- Sa Di Giới Và Sa Di Ni Giới
- Hòa thượng Thích Trí Quang dịch
giải
- 5
- Sa Di Luật Nghi
- Sa Di Luật Nghi Yếu Lược
- (Bản Yếu Lược Về Giới
Luật Và Uy Nghi Của Sa Di)
- Bồ tát giới đệ tử, Vân thê tự, Sa môn Châu
hoằng tập (Châu hoằng, vị Sa môn ở chùa Vân thê, đệ tử thọ Bồ tát
giới, biên tập)
(1) Phạn ngữ sa di, thử vân tức từ,
vị tức ác hành từ, tức thế nhiễm nhi từ tế chúng sanh dã. Diệc vân
cần sách, diệc vân cầu tịch. Luật nghi giả, thập giới luật chư uy
nghi dã.
Phạn tự "sa di", xứ này dịch
nghĩa tức từ, là đình chỉ việc ác, thi hành từ bi: đình chỉ những sự
ô nhiễm của thế tục mà từ bi tế độ chúng sanh. Cũng dịch cần sách,
cũng dịch cầu tịch. Còn "luật nghi" là mười giới luật và các
uy nghi.
- Thượng Thiên: Giới Luật Môn
- (Chương Trước: Phần Giới Luật)
(2) Phật chế, xuất gia giả ngũ hạ
dĩ tiền tinh chuyên giới luật, ngũ hạ dĩ hậu phương nãi thính giáo tham
thiền. Thị cố sa di thế lạc, tiên thọ thập giới, thứ tắc đăng đàn
thọ cụ. Kim danh vi sa di, nhi bổn sở thọ giới, ngu giả mang hồ bất tri,
cuồng giả hốt nhi bất học, tiện nghĩ liệp đẳng, võng ý cao viễn, diệc
khả khái hỷ. Nhân thủ thập giới lược giải sổ ngữ, sử mông học
tri sở hướng phương. Hảo tâm xuất gia giả, thiết ý tuân hành, thận vật
vi phạm. Nhiên hậu cận vi tỷ kheo giới chi giai thê, viễn vi bồ tát giới
chi căn bản, nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, thứ cơ thành tựu
thánh đạo, bất phụ xuất gia chi chí hỷ. Nhược nhạo quảng lãm, tự
đương duyệt Luật tạng toàn thư. Kỳ thập giới danh xuất Sa di thập giới
kinh, Phật sắc Xá lợi phất vị La hầu la thuyết.
Phật qui định, người xuất gia 5
hạ về trước phải chuyên học và tinh tường về giới luật, 5 hạ về
sau mới học hỏi giáo lý, tham cứu thiền học. Thế nên các vị sa di xuống
tóc rồi, trước hết phải lãnh thọ 10 giới, kế đó mới bước lên giới
đàn lãnh thọ cụ túc giới. Ngày nay, gọi là sa di mà đối với giới luật
của mình lãnh thọ, người ngu thì mờ mịt không biết, kẻ cuồng thì xao
lãng không học, liền nghĩ vượt bậc, mơ mòng cao xa, thật đáng bùi
ngùi. Vì vậy mà tôi đem 10 giới lược giải vài lời, để người sơ học
biết phương trời mà họ phải hướng tới. Những người xuất gia với tâm
chí tốt, hãy thiết ý tuân hành, thận trọng đừng để vi phạm. Như vậy
mới gần thì làm thềm làm thang cho tỷ kheo giới, xa thì làm rễ làm gốc
cho bồ tát giới. Rồi nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, ngõ hầu
thành tựu thánh đạo, không phụ chí hướng xuất gia. Nếu thích xem cho rộng
thì nên tự cứu xét toàn văn các sách [nói về Sa di] trong Luật tạng.
Danh hiệu 10 giới sau đây xuất từ kinh Sa di thập giới, Phật dạy tôn giả
Xá lợi phất nói cho tôn giả La hầu la.
(3) Nhất viết bất sát sanh. Giải
viết: Thượng chí chư Phật, thánh nhân, sư tăng, phụ mẫu, hạ chí quyên
phi nhuyễn động, vi tế côn trùng, đãn hữu mạng giả bất đắc cố sát,
hoặc tự sát, hoặc giáo tha sát, hoặc kiến sát tùy hỷ, quảng như Luật
trung, văn phồn bất lục. Kinh tái, đông nguyệt sanh sắt, thủ phóng trúc
đồng trung, noãn dĩmiên nhứ, dưỡng dĩ nị vật, khủng kỳ cơ đống nhi
tử dã. Nãi chí lự thủy, phú đăng, bất súc miêu ly đẳng, giai từ bi
chi đạo dã. Vi loại thượng nhiên, đại giả khả tri hỷ. Kim nhân bất năng
như thị hành từ, phục da thương hại, khả hồ? Cố kinh vân, thi ân tế
phạp, sử kỳ đắc an, nhược kiến sát giả, đương khởi từ tâm. Y, khả
bất giới dư?
Một là không được sát sanh. Giải:
Trên đến chư Phật, thánh nhân, sư tăng, cha mẹ, dưới đến quyên phi
nhuyễn động, vi tế côn trùng, hễ có sinh mạng thì không được cố giết,
bằng cách hoặc tự mình giết, hoặc bảo người giết, hoặc thấy người
giết mà mừng theo, nói rộng như trong Luật tạng, vì văn nhiều nên không
sao chép ra đây. Kinh ghi, mùa đông hay sinh chấy rận, hãy bắt bỏ trong ống
tre, ủ ấm bằng bông, nuôi sống bằng đồ cáu bẩn, là sợ chúng đói lạnh
mà chết đi. Cho đến lọc nước, che đèn, không nuôi mèo chồn vân vân,
đều là đạo từ bi cả. Đối với loài nhỏ mà còn như thế, thì đối
với loài lớn có thể nghiệm biết. Con người thời nay đã không thể thi
hành từ bi như vậy, mà lại còn thương tổn, sát hại, như thế được
chăng ? Nên kinh đã dạy, thi ân cứu giúp, cho chúng được yên, nếu thấy
bị giết, nên sinh từ tâm. Như thế không răn giữ được sao?
(4) Nhị viết bất đạo. Giải viết:
Kim ngân trọng vật, dĩ chí nhất châm nhất thảo, bất đắc bất dữ nhi
thủ. Nhược thường trú vật, nhược tín thí vật, nhược tăng chúng vật,
nhược quan vật, dân vật, nhất thế vật, hoặc đoạt thủ, hoặc thiết
thủ, hoặc trá thủ, nãi chí thâu thuế mạo độ đẳng, giai vi thâu đạo.
Kinh tái, nhất sa di đạo thường trú quả thất mai, nhất sa di đạo chúng
tăng bính sổ phiên, nhất sa di đạo chúng tăng thạch mật thiểu phần, câu
đọa địa ngục. Cố kinh vân, ninh tựu đoạn thủ, bất thủ phi tài. Y,
khả bất giới dư ?
Hai là không được trộm cướp. Giải:
Từ vật quí trọng như vàng bạc, cho đến một cây kim một ngọn cỏ,
không được không cho mà lấy. Vật của thường trú, vật của tín thí, vật
của tăng chúng, vật của quan, vật của dân, vật của tất cả, mà lấy
bằng cách chiếm đoạt, lấy bằng cách trộm cắp, lấy bằng cách lừa gạt,
cho đến trốn thuế, gạt đò vân vân, đều là trộm cướp. Kinh ghi, một
sa di trộm trái của thường trú bảy quả, một sa di trộm bánh của chúng
tăng vài cái, một sa di trộm đường phèn của chúng tăng chút ít, đều
rơi vào địa ngục cả. Nên kinh đã dạy, thà là chặt tay, không lấy phi
tài. Như thế không răn giữ được sao?
(5) Tam viết bất dâm. Giải viết:
Tại gia ngũ giới duy chế tà dâm, xuất gia thập giới toàn đoạn dâm dục.
Đãn can phạm thế gian nhất thế nam nữ, tất danh phá giới. Lăng nghiêm
kinh tái, Bảo liên hương tỷ kheo ni tư hành dâm dục, tự ngôn dâm dục
phi sát phi thâu, vô hữu tội báo, toại cảm thân xuất mãnh hỏa, sanh hãm
địa ngục. Thế nhân nhân dục sát thân vong gia, xuất tục vi tăng khởi
khả cánh phạm? Sanh tử căn bản, dục vi đệ nhất. Cố kinh vân, tuy dâm
dật nhi sanh, bất như trinh khiết nhi tử. Y, khả bất giới dư?
