vớt ba cõi. Không như vậy thì chỉ là kẻ lạm xen vào hàng ngũ tăng sĩ,
lời nói và việc làm trống rỗng, sơ suất, hưởng dụng một cách vô
ích cúng phẩm của tín đồ, đường đi năm cũ thì một tấc một bước
cũng không đổi dời, quàng hoảng suốt cả một đời thì còn lấy gì mà
nương tựa và cậy nhờ ? Huống chi tăng tướng đường hoàng, dung mạo khả
quan, toàn do thiện căn đời trước gieo trồng mới có được cái quả
báo đặc biệt ấy, vậy mà chỉ nghĩ đến việc ngồi thẳng, khoanh tay,
chứ không biết quí trọng từng tấc bóng của thì giờ. Nhưng đạo nghiệp
mà không chịu nỗ lực thực hành thì đạo quả sẽ không có nhân tố
thành tựu. Như vậy đâu phải chỉ một đời này qua đi một cách vô
ích, mà mọi việc trong những đời sau cũng không được bổ ích gì.
(11) Từ thân quyết chí phi tri, ý dục
đẳng siêu hà sở, hiểu tịch tư thỗn, khởi khả thiên diên quá thời.
Tâm kỳ Phật pháp đống lương, dụng tác hậu lai qui cảnh, thường dĩ
như thử, vị năng thiểu phần tương ưng.
Giã từ song thân, quả quyết chí
khí, khoác mặc pháp y, là ý muốn vượt lên cho ngang đến chỗ nào nữa
kia: sớm tối suy nghĩ như vậy thì đâu có thể chơi đùa cho qua mất thì
giờ. Trong lòng tự kỳ hẹn cho mình phải làm trụ cột của Phập pháp,
làm gương mẫu cho tương lai: thường xuyên tự nguyện như vậy mà chưa hẳn
đã phù hợp phần nào với sự xuất gia.
(12) Xuất ngôn tu thiệp ư điển
chương, đàm thuyết nãi bàng ư kê cổ. Hình nghi đĩnh đặc, ý khí cao
nhàn.
Nói thì phải liên hệ với kinh điển,
bàn thì phải dựa vào sự kê cứu về xưa. Hình dáng đĩnh đạc, chí khí
cao nhã.
(13) Viễn hành yếu giả lương bằng,
sác sác thanh ư nhĩ mục, trú chỉ tất tu trạch bạn, thời thời văn ư vị
văn. Cố vân, sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu. Thân phụ
thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận
; hiệp tập ác giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục
giao báo, một hậu trầm luân, nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục.
Đi xa thì phải nhờ bạn tốt để
luôn luôn lọc sạch tai mắt, trú ở thì cần chọn bạn hiền để thường
thường nghe điều chưa nghe. Nên ngạn ngữ đã nói, sinh ta là cha mẹ, tác
thành ta là bạn bè. Gần gũi người hiền thì như đi trong sương móc, tuy
không ướt áo mà lúc nào cũng thấm đượm ; quen thân kẻ ác thì lớn
thêm kiến thức độc ác, sớm tối làm ác, ác báo đã bị ngay trước mắt
mà chết rồi lại phải chìm đắm, làm cho thân người một khi mất đi,
muôn kiếp vẫn khó mà khôi phục.
(14) Trung ngôn nghịch nhĩ, khởi bất
minh tâm giả tai ? Tiện năng tháo tâm dục đức, hối tích thao danh, uẩn tố
tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt.
Lời nói ngay thẳng mới trái nghịch
thính giác, như thế làm sao không ghi khắc vào lòng dạ? Mà như thế thì tất
nhiên có thể rửa tâm, nuôi đức, ẩn dấu, vùi tên, tập trung tinh thần,
đình chỉ ồn náo.
(15) Nhược dục tham thiền học đạo,
đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu,
quyết trạch thâm áo, khải ngộ chân nguyên, bác vấn tiên tri, thân cận
thiện hữu; thử tông nan đắc kỳ diệu, thiết tu tử tế dụng tâm, khả
trung đốn ngộ chánh nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm. Thử tắc phá
tam giới nhị thập ngũ hữu, nội ngoại chư pháp tận tri bất thật, tùng
tâm biến khởi, tất thị giả danh; bất dụng tương tâm tấu bạc, đãn
tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân; nhậm tha pháp tánh châu lưu, mạc
đoạn mạc tục, văn thanh kiến sắc cái thị tầm thường, giá biên na
biên ứng dụng bất khuyết.
Nếu muốn tham thiền học đạo,
vượt bỏ ngay cửa ngõ phương tiện, thì phải tâm hợp huyền tông, cứu
xét tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khải ngộ chân nguyên, bằng cách tham
vấnsâu rộng với liệt vị tiên giác, gần gũi thân thiết với các bậc
thiện tri thức. Thiền tông như thế này thiệt khó mà nắm được chỗ
nhiệm mầu của nó, nên phải khẩn thiết vận dụng cái tâm một cách
tinh tế và chín chắn, mới ngay trong khả năng này mà đốn ngộ chánh
nhân, mới làm thềm bậc tiến dần trong sự siêu thoát phiền não. Và như
thế là phá hủy nhân tố hai mươi lăm hữu trong lĩnh vực ba cõi, các
pháp thân tâm vũ trụ đều biết không thật, duy tâm biến hiện, toàn thị
giả danh. Đừng nên đem tâm ghé họp: tâm không ghé họp với cảnh thì cảnh
đâu chướng ngại cho tâm. Mặc cho pháp tánh lưu lộ toàn diện, đừng cắt
đứt mà cũng đừng nối tiếp; thấy sắc nghe tiếng quả thực bình thường
thì bên nay bên kia ứng dụng đầy đủ.
(16) Như tư hành chỉ, thật bất uổng
phi pháp phục, diệc nãi thù báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Sanh sanh nhược
năng bất thoái, Phật giai quyết định khả kỳ. Vãng lai tam giới chi tân,
xuất một vị tha tác tắc.
Sống mà động cũng như tĩnh đều
được như vậy mới thật không khoác mặc pháp y một cách uổng phí, cũng
tức là báo đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi. Nếu đời đời không thoái
chuyển thì quả vị Phật đà quyết chắc có thể kỳ vọng, và là người
khách qua lại ba cõi nên ra vào đều làm khuôn phép cho người.
(17) Thử chi nhất học tối huyền
tối diệu. Đãn biện khẳng tâm, tất bất tương trám.
Thiền học như thế này cực kỳ
huyền diệu. Chỉ lo cho đủ sự "khẳng tâm", đoan chắc không lừa
gạt.
(18) Nhược hữu trung lưu chi sĩ, vị
năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp, tinh sưu
nghĩa lý, truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức.
Thời quang diệc bất hư khí, tất tu dĩ thử phù trì. Trú chỉ uy nghi, tiện
thị Tăng trung pháp khí. Khởi bất kiến ỷ tùng chi cát, thượng túng
thiên tầm: phụ thác thắng nhân phương năng quảng ích. Khẩn tu trai giới,
mạc man khuy du. Thế thế sanh sanh thù diệu nhân quả.
Những người trung bình, chưa thể
vượt ngay lên được, thì hãy để cả tâm trí vào giáo pháp, ôn cho thuộc
và tìm cho rõ kinh điển, cứu xét một cách tinh tường đối với nghĩa lý,
rồi truyền bá phu diễn ra để dắt dẫn tương lai, báo đáp ơn Phật. Thì
giờ đừng để uổng phí, bằng cách phải lấy công hạnh trên đây mà hỗ
trợ đời mình. Như thế thì động cũng như tĩnh đều có uy nghi, biến
mình thành bậc "pháp khí" trong hàng Tăng bảo. Không thấy dây sắn
quấn theo cây tùng kia sao, nó cao vót lên đến cả ngàn tầm : phải ký
thác đời mình vào nhân tố tối thượng, mới có năng lực tạo được
ích lợi rộng lớn. Phải chân thành giữ gìn trai giới, đừng man trá, thiếu
sót hay vượt bỏ. Vì chính trai giới là cái nhân tối thượng đem lại cái
quả tối thượng trong mọi đời kiếp.
(19) Bất khả đẳng nhàn quá nhật,
ngột ngột độ thời, khả tích quang âm, bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu
thập phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân. Tích lũy chuyển thâm, tâm
trần dị ủng, xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi.
Do đó mà không thể tầm thường hết
ngày, nhọc nhằn hết buổi, để thì giờ mất đi một cách đáng tiếc
mà không chịu cầu lấy sự bước tới và vượt lên. Như vậy là tiêu thụ
của tín thí một cách vô ích, mà cũng phụ bạc tất cả bốn ân. Rồi chất
chứa sự hệ lụy càng nhiều thì bụi bặm của tâm trí càng dễ làm cho
nó bít lấp, nên đụng đâu tắc đó, ai cũng khinh khi.
(20) Cổ vân, bỉ ký trượng phu ngã
diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thoái khuất. Nhược bất như thử, đồ tại
tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích.
Phật đã huấn dụ, ai kia đã là
đấng trượng phu thì ta đây cũng có thể làm như thế, đừng tự khinh thị
mình mà lùi bước và khuất phục. Nếu không như vậy thì chỉ là kẻ ở
trong hàng ngũ xuất gia một cách vô ích, dần dà hết cả một đời mà quả
thực không có một chút ích lợi nào hết.
(21) Phục vọng hưng quyết liệt
chi chí, khai đặc đạt chi hoài, cử thác khán tha thượng lưu, mạc thiện
tùy ư dung bỉ. Kim sanh tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân.
Tức ý vong duyên, bất dữ chư trần tác đối, tâm không cảnh tịch, chỉ
vị cửu trệ bất thông.