Ba là không được dâm dục. Giải:
Năm giới tại gia chỉ hạn chế tà dâm, còn mười giới xuất gia thì cấm
hẳn dâm dục. Hễ can phạm đến hết thảy nam nữ trong thế gian thì gọi
là phá giới cả. Trong kinh Lăng nghiêm ghi, tỷ kheo ni Bảo liên hương lén
làm việc dâm dục, rồi chính mình tuyên ngôn, rằng dâm dục không phải
giết thân ai, không phải trộm của ai, nên không có tội báo, do đó cảm
ra thân xuất lửa dữ, đang sống mà vùi xuống địa ngục. Thế nhân vì
dâm dục mà giết thân, mất nhà, xuất gia làm tăng sĩ há lại còn phạm ?
Căn bản sinh tử, dục là thứ nhất. Nên kinh đã dạy, dẫu dâm dật mà sống,
không bằng trinh khiết mà chết. Như thế không răn giữ được sao?
(6) Tứ viết bất vọng ngữ. Giải
viết: Vọng ngữ hữu tứ. Nhất giả vọng ngôn, vị dĩ thị vi phi, dĩ phi
vi thị, kiến ngôn bất kiến, bất kiến ngôn kiến, hư vọng bất thật đẳng.
Nhị giả ỷ ngữ, vị trang sức phù ngôn myՠngữ, diễm khúc tình từ, đạo
dục tăng bi, đãng nhân tâm chí đẳng. Tam giả ác khẩu, vị thô ác mạ lị
nhân đẳng. Tứ giả lưỡng thiệt, vị hướng thử thuyết bỉ, hướng bỉ
thuyết thử, ly gián ân nghĩa, khiêu toa đấu tranh đẳng. Nãi chí tiền dự
hâểu hủy, diện thị bối phi, chứng nhập nhân tội, phát tuyên nhân đoản,
giai vọng ngữ chi loại dã. Nhược phàm phu tự ngôn chứng thánh, như ngôn
dĩ đắc Tu đà hoàn quả, Tư đà hàm quả đẳng, danh đại vọng ngữ, kỳ
tội cực trọng. Dư vọng ngữ, vị cứu tha cấp nạn, phương tiện quyền
xảo, từ bi lợi tế giả, bất phạm. Cổ nhân vị hành kỷ chi yếu, tự
bất vọng ngữ thỉ, huống học xuất thế chi đạo hồ? Kinh tái, sa di
khinh tiếu nhất lão tỷ kheo độc kinh, thanh như cẩu phệ; nhi lão tỷ kheo
giả thị A la hán, nhân giáo sa di cấp sám, cẩn miễn địa ngục, do đọa
cẩu thân. Ác ngôn nhất cú, vi hại chí thử! Cố kinh vân, phù sĩ xử thế,
phủ tại khẩu trung, sở dĩ trạm thân, do kỳ ác ngôn. Y, khả bất giới
dư?
Bốn là không được nói dối. Giải:
Nói dối có bốn. Một, nói dối trá, là phải bảo trái, trái bảo phải,
thấy nói không, không nói thấy, dối trá không thật vân vân. Hai, nói
thêu dệt, là trau chuốt lời nói phù phiếm, từ ngữ hoa myլ khúc nhạc diễm
lệ, lời ca tình tứ, dắt dẫn dục vọng, tăng thêm sầu bi, làm đãng
tâm chí của người vân vân. Ba, nói thô ác, là nói thô tục, độc ác, mắng
chửi người vân vân. Bốn, nói hai lưỡi, là đến người này nói người
kia, đến người kia nói người này, ly gián ân nghĩa, khêu chọc và xúi bảo
cho họ đấu nhau,, tranh nhau vân vân. Cho đến trước khen sau chê, mặt phải
lưng trái, chứng vào tội người, rêu rao lỗi người, đều thuộc loại vọng
ngữ. Nếu phàm phu tự nói chứng được thánh quả, như nói đã được quả
Tu đà hoàn, được quả Tư đà hàm vân vân, thì gọi là đại vọng ngữ,
tội ấy rất nặng. Ngoài ra, vọng ngữ vì cứu hoạn nạn cấp bách cho kẻ
khác, phương tiện quyền biến, từ bi mà ích lợi, cứu giúp, thì không phạm.
Cổ nhân có nói, điều thiết yếu của việc sửa mình là bắt đầu từ
sự không nói dối, huống chi người học đạo xuất thế? Kinh ghi, một sa
di khinh cười một vị tỷ kheo già đọc kinh, rằng tiếng như chó sủa. Vị
tỷ kheo ấy là bậc A la hán, nên dạy sa di cấp tốc sám hối, nhưng chỉ
khỏi địa ngục, vẫn còn đọa làm thân chó. Một câu nói thô ác mà làm
hại đến như thế đó! Nên kinh đã dạy, con người ở đời, búa nằm
trong miệng, vì vậy chém mình, bởi lời nói ác. Như thế không răn giữ
được sao?
(7) Ngũ viết bất ẩm tửu. Giải
viết: Aẫm tửu giả, vị ẩm nhất thế năng túy nhân chi tửu. Tây vức tửu
hữu đa chủng: cam giá, bồ đào, cập dữ bách hoa, giai khả tạo tửu. Thử
phương chỉ hữu mễ tạo. Câu bất khả ẩm. Trừ hữu trọng bịnh, phi tửu
mạc liệu giả, bạch chúng phương phục. Vô cố, nhất trích bất khả
triêm thần. Nãi chí bất đắc khứu tửu, bất đắc chỉ tửu xá, bất đắc
dĩ tửu ấm nhân. Nghi Địch tạo tửu, Vũ nhân thống tuyệt. Trụ tác tửu
trì, quốc dĩ diệt vọng. Tăng nhi ẩm tửu, khả sỉ vưu thậm. Tích hữu
ư bà tắc nhân phá tửu giới, toại tính dư giới câu phá. Tam thập lục
thất, nhất ẩm bị diên, quá phi tiểu hỷ. Tham ẩm chi nhân tử đọa Phí
thỉ địa ngục, sanh sanh ngu si, thất trí tuệ chủng, mê hồn cuồng dược
liệt ư tì chẫm. Cố kinh vân, ninh ẩm dương đồng, thận vô phạm tửu.
Y, khả bất giới dư?
Năm là không được uống rượu.
Giải: Uống rượu là uống tất cả thứ rượu có khả năng làm say con người.
Tây vức rượu có nhiều thứ: mía, nho, cùng với trăm hoa đều có thể
làm rượu. Địa phương này chỉ có rượu làm bằng gạo. Tất cả đều
không được uống. Trừ lúc có bịnh nặng, phi rượu không chữa được,
thì phải tác bạch tăng chúng mới uống. Vô cớ thì một giọt cũng không
được thấm môi. Cho đến không được ngửi rượu, không được dừng
ở quán rượu, không được đem rượu cho người uống. Nghi Địch chế
rượu, Vũ vương nhân đó đau xót tuyệt bỏ. Trụ vương làm hồ rượu,
quốc gia vì thế diệt vong. Tăng sĩ mà còn uống rượu thì càng đáng sỉ
nhục hơn nữa. Xưa có ưu bà tắc vì phá giới uống rượu mà luôn các giới
khác đều phá. Ba mươi sáu lỗi, một việc uống rượu có đủ tất cả,
tội ác không phải nhỏ. Kẻ ham uống rượu thì chết rồi phải đọa vào
địa ngục Phân sôi, đời đời ngu si, mất giống trí tuệ, nên rượu là
thuốc cuồng làm mê loạn tâm hồn còn dữ hơn cả đá tì, chim chẫm. Nên
kinh đã dạy, thà uống nước đồng nấu chảy, thận trọng đừng phạm vào
sự uống rượu. Như thế không răn giữ được sao?
(8) Lục viết bất trước hương
hoa man, bất hương đồ thân. Giải viết: Hoa man giả, Tây vức nhân quán
hoa tác man, dĩ nghiêm kỳ thủ; thử độ tắc tăng, nhung, kim, bảo, chế sức
cân quan chi loại thị dã. Hương đồ thân giả, Tây vức quí nhân dụng
danh hương vi mạt, linh thanh y ma thân; thử độ tắc bội hương, huân hương,
chi phấn chi loại thị dã. Xuất gia chi nhân khởi nghi dụng thử. Phật chế
tam y câu dụng thô sơ ma bố, thú mao tàm khẩu hại vật thương từ, phi sở
ưng dã. Trừ niên cập thất thập, suy đồi chi thậm, phi bạch bất noãn
giả, hoặc khả vi chi, dư câu bất khả. Hạ Vũ ác y, Công tôn bố bị, vương
thần chi quí, nghi vi bất vi, khởi đắc đạo nhân phản tham hoa sức. Hoại
sắc vi phục, phấn tảo tế hình, cố kỳ nghi hỷ. Cổ hữu cao tăng tam thập
niên trước nhất lưỡng hài, huống phàm bối hồ. Y, khả bất giới dư?
Sáu là không được mang vòng hoa thơm
hay dùng hương thơm xoa mình. Giải: Vòng hoa là người Tây vức xâu hoa làm
vòng để trang sức đầu họ, còn quốc độ này là cái loại dùng lụa,
nhung, vàng và các thứ quí báu mà chế tạo hay trang sức khăn mão. Dùng hương
thơm xoa mình là kẻ sang ở Tây vức dùng danh hương làm bột, bảo thanh y
xát vào mình, còn quốc độ này là cái loại đeo hương, xông hương, sáp
và phấn. Người xuất gia đâu có nên dùng những thứ đó. Phật qui định
ba pháp y đều dùng toàn vải gai thô sơ, còn lông thú miêÍng tằm thì hại
sinh vật, tổn từ bi, không phải những thứ thích hợp với người xuất
gia. Trừ tuổi đến bảy mươi, suy đồi quá lắm, phi lụa không ấm thì
hoặc có thể dùng được, còn những kẻ khác đều không thể. Vũ vương
nhà Hạ chỉ mặc áo xấu, Công tôn Hoằng chỉ dùng áo ngủ bằng vải,
sang như đế vương đại thần, đáng dùng mà không dùng, thì người hành
đạo đâu được ngược lại, ham phục sức hoa myծ Nên, lấy hoại sắc
làm y phục, lấy phấn tảo che thân hình, vốn là sự thích nghi của người
xuất gia. Xưa có vị cao tăng mà ba mươi năm chỉ mang một đôi giày, huống
chi hạng phàm phu. Như thế không răn giữ được sao?
(9) Thất viết bất ca vũ xướng kyլ
bất vãng quan thính. Giải viết: Ca giả khẩu xuất ca khúc; vũ giả thân
vi hý vũ; xướng kyՠgiả vị cầm sắt tiêu quản chi loại thị dã; bất
đắc tự tác, diệc bất đắc tha nhân tác thời cố vãng quan thính. Cổ hữu
tiên nhân, nhân thính nữ ca âm thanh vị diệu, cự thất thần túc. Quan
thính chi hại như thị, huống tự tác hồ? Kim thế ngu nhân, nhân Pháp hoa
hữu tì bà nao bạt chi cú, tứ học âm nhạc. Nhiên Pháp hoa nãi cúng dường
chư Phật, phi tự ngu dã. viện tác nhân gian pháp sự đạo tràng, do khả
vi chi, kim vị sanh tử xả tục xuất gia, khởi nghi bất tu chánh vụ nhi cầu
công kyՠnhạc? Nãi chí vi kỳ, lục bác, đầu trịch, xu bồ đẳng sự,
giai loạn đạo tâm, tăng trưởng quá ác. Y, khả bất giới dư?
Bảy là không được ca, vũ, hòa tấu,
biểu diễn, hay đi xem nghe. Giải: Ca là miệng hát các khúc ca, vũ là thân
múa các điệu vũ, hòa tấu biểu diễn là cái loại đàn cầm đàn sắt
ống tiêu ống quản. Không được chính mình tự làm những việc này, mà
khi người khác làm, mình cũng không được cố đi xem và nghe. Xưa có tiên
nhân vì nghe con gái hát, âm thanh tuyệt diệu, mà thốt nhiên mất liền thần
túc. Cái hại xem nghe còn như thế, huống chi tự làm? Ngày nay, những kẻ
ngu muội nhân kinh Pháp hoa có câu tì bà nao bạt nên tự ý phóng túng mà học
âm nhạc. Nhưng trong kinh Pháp hoa nói, là để hiến cúng chư Phật, không
phải tự vui. Do đó, những am viện ứng phó làm đạo tràng pháp sự trong
nhân gian thì hoặc có thể làm được, còn nay vì vấn đề sanh tử mà
thoát tục xuất gia, thì đâu có thể không tu tập việc chính, lại cầu học
tập cho khéo về kyՠnhạc. Cho đến những việc đánh vi kỳ, lục bác, đầu
trịch, xu bồ, vân vân, đều rối loạn đạo tâm, thêm lớn tôểi ác. Như
thế không răn giữ được sao ?
(10) Bát viết bất tọa cao quảng
đại sàng. Giải viết: Phật chế thằng sàng cao bất quá Như lai bát chỉ.
Quá thử tức phạm. Nãi chí tất thể điêu khắc, cập sa quyến trướng
nhục chi loại, diệc bất nghi dụng. Cổ nhân dụng thảo vi tòa, túc ư thọ
hạ; kim hữu sàng tháp diệc ký thắng hỷ, hà cánh cao quảng, túng tứ huyễn
khu. Hiếp tôn giả nhất sanh hiếp bất trước tịch, Cao phong Diệu thiền
sư tam niên lập nguyện bất triêm sàng đắng, Ngộ đạt thọ trầm hương
chi tòa thượng tổn phước nhi chiêu báo. Y, khả bất giới dư?
Tám là không được ngồi giường
cao và rộng lớn. Giải: Phật qui định giường giây cao không quá tám
ngón tay của Ngài. Quá cỡ ấy thì phạm. Cho đến cái loại sơn vẽ chạm
trổ và màn nệm bằng sa lụa cũng không nên dùng. Phật mà dùng cỏ làm
đồ ngồi, đêm nghỉ dưới cây; nay ta có giường có chõng cũng đã hơn rồi,
sao lại phải cao rộng để phóng túng xác huyễn. Hiếp tôn giả một đời
hông không dính chiếu, Cao phong Nguyên diêểu thiền sư ba năm lập nguyện
không dính giường ghế, Ngộ đạt quốc sư nhận pháp tọa trầm hương còn
tổn phước mà rước họa. Như thế không răn giữ được sao?
(11) Cửu viết bất phi thời thực.
Giải viết: Phi thời giả, quá nhật ngọ phi Tăng thực chi thời phận dã.
Chư thiên tảo thực, Phật ngọ thực, súc sanh ngọ hậu thực, quỉ dạ thực.
Tăng nghi học Phật, bất quá ngọ thực. Ngạ quỉ văn oản bát thanh, tắc
yết trung hỏa khởi, cố ngọ thực thượng nghi tịch tịnh, huống quá ngọ
hồ. Tích hữu cao tăng, văn lân phòng tăng ngọ hậu cử thoán, bất giác
thế khấp, bi Phật pháp chi suy tàn dã. Kim nhân thể nhược đa bịnh, dục
sác sác thực giả, hoặc bất năng trì thử giới, cố cổ nhân xưng vãn
thực vi dược thạch, thủ liệu bịnh chi ý dã. Tất dã tri vi Phật chế
sanh đại tàm quí, niệm ngạ quỉ khổ thường hành bi tế, bất đa thực,
bất myՠthực, bất an ý thực, thứ cơ khả nhĩ. Như hoặc bất thiên, đắc
tội di trọng. Y, khả bất giới dư?
Chín là không được ăn phi thời.
Giải: Phi thời là quá giờ ngọ thì không phải giờ ăn của tăng sĩ. Chư
thiên ăn buổi sáng, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, quỉ ăn
ban đêm. Tăng nên học Phật, không ăn quá giờ ngọ. Ngạ quỉ nghe tiếng
chén bát thì trong cổ họng lửa nổi lên, nên ăn đúng giờ ngọ mà còn
phải yên tịnh, huống quá giờ ngọ ấy. Xưa có vị cao tăng nghe vị tăng
sĩ ở phòng bên cạnh, sau giờ ngọ mà thổi bếp, bất giác rơi lụy khóc
thầm, buồn nỗi suy tàn của Phật pháp. Con người thời nay, có kẻ mình
yếu, nhiều bịnh, muốn ăn luôn luôn, hoặc không thể giữ giới này, nên
cổ nhân gọi bữa ăn chiều là thuốc, là lấy cái ý chữa bịnh. Nhưng
quyết định phải biết trái với sự qui định của Phật mà phát sanh sự
hổ thẹn to lớn, nghĩ nhớ nỗi thống khổ của ngạ quỉ mà thường hành
từ bi, không ăn nhiều, không ăn ngon, không ăn một cách yên dạ, mới có
thể tạm được. Nếu không thì đắc tội càng nặng. Như thế không răn
giữ được sao?
(12) Thập viết bất tróc trì sanh tượng
kim ngân bảo vật. Giải viết: Sanh tức kim dã. Tượng, tợ dã; tợ kim giả
ngân dã. Vị kim sắc sanh bản tự hoàng; ngân khả nhiễm hoàng, tợ kim
dã. Bảo giả thất bảo chi loại dã. Giai trưởng tham tâm, phương phế đạo
nghiệp. Cố Phật tại thế thời, Tăng giai khất thực, bất lập yên
thoán, y phục phòng thất tất nhậm ngoại duyên, trí kim ngân ư vô dụng
chi điểa. Tróc trì thượng cấm, thanh khả tri hỷ. Sừ kim bất cố, thế
nho thượng nhiên, Thích tử xưng bần, súc tài hề dụng? Kim nhân bất năng
câu hành khất thực, hoặc nhập tòng lâm, hoặc trú am viện, hoặc xuất
viễn phương, diệc vị miễn hữu kim ngân chi phí. Tất dã tri vi Phật chế
sanh đại tàm quí, niệm tha bần phạp thường hành bố thí, bất doanh cầu,
bất súc tích, bất phiến mại, bất dĩ thất bảo trang sức y khí đẳng vật,
thứ cơ khả nhĩ. Như hoặc bất nhiên, đắc tội di trọng. Y, khả bất giới
dư?
Mười là không được nắm giữ
sanh tượng (vàng bạc) bảo vật. Giải: Sanh là vàng. Tượng là tương tự;
tương tự với vàng là bạc. Nghĩa là sắc của vàng sanh ra vốn tự vàng,
còn bạc có thể nhuộm sắc vàng nên tương tự với vàng. Bảo là cái loại
bảy thứ quí báu. Tất cả đều tăng trưởng tham tâm, trở ngại và phế
bỏ đạo nghiệp. Nên khi Phật tại thế, tăng sĩ đều khất thực, không
lập bếp núc, áo cơm phòng thất đều tùy ngoại duyên, đặt vàng bạc
vào vị trí vô dụng. Nắm giữ mà còn cấm thì sự thanh bạch có thể biết
được. Bừa nhằm vàng mà không ngoái lại để ngắm, nho sĩ thế gian còn
như thế, Thích tử tự xưng bần đạo thì chứa của làm gì ? Người xuất
gia thời nay không phải ai cũng khất thực, mà hoặc nhập tòng lâm, hoặc
ở am viện, hoặc đi phương xa, cũng không khỏi cần đến tiền bạc.
Nhưng quyết định phải biết trái với sự qui định của Phật mà phát
sanh sự hổ thẹn to lớn, nghĩ nhớ nỗi nghèo thiếu của người khác mà
thường hành bố thí, không mưu cầu, không dồn chứa, không buôn bán,
không dùng bảy thứ quí báu trang sức những vật y phục, đồ dùng, vân
vân, mới có thể tạm được. Nếu không thì đắc tội càng nặng. Như thế
không răn giữ được sao?
- Hạ Thiên: Uy Nghi Môn
- (Chương Sau: Phần Uy Nghi)
(13) Phật chế, sa di niên mãn nhị
thập, dục thọ cụ túc giới thời, nhược vấn, bất năng cụ đối sa di
sự giả, bất ưng dữ cụ túc giới. Đương vân, khanh tác sa di, nãi bất
tri sa di sở thi hành! Sa môn sự đại nan tác; khanh thả khứ thục học,
đương tất văn tri, nãi ưng thọ cụ túc giới. Kim thọ khanh cụ túc giới,
nhân vị Phật pháp dị hành, sa môn dị tác. Cố đương tiên vấn. Dĩ hạ
điều tắc, ư sa di uy nghi chư kinh, cập cổ thanh qui, kim Sa di thành phạm
trung tiết xuất. Hựu Tuyên luật sư Hành hộ luật nghi, tuy giới tân học
tỷ kheo, hữu khả thông dụng giả diệc tiết xuất. Lương dĩ mạt pháp
nhân tình đa chư giải đãi, văn phồn tắc yểm, do thị san phồn thủ yếu,
nhưng phân loại dĩ tiện độc học. Gian hữu vị bị, tùng nghĩa bổ nhập
nhất nhị. Kỳ hữu nhạo quảng lãm giả, tự đương kiểm duyệt toàn thư.
Phật qui định, sa di tuổi đầy
hai mươi, khi muốn lãnh thọ cụ túc giới, nếu chất vấn mà người nào
không thể phúc đáp đầy đủ về việc sa di, thì không nên truyền thọ cụ
túc giới cho người ấy. Nên bảo, ông làm sa di mà không biết việc sa di
phải làm, huống chi việc sa môn là việc lớn, khó làm. Ông hãy đi học
cho thuộc, phải nghe và biết đủ cả, mới nên lãnh thọ cụ túc giới.
Bây giờ truyền thọ cụ túc giới cho ông thì người ta bảo Phật pháp dễ
tu, sa môn dễ làm. Vì vậy nên phải chất vấn trước. Nhữngđiều tắc
dưới đây là trích ra từ các bản kinh nói về uy nghi sa di, từ bản thanh
qui đời xưa và sách Sa di thành phạm đời nay. Tác phẩm Hành bộ luật
nghi của Tuyên luật sư tuy để răn bảo các vị tỷ kheo mới học, nhưng
điều nào có thể thông dụng thì cũng trích ra. Vì lòng người thời đại
mạt pháp lắm sự biếng nhác, nghe nhiều thì chán, do đó mà tôi lọc bỏ
những điều phồn toái, trích lấy những chỗ chính yếu. Nhưng vẫn phân
loại để tiện cho việc học đọc. Tựu trung có chỗ nào chưa đủ, tôi
theo ý nghĩa mà phụ thêm một vài điều. Ai thích xem cho rộng thì nên tự
cứu xét toàn văn các sách [trên đây].
- Kính Đại Sa Môn Đệ Nhất
- (Thứ 1, Kính Đại Sa Môn)
(Từ đây sắp đi, nguyên văn chữ
Hán, dịch âm cũng như dịch nghĩa, dấu * để xếp loại các việc (có khi
1 việc là 1 loại, có khi 2 việc sắp lên là 1 loại). Như vậy dấu * ấy
không có ý nghĩa thông thường của nó).
(14) Bất đắc hoán đại sa môn tự
* Bất đắc đạo thính đại sa môn thuyết giới * Bất đắc chuyển hành
thuyết đại sa môn quá * Bất đắc tọa kiến đại sa môn quá bất khởi,
trừ độc kinh thời, bịnh thời, thế phát thời, phạn thời, tác chúng sự
thời * Hành hộ vân, ngũ hạ dĩ thượng tức xà lê vị, thập hạ dĩ thượng
tức hòa thượng vị. Tuy tỷ kheo sự, sa di đương dự tri chi.
Không được gọi tên chữ của đại
sa môn * Không được lén nghe đại sa môn thuyết giới Không được nói
chuyền lầm lỡ của đại sa môn * Không được ngồi thấy đại sa môn
đi qua mà không đứng dậy, trừ lúc đọc kinh, lúc bịnh, lúc cắt tóc,
lúc ăn cơm, lúc làm việc tăng chúng * Hành hộ viết, 5 hạ sắp lên là
điểa vị xà lê, 10 hạ sắp lên là địa vị hòa thượng. Dầu là việc
của tỷ kheo, sa di cũng phải biết trước.
- Sự Sư Đệ Nhị
- (Thứ 2, Thờ Thầy)
(15) Đương tảo khởi. Dục nhập hộ,
đương tiên tam đàn chỉ * Nhược hữu quá, hòa thượng a xà lê giáo giới
chi, bất đắc hoàn nghịch ngữ * Thị hoà thượng a xà lê đương như thị
Phật * Nhược sử xuất bất tịnh khí, bất đắc thóa, bất đắc nộ nhuế
* Nhược lễ bái, sư tọa thiền bất ưng tác lễ, sư kinh hành bất ưng tác
lễ, sư thực, sư thuyết kinh, sư xơ xỉ, sư tháo dục, sư miên tức đẳng,
câu bất ưng tác lễ. Sư bế hộ, bất ưng hộ ngoại tác lễ. Dục nhập
hộ tác lễ, ưng đàn chỉ tam biến; sư bất ứng, ưng khứ * Trì sư ẩm
thực, giai đương lưỡng thủ bổng. Thực tất, liễm khí đương từ từ
* Thị sư, bất đắc đối diện lập, bất đắc cao xứ lập, bất đắc
thái viễn lập; đương linh sư tiểu ngữ đắc văn, bất phí tôn lực *
Nên dậy sớm. Muốn vào cửa, trước
hết nên đàn chỉ 3 lần * Nếu có lỗi, hòa thượng hay xà lê răn dạy thì
không được nói trả, nói nghịch * Chiêm ngưỡng hòa thượng và xà lê,
nên như chiêm ngưỡng Phật * Nếu bảo đổ đồ bất tịnh thì không nên
nhổ nước miếng, không nên giận tức * Nếu lễ bái thì thầy ngồi thiền
không nên làm lễ, thầy kinh hành không nên làm lễ, thầy thọ thực, thầy
thuyết kinh, thầy đánh răng, thầy tắm rửa, thầy ngủ nghỉ vân vân, đều
không nên làm lễ. Thầy đóng cửa, không nên ở ngoài cửa làm lễ. Muốn
vào cửa làm lễ, nên đàn chỉ 3 lần; thầy không trả lời thì nên đi *
Cầm đồ uống đồ ăn của thầy đều nên bưng 2 tay. Ăn rồi, dọn đồ
thì phải từ từ * Hầu thầy, không được đứng đối diện, không được
đứng chỗ cao, không được đứng quá xa; phải đứng sao để thầy nói
nhỏ mình nghe được, khỏi phí sức thầy *
(16) Nhược thỉnh vấn Phật pháp
nhân duyên, đương chỉnh y lễ bái, hiệp chưởng hồ quị; sư hữu ngữ,
trừng tâm đế thính, tư duy thâm nhập. Nhược vấn gia thường sự, bất
tu bái quị, đãn đoan lập sư trắc, cứ thật thân bạch. Sư nhược thân
tâm quyện, giáo khứ ưng khứ, bất đắc tâm tình bất hỷ, hiện ư nhan sắc
* Phàm hữu phạm giới đẳng sự, bất đắc phú tàng, tốc nghệ sư tiền
ai khất sám hối. Sư hứa tắc tận tình phát lộ, tinh thành hối cải,
hoàn đắc thanh tịnh * Sư ngữ vị liễu, bất đắc ngữ * Bất đắc hý tọa
sư tòa, cập ngọa sư sàng, trước sư y mạo đẳng * Vị sư trì đạt thư
tín, bất đắc tư tự chiết khán, diệc bất đắc dữ nhân khán. Đáo, bỉ
hữu vấn, ưng đáp tắc thật đối, bất ứng đáp tắc thiện từ khước
chi. Bỉ lưu, bất đắc tiện trú, đương nhất tâm tư sư vọng qui * Sư đối
tân, hoặc lập thường xứ, hoặc ư sư trắc, hoặc ư sư hậu, tất sử
nhĩ mục tương tiếp, hầu sư sở tu * Sư tật bịnh, nhất nhất dụng tâm
điều trị, phòng thất bị nhục, dược nhĩ chúc thực đẳng * Trì y, thọ
lý, tẩy hoán, hồng sái đẳng, cụ ư luật trung, tư bất phồn lục.
Nếu xin hỏi Phật pháp thì phải sửa
y, lễ bái, chắp tay, hồ quì; thầy có dạy thì lắng lòng nghe kyլ suy nghĩ
vào sâu. Nếu hỏi việc thường của trú xứ thì không cần lạy quì, chỉ
đứng ngay thẳng cạnh thầy, cứ thật trình bày. Nếu thầy mệt mỏi cơ
thể hay tâm trí, bảo đi thì nên đi, không được lòng dạ không vui, hiện
ra sắc mặt * Phàm có những việc phạm giới vân vân, không được che giấu,
phải cấp tốc đến trước thầy, thiết tha xin sám hối. Thầy chấp nhận
thì tận tình phát lộ, chân thành hối cải, phục hồi thanh tịnh * Thầy
nói chưa xong, không được nói * Không được ngồi chơi chỗ ngồi của thầy,
nằm chơi giường thầy, dùng chơi áo mão của thầy, vân vân * Vì thầy
đi đưa thư, không được tự lén mở coi, cũng không được cho người
coi. Đến, người nhận có hỏi, nên trả lời thì trả lời thành thật,
không nên trả lời thì khéo từ khước. Họ lưu giữ thì không được ở
liền, phải nhất tâm nhớ thầy mong về * Thầy tiếp khách thì hoặc đứng
chỗ thường đứng, hoặc đứng cạnh thầy, hoặc đứng sau thầy, phải làm
cho tai mắt tiếp nhau, hầu thầy cần dùng * Thầy đau ốm thì nhất nhất
chú ý chăm sóc, như phòng thất, chăn nệm, thuốc thang, cháo cơm vân vân *
Cầm áo, đưa giày, giặt rửa, sấy phơi, vân vân, thì dạy đủ cả trong
Luật, ở đây không chép nhiều.
(17) Phụ.- Phàm thị sư, bất mạng
tọa bất cảm tọa, bất vấn bất cảm đối, trừ tự hữu sự dục vấn.
Phàm thị lập, bất đắc ỷ bích kháo trác, nghi đoan thân tề túc trắc lập
* Dục lễ bái, nhược sư chỉ chi, nghi thuận sư mạng, vật bái * Phàm sư
dữ khách đàm luận thiệp đạo thoại, hữu ích thân tâm giả, giai
đương ký thủ * Sư hữu sở sử linh, nghi cập thời tác biện, bất đắc
vi mạn * Phàm thụy miên, bất đắc tiên sư * Phàm nhân vấn sư húy,
đương vân thượng mỗ tự hạ mỗ tự * Phàm đệ tử, đương trạch minh
sư, cửu cửu thân cận, bất đắc ly sư thái tảo; như sư thật bất minh,
đương biệt cầu lương đạo. Thiết ly sư, đương ức sư hối, bất đắc
túng tình tự dụng, tùy thế tục lưu hành bất chánh sự; diệc bất đắc
trú thị tỉnh náo xứ, bất đắc trú thần miếu, bất đắc trú dân
phòng, bất đắc trú cận ni tự xứ, bất đắc dữ sư các trú nhi hành thế
pháp trung nhất thế ác sự.
Phụ.- Phàm hầu thầy, thầy không
bảo ngồi thì không dám ngồi, không hỏi thì không dám thưa, trừ mình có
việc muốn hỏi. Phàm đứng hầu thì không được dựa vách, tựa ghế,
mà nên mình ngay thẳng, chân tề chỉnh, đứng cạnh thầy * Muốn lễ bái,
mà thầy ngăn lại thì nên thuận theo mạng lịnh của thầy, đừng lạy *
Phàm thầy cùng khách đàm luận mà lời nói liên hệ Phật pháp, hữu ích
thân tâm, thì đều nên nhớ lấy * Thầy có sai khiến gì thì nên kịp thời
làm cho xong, không được trái, nhác hay khinh thường * Phàm ngủ nghỉ,
không được trước thầy * Phàm ai hỏi tên húy của thầy, nên nói trên
chữ x, dưới chữ x * Phàm đệ tử thì phải chọn bâểc minh sư, thân cận
cho lâu, không được rời thầy quá sớm ; nếu thầy quả thật bất minh
thì phải tìm riêng vị lương đạo. Giả sử rời thầy thì phải ghi nhớ
giáo huấn của thầy, không được buông thả, tự chuyên, tùy theo dòng đời
mà làm việc bất chính; cũng không được ở chỗ ồn náo là chợ giếng,
không được ở miếu thần, không được ở phòng ốc dân chúng, không
được ở chỗ gần chùa ni, không được cùng thầy mỗi người ở một
nơi mà làm tất cả việc xấu trong thế gian.
- Tùy Sư Xuất Hành Đệ Tam
- (Thứ 3, Theo Thầy Đi Ra)
(18) Bất đắc quá lịch nhân gia. Bất
đắc chỉ trú đạo biên cọng nhân ngữ. Bất đắc tả hữu cố thị,
đương đê đầu tùy sư hậu * Đáo đàn việt gia, đương trú nhất diện,
sư giáo tọa ưng tọa. Đáo tha tự viện, sư lễ Phật, hoặc tự lễ, bất
đắc thiện tự minh khánh * Nhược sơn hành, đương trì tọa cụ tùy chi.
Nhược viễn hành, bất đắc tương ly thái viễn. Nhược độ thủy,
đương trì trượng từ thí thiển thâm * Trì bình, huề tích đẳng, cụ
như Luật trung, văn phồn bất lục. Phụ * Nhược ngẫu phân hành, ước ư
mỗ xứ hội, bất đắc hậu thời * Sư thọ trai, đương thị lập xuất
sanh; trai tất, phục thị lập thâu sấn.
Không được ghé qua nhà người khác.
Không được dừng ở bên đường cùng người nói chuyêển. Không được
ngoái nhìn hai bên, mà nên cúi đầu đi theo sau thầy * Đến nhà đàn việt,
nên đứng một bên thầy, thầy dạy ngồi thì nên ngồi. Đến tự viện
khác, thầy lạy Phật hoặc mình lạy, đều không được tự ý đánh
khánh * Nếu đi núi thì phải cầm tọa cụ theo thầy. Nếu đi xa thì không
được rời nhau quá xa. Nếu lội nước thì phải cầm gậy từ từ dò thử
cạn sâu * Những việc cầm bình, mang gậy vân vân, dạy đủ trong Luật,
văn nhiều nên ở đây không chép. Phụ * Ngẫu nhiên tách nhau mà đi, hẹn
ở chỗ nào gặp nhau, thì không được đến sau giờ hẹn * Thầy thọ trai
thì phải đứng hầu xuất sanh, thọ trai xong lại phải đứng hầu thâu nhận
đồ hiến cúng.
- Nhập Chúng Đệ Tứ
- (Thứ 4, Nhập Chúng)
(19) Bất đắc tranh tọa xứ. Bất
đắc ư tòa thượng diêu tương hô ngữ tiếu * Chúng trung hữu thất nghi,
đương ẩn ác dương thiện. Bất đắc phạt lao, hiển kỷ chi công * Phàm
tại xứ, thụy bất tại nhân tiền, khởi bất tại nhân hậu * Phàm tẩy
diện, bất đắc đa sử thủy. Sát nha thổ thủy, tu đê đầu dẫn thủy hạ,
bất đắc phún thủy tiễn nhân. Bất đắc cao thanh tỷ di ẩu thổ. Bất
đắc ư điện tháp, cập tịnh thất tịnh địa tịnh thủy trung thế thóa,
đương ư tích xứ * Khiết trà thang thời, bất đắc chích thủ ấp nhân.
Bất đắc hướng tháp tẩy xỉ, cập hướng hòa thượng, a xà lê đẳng *
Không được tranh chỗ ngồi. Không
được trên chỗ ngồi mà gọi vói nhau, nói hay cười * Trong chúng có ai mất
uy nghi, nên ẩn ác dương thiện. Không được khoe cái mệt để tỏ cái
công của mình * Phàm ở chỗ nào, ngủ không trước người, dậy không sau
người * Phàm rửa mặt, không được sử dụng nước nhiều. Đánh răng nhổ
nước, phải cúi đầu đưa nước xuống, không được phun nước tạt ướt
người. Không được lớn tiếng hỉ mũi, nôn ọe, khạc nhổ. Không được
nơi điện tháp, và trong nhà sạch, đất sạch, nước sạch mà hỉ nước
mũi, nhổ nước miếng, phải nơi chỗ khuất * Khi uống trà nước, không
được dùng một tay còn lại mà xá chào người. Không được xoay về phía
tháp mà tẩy răng, hay xoay về phía hòa thượng, xà lê vân vân *
(20) Phàm văn chung thanh, hiệp chưởng
mặc niệm vân:
- Văn chung thanh,
- Phiền não khinh,
- Trí tuệ trưởng,
- Bồ đề sanh,
- Ly địa ngục,
- Xuất hỏa khanh,
- Nguyện thành Phật,
- Độ chúng sanh,
- Án già ra đế da sa ha *
Bất đắc đa tiếu, nhược đại
tiếu; cập kha khiếm, đương dĩ y tụ yểm khẩu. Bất đắc cấp hành * Bất
đắc tương Phật đăng tư tựu kỷ dụng. Nhược nhiên đăng, đương hảo
dĩ tráo mật phú, vật linh phi trùng đầu nhập. Cúng Phật hoa, thủ khai
viên giả, bất đắc tiên khứu; trừ ủy giả phương cúng tân giả; ủy
giả bất đắc khí địa tiễn đạp, nghi trí bình xứ * Bất đắc văn hô
bất ứng; phàm hô, câu nghi dĩ niệm Phật ứng chi * Phàm thập di vật, tức
đương bạch tri sự tăng.
Phàm nghe tiếng chuông thì chắp
tay, niệm thầm như sau:
- Nghe tiếng chuông,
- Phiền não nhẹ,
- Trí tuệ lớn,
- Bồ đề sanh,
- Thoát địa ngục,
- Vượt hầm lửa,
- Nguyện thành Phật,
- Độ chúng sanh.
- Án già ra đế da sa ha *
Không được cười nhiều hoặc cười
lớn, và ngáp thì phải lấy tay áo bưng miệng. Không được đi gấp gáp *
Không được đem đèn của Phật dùng riêng cho mình. Nếu thắp đèn, phải
khéo lấy lồng che kín, đừng để loại phi trùng gieo vào. Hoa cúng Phật
thì lấy thứ nở vừa và không được ngửi trước ; loại trừ thứ héo
mới cúng thứ mới ; thứ héo cũng không được bỏ xuống đất dẫm đạp
lên, mà nên đặt ở chỗ khuất * Không được nghe gọi mà không trả lời,
và nghe gọi thì trả lời toàn bằng tiếng niệm Phật * Phàm nhặt của rơi
thì tức khắc phải bạch vị tri sự.
(21) Phụ.- Bất đắc dữ niên thiếu
sa di kiết hữu * Bất đắc tam y cẩu giản. Bất đắc đa tác y phục, nhược
hữu dư đương xả. Bất đắc biện tinh trí thao phất, ngoạn khí đẳng,
trang điểm giang hồ, thủ tiếu thức giả. Bất đắc trước sắc phục, cập
loại tục nhân y sức đẳng. Bất đắc bất tịnh thủ đáp y. Phàm thượng
điện, tu thúc phược khố miệt, bất đắc phóng ý tự tiện * Bất đắc
nhàn tẩu. Bất đắc đa ngôn. Bất đắc tọa thị đại chúng lao vụ, tị
lại thâu an * Bất đắc tư thủ chiêu đề trúc mộc, hoa quả, sơ thái, nhất
thế ẩm thực cập nhất thế khí vật đẳng * Bất đắc đàm thuyết triều
đình công phủ chánh sự đắc thất, cập bạch y gia trường đoản hảo
ác * Phàm tự xưng, đương cử nhị tự pháp danh, bất đắc vân ngã cập
tiểu tăng * Bất đắc nhân tiểu sự tranh chấp. Nhược đại sự nan nhẫn
giả, diệc tu tâm bình khí hòa, dĩ lý luận biện; bất khả tắc từ nhi
khứ. Động khí phát thô, tức phi hảo tăng dã.
Phụ.- Không được cùng sa di thiếu
niên kết bạn * Không được đối với 3 pháp y mà cẩu thả thiếu sót.
Không được sắm nhiều y phục, nếu có thừa thì nên bỏ ra mà cho. Không
được sắm giây và phất tốt bền, đồ chơi vân vân, trang điểm theo thói
giang hồ, chuốc lấy sự chê cười của thức giả. Không được mặc y phục
có màu sắc chính, dùng phục sức giống thế tục. Không được tay không
sạch mà đắp y. Phàm lên điện thì phải buộc ống quần, không được
buông lung tự tiện * Không được đi dạo. Không được nói nhiều. Không
được ngồi nhìn đại chúng làm việc mệt nhọc, mà mình tránh, nhác, cầu
an * Không được lấy riêng của chiêu đề như tre cây, hoa trái, rau lá, mọi
thứ đồ uống đồ ăn, mọi thứ đồ vật vân vân * Không được bàn
tán sự lợi và sự hại của việc chính trị thuộc triều đình công sở,
và những sự hay dở tốt xấu của người bạch y * Phàm tự xưng thì nên
nói hai chữ pháp danh, không được nói ta và tiểu tăng * Không được nhân
việc nhỏ mà tranh chấp. Nếu việc lớn khó nhẫn thì cũng phải tâm bình
tĩnh, khí ôn hòa, lấy lẽ thảo luận; không được thì từ mà đi. Nổi
giận nói thô thì không phải tăng sĩ có tư cách.
- Tùy Chúng Thực Đệ Ngũ
- (Thứ 5, Theo Chúng Thọ Thực)
(22) Văn kiền chùy thanh, tức
đương chỉnh y phục * Lâm thực chú nguyện, giai đương cung kính * Xuất
sanh, phạn bất quá thất liệp, miến bất quá nhất thốn, man đầu bất
quá chỉ giáp hử; đa tắc vi tham, thiểu tắc vi xan; kỳ dư sơ thái đậu
hủ bất xuất. Phàm xuất sanh, an tả chưởng trung, tưởng niệm kệ vân:
Nhữ đẳng quỉ thần chúng, Ngã kim thí nhữ cúng, Thử thực biến thập
phương, Nhất thế quỉ thần cọng * Phàm dục thực, tác ngũ quán tưởng:
nhất kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ; nhị thỗn kỷ đức hạnh, toàn
khuyết ứng cúng; tam phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông; tứ chánh sự lương
dược, vị liệu hình khô; ngũ vị thành đạo cố, phương thọ thử thực
*
Nghe tiếng kiền chùy là phải chỉnh
đốn y phục * Lúc ăn, chú nguyện thì phải cung kính * Xuất sanh thì cơm
không quá bảy hạt, bún không quá một tấc, bánh không quá cỡ móng tay;
nhiều là tham, ít là lẫn; ngoài ra, rau lá và đậu hủ không xuất sanh.
Phàm xuất sanh thì để trong tay trái, tưởng niệm bài kệ sau đây:
- Chúng quỉ thần các người,
- Nay tôi cho cúng phẩm,
- Cúng phẩm này khắp cả,
- Quỉ thần cùng hưởng thụ *
Sắp ăn, phải làm năm quán tưởng:
một, xét kể công lao nhiều ít và ước lượng lý do của thực phẩm;
hai, nghĩ kyՠđức hạnh của mình đủ hay thiếu để ứng thọ sự cúng dường;
ba, đề phòng tâm lý, tránh những tội lỗi mà tham sân si vẫn làm chủ yếu;
bốn, chính vì lấy thực phẩm làm dược phẩm tốt để trị liệu thân
hình khô yếu; năm, vì thành đạo nghiệp mới ứng thọ thực phẩm này *
(23) Vô ha thực hảo ác. Bất đắc
dĩ thực tư sở dữ, nhược trích dữ cẩu * Lai ích thực, bất đắc ngôn
bất dụng; nhượcdĩ bão, đương dĩ thủ nhượng khước chi * Bất đắc
trảo đầu, sử phong tiết lạc lân báttrung. Bất đắc hàm thực ngữ. Bất
đắc tiếu đàm tạp thoại. Bất đắc tước thực hữu thanh * Như dục
khiêu nha, dĩ y tụ yểm khẩu. Thực trung hoặc hữu trùng nghị, nghi mật yểm
tàng chi, mạc linh lân đơn kiến sanh nghi tâm * Đương nhất tọa thực, bất
đắc thực ngật, ly tòa, cánh tọa thực. Bất đắc thực ngật, dĩ thủ
chỉ quát oản bát thực * Phàm thực, bất đắc thái tốc, bất đắc thái
trì. Hành thực vị chí, bất đắc sanh phiền não. Hoặc hữu sở nhu, mặc
nhiên chỉ thọ, bất đắc cao thanh đại hoán. Bất đắc oản bát tác
thanh * Bất đắc thực tất tiên khởi * Nhược vi tăng chế, văn bạch chùy,
bất đắc kháng cự bất phục * Phạn trung hữu cốc, khử bì thực chi * Bất
đắc kiến myՠvị sanh tham tâm, tứ khẩu thực. Bất đắc thiên chúng thực.
Không được la rầy đồ ăn tốt xấu.
Không được lấy đồ ăn cho riêng, hoặc trích cho chó * Người đến thêm
đồ ăn, không được bảo không dùng; nếu no rồi thì phải lấy tay từ
khước * Không được lấy móng tay gãi đầu, làm cho gió thổi hắt mạt vụn
rơi trong bát của người ngồi bên cạnh. Không được ngậm đồ ăn mà
nói. Không được cười bàn chuyện tạp. Không được nhai đồ ăn ra tiếng
* Muốn khêu răng, phải lấy tay áo che miệng. Trong đồ ăn hoặc có sâu kiến,
nên kín đáo che giấu đi, đừng để người ngồi đơn bên cạnh thấy,
sanh nghi ngại * Phải ngồi ăn một lần mà thôi, không được ăn xong, rời
chỗ ngồi rồi, lại ngồi ăn nữa. Không được ăn xong, lấy ngón tay vét
chén bát mà ăn * Phàm ăn, không được quá mau, không được quá chậm. Người
đi thêm đồ ăn chưa đến, không được sanh phiền não. Hoặc có cần gì,
thì yên lặng dùng ngón tay mà trao ý, không được lớn tiếng gọi to. Không
được khua chén bát ra tiếng * Không được ăn rồi dậy trước * Nếu trái
qui chế tăng chúng, nghe bạch kiền chùy, không được kháng cự bất phục
* Trong cơm có lúa thì bỏ vỏ mà ăn * Không được thấy myՠvị thì sanh
tham tâm, phóng túng miệng mà ăn. Không được ăn riêng tăng chúng.
- Lễ Bái Đệ Lục
- (Thứ 6, Lễ Bái)
(24) Lễ bái, bất đắc chiếm điện
trung ương, thị trú trì vị. Hữu nhân lễ Phật, bất đắc hướng bỉ nhân
đầu tiền kính quá * Phàm hiệp chưởng, bất đắc thập chỉ sâm si, bất
đắc trung hư, bất đắc tương chỉ sáp tỷ trung, tu bình hung, cao đê đắc
sở * Bất đắc phi thời lễ bái, như dục phi thời lễ, tu đãi nhân tịnh
thời * Sư lễ Phật, bất đắc dữ sư tịnh lễ, đương tùy sư hậu viễn
bái. Sư bái nhân, bất đắc dữ sư đồng bái. Tại sư tiền, bất đắc dữ
đồng loại tương lễ. Tại sư tiền, bất đắc thọ nhân lễ. Kỷ thủ
trì kinh tượng, bất đắc vị nhân tác lễ. Phụ * Phàm lễ bái, tu tinh
thành tác quán. Giáo liệt thất chủng lễ, bất khả bất tri.
Lễ bái thì không được chiếm chỗ
chính giữa điện Phật, vì đó là vị trí của vị trú trì. Có người lạy
Phật, không được hướng tới trước đầu người ấy mà đi tắt * Phàm
chắp tay, không được mười ngón so le, không được trống rỗng ở giữa,
không được đưa ngón tay cắm vào lỗ mũi, phải để tay ngang ngực, cao
thấp đúng chỗ * Không được lễ bái không phải lúc; muốn lễ bái
không phải lúc thì phải đợi lúc mọi người yên tĩnh * Thầy lạy Phật,
không được cùng thầy lạy ngang nhau, mà phải theo sau thầy và lạy cách
xa. Thầy xá lạy người, không được cùng thầy đồng xá lạy. Trước thầy,
không được cùng đồng bậc lạy nhau. Trước thầy, không được nhận
người lạy. Tay mình cầm kinh tượng thì không được lạy người. Phụ *
Phàm lễ bái, phải tinh thành mà quán tưởng. Giáo lý liệt kê bảy cách lạy,
không thể không biết.
- Thính Pháp Đệ Nhất
- (Thứ 7, Nghe Pháp)
(25) Phàm ngộ quải thượng đường
bài, nghi tảo thượng đường, mạc đãi pháp cổ đại lôi. Chỉnh lý y phục,
bình thị trực tiến. Tọa tất đoan nghiêm. Bất đắc loạn ngữ, bất đắc
đại khái thóa. Phụ * Phàm thính pháp, tu văn nhi tư, tư nhi tu. Bất đắc
chuyên ký danh ngôn dĩ tư đàm bính. Bất đắc vị hội xưng hội, nhập
nhĩ xuất khẩu. Niên thiếu sa di giới lực vị cố, nghi cánh học Luật, bất
đắc tảo phó giảng diên.
Phàm thấy treo bảng thượng đường
thì nên sớm lên pháp đường, đừng chờ pháp cổ đánh lớn. Bằng cách
chỉnh đốn y phục, nhìn ngang tầm mắt, tới thẳng pháp đường. Ngồi,
phải thẳng và nghiêm. Không được nói bậy, không được ho và nhổ lớn.
Phụ * Phàm nghe pháp, phải nghe mà nghĩ, nghĩ mà tu. Không được chuyên nhớ
danh ngôn để cung cấp cho việc đàm luận. Không được chưa lãnh hội xưng
lãnh hội, vào tai ra miệng. Sa di tuổi nhỏ, giới lực chưa bền chắc, thì
phải học Luật nữa đã, không được đến pháp tịch sớm.
- Tập Học Kinh Điển Đệ Bát
- (Thứ 8, Học Tập Kinh Điển)
(26) Nghi tiên học luật, hậu học
tu đa la, bất đắc vi việt. Phàm học nhất kinh tu tiên bạch sư, kinh hoàn
cánh bạch biệt học mỗ kinh * Bất đắc khẩu xuy kinh thượng trần. Bất
đắc kinh án thượng bao tàng trà mạt, tạp vật. Nhân duyệt kinh, bất đắc
cận bỉ án tiền kinh hành. Phàm kinh tịch tổn hoại, nghi tốc tu bổ * Sa
di bản nghiệp vị thành, bất đắc tập học ngoại thư, tử, sử, trị thế
điển chương.
Phải trước học Luật, sau học
Kinh, không được trái vượt thứ tự ấy. Phàm học kinh nào thì phải bạch
thầy trước, kinh ấy xong thì lại bạch mà học kinh khác * Không được dùng
miêểng thổi bụi trên kinh, Không được trên bàn kinh mà cất để trà mạt,
tạp vật. Người xem kinh, không được đi qua gần trước bàn của họ.
Phàm kinh sách hư hỏng, phải cấp tốc tu bổ * Sa di mà việc chính chưa thành
thì không được học tập sách vở của dị giáo, của tư tưởng gia, của
sử truyện, của chính trị.
(27) Phụ.- Bất đắc giản ứng phó
đạo tràng kinh tập học. Bất đắc tập học ngụy tạo kinh điển * Bất
đắc tập học mạng thư, tướng thư, y thư, binh thư, bốc thệ thư, thiên
văn thư, địa lý thư, đồ sấm thư, nãi chí lô hỏa hoàng bạch, thần kỳ
quỉ quái, phù thủy đẳng thư. Bất đắc tập học tuyên quyển đả kệ.
Bất đắc tập học ngoại đạo thư, trừ trí lực hữu dư, vị dục tri nội
ngoại giáo thâm thiển giả, khả dĩ thiệp liệp, nhiên vật sanh tập học
tưởng * Bất đắc tập học thi từ. Bất đắc trước tâm học tự cầu
công, đãn thơ tả đoan khải túc hỷ * Bất đắc ô thủ chấp trì kinh. Đối
kinh điển như đối Phật, bất đắc hý tiếu. Bất đắc án thượng lang
tạ quyển trật. Bất đắc cao thanh động chúng. Bất đắc tá nhân kinh
khán bất hoàn, cập bất gia ái trọng dĩ trí tổn hoại.
Phụ.- Không được chọn kinh ứng
phó đạo tràng mà học tập. Không được học tập kinh điển ngụy tạo
* Không được học tập sách coi số, sách coi tướng, sách thuốc, sách
quân sự, sách bói, sách thiên văn, sách địa lý, sách sấm truyền, cho đến
những sách luyện đan, thần kỳ quỉ quái, phù thủy vân vân. Không được
học tập cách xướng kinh họa kệ. Không được học tập sách ngoại đạo,
trừ trí lực có thừa, vì muốn biết sự sâu cạn của nội giáo và ngoại
giáo, thì có thể đọc qua, nhưng không sanh ý tưởng học tập * Không được
học tập thi từ. Không được để tâm tập chữ cho đẹp, chỉ viết cho
ngay ngắn là đủ * Không được tay dơ mà cầm nắm kinh điển. Đối với
Kinh như đối với Phật, không được giỡn cười. Không được trên bàn
kinh để quyền pho bừa bãi. Không được đọc kinh lớn tiếng động chúng.
Không được mượn kinh của người để coi mà không trả, lại không gia
tâm quí trọng để đến nỗi hư hỏng.
- Nhập Tự Viện Đệ Cửu
- (Thứ 9, Vào Tự Viện)
(28) Phàm nhập tự môn, bất đắc
hành trung ương, tu duyên tả hữu biên hành; duyên tả tiên tả túc, duyên
hữu tiên hữu túc * Bất đắc vô cố đăng đại điện du hành. Bất đắc
vô cố đăng tháp. Nhập điện tháp đương hữu nhiễu, bất đắc tả chuyển.
Bất đắc điện tháp trung thế thóa. Nhiễu tháp hoặc tam tạp, thất tạp,
nãi chí thập tạp, bách tạp, tu tri biến số * Bất đắc dĩ lạp trượng
đẳng ỷ điện bích.
Phàm vào cửa chùa, không được
đi chính giữa. Phải ven theo bên trái bên phải mà đi. Ven bên trái thì trước
bước chân trái, ven bên phải thì trước bước chân phải * Không được
vô cớ lên đại diện dạo chơi. Không được vô cớ lên tháp. Vào điện
tháp, phải đi vòng quanh bên phải, không được đi vòng quanh bên trái.
Không được trong điện tháp mà hỉ nước mũi, nhổ nước miếng. Nhiễu
tháp thì hoặc 3 vòng, 7 vòng, cho đến 10 vòng, 100 vòng, và phải biết số
vòng ấy * Không được đem nón gậy vân vân để dựa vào vách điện Phật.
- Nhập Thiền Đường Tùy Chúng
Đệ Thập
- (Thứ 10, Vào Nhà Thiền Với Đồng
Chúng)
(29) Đơn thượng, bất đắc đẩu
y bị tác thanh phiến phong, sử lân đơn động niệm. Hạ sàng mặc niệm kệ
vân:
- Tùng triêu dần đán trực chí mộ,
- Nhất thế chúng sanh tự hồi hộ;
- Nhược ư túc hạ táng thân hình,
- Nguyện nhữ tức thời sanh tịnh độ *
Bất đắc đại ngữ cao thanh. Khinh
thủ yết liêm tu thùy hậu thủ. Bất đắc đà hài tác thanh. Bất đắc đại
khái sấu tác thanh. Bất đắc lân đơn giao đầu tiếp nhĩ giảng thuyết
thế sự * Hoặc hữu đạo bạn thân tình tương khán, đường trung bất đắc
cửu thoại; tương yêu lâm hạ thủy biên, nãi khả khuynh tâm đàm luận *
Nhược khán kinh, tu đoan thân trừng tâm mặc ngoạn, bất đắc xuất thanh
* Nhị bản minh, tức nghi tảo tiến đường. Qui vị, mặc niệm kệ vân:
- Chánh thân đoan tọa,
- Đương nguyện chúng sanh,
- Tọa bồ đề tòa,
- Tâm vô