Xin phủ phục mà cầu mong các vị
nổi dậy cái chí khí quyết liệt, mở ra cái hoài bão cao xa, hết thảy mọi
sự động tĩnh đều nhìn lên các bậc thượng thặng, đừng tự ý sống
theo những thói hư hèn. Nội một đời này mà thôi, phải giải quyết bản
thân cho xong, và việc đó là tự mình liệu lấy cho mình, không phải do ai
đâu khác. Bằng cách ý thì ngưng, thức thì thoát, không còn tác đối với
trần cảnh ẫ vì lẽ tâm vốn không, cảnh vốn lặng, chỉ vì bế tắc
lâu ngày nên không thấu triệt được mà thôi.
(22) Thục lãm tư văn, thời thời cảnh
sách, cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình. Nghiệp quả sở khiên,
thành nan đào tị; thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan, nhân quả
lịch nhiên, khởi vô ưu cụ. Cố kinh vân, giả sử bách thiên kiếp, sở
tác nghiệp bất vong: nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ. Cố
tri tam giới hình phạt oanh bán sát nhân, nỗ lực cần tu, mạc không quá
nhật.
Hãy đọc kyՠbài văn này để luôn
luôn cảnh giác sách tiến, cưỡng lại mà tự làm chủ tể, đừng thí
thân theo tánh tình con người của mình. Vì lẽ nghiệp quả lôi kéo thì quả
thực khó mà trốn tránh, cũng như tiếng mà hòa thì tiếng vang phải thuận,
hình mà ngay thì hình bóng phải thẳng: nhân quả rõ ràng như vậy, không
thể không lo sợ. Trong kinh đã nói, giả sử trải qua trăm ngàn đời kiếp
đi nữa, cái nghiệp mình đã làm ra vẫn không tiêu mất: một khi nhân
duyên gặp nhau đủ mặt thì quả báo của nó mình phải tự chịu lấy.
Vì lý do đó mà hãy ý thức ba cõi đều là những hình phạt ràng buộc
và giết chết con người, phải nỗ lực mà tinh tiến tu tập, đừng để
đời mình đi qua ngày tháng một cách trống rỗng.
(23) Thâm tri quá hoạn, phương nãi
tương khuyến hành trì. Nguyện bách kiếp thiên sanh, xứ xứ đồng vi pháp
lữ, nãi vi minh viết:
Bởi nhận thức một cách sâu xa
và thống thiết mọi sự tội lỗi và tai họa của tội lỗi ấy, nên mới
khuyên nhau tu trì. Nguyện rằng trăm kiếp ngàn đời, bất cứ ở đâu, cũng
làm "bạn hữu Phật pháp" cho nhau, nên làm bài minh dưới đây:
- (24) Huyễn thân mộng trạch,
- Không trung vật sắc,
- Tiền tế vô cùng,
- Hậu tế ninh khắc?
- Xuất thử một bỉ,
- Thăng trầm bì cực,
- Vị miễn tam luân,
- Hà thời hưu tức?
- Tham luyến thế gian,
- Ấm duyên thành chất,
- Tùng sanh chí lão,
- Nhất vô sở đắc.
- Căn bản vô minh,
- Nhân tư bị hoặc,
- Quang âm khả tích,
- Sát na bất trắc.
- Kim sanh không quá,
- Lai thế trất tắc.
- Tùng mê chí mê,
- Giai nhân lục tặc,
- Lục đạo vãng hoàn,
- Tam giới bồ bặc.
- Thân huyễn nhà mộng,
- Vật sắc trong Không,
- Khoảng trước không cùng,
- Khoảng sau đâu biết?
- Thoát đây chìm kia,
- Lên xuống cực nhọc,
- Chưa khỏi ba luân,
- Bao giờ ngừng được?
- Tham luyến thế gian,
- Ấm duyên thành chất,
- Từ sanh đến già,
- Không được gì cả.
- Căn bản vô minh,
- Vì nó sai lầm,
- Thì giờ đáng tiếc,
- Phút chốc khó lường.
- Đời này trôi qua,
- Kiếp sau bế tắc;
- Từ mê đến mê,
- Toàn vì lục tặc,
- Qua lại sáu đường,
- Lăn lóc ba cõi.
- (25) Tảo phóng minh sư,
- Thân cận cao đức,
- Quyết trạch thân tâm,
- Khử kỳ kinh cước.
- Thế tự phù hư,
- Chúng duyên khởi bức,
- Nghiên cùng pháp lý,
- Dĩ ngộ vi tắc.
- Tâm cảnh câu quyên,
- Mạc ký mạc ức,
- Lục căn di nhiên,
- Hành trú tịch mặc.
- Nhất tâm bất sanh,
- Vạn pháp câu tức.
- Sớm hỏi minh sư,
- Thân gần cao đức,
- Quyết trạch thân tâm,
- Trừ khử gai góc.
- Đời tự giả dối,
- Cảnh nào bức được,
- Xét cùng pháp tánh,
- Chứng ngộ mới thôi.
- Tâm cảnh siêu thoát,
- Vượt cả nhớ quên,
- Sáu căn an nhiên,
- Động tĩnh vắng lặng:
- Nhất tâm bất sanh,
- Vạn pháp thanh tịnh.
Chân
thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh
Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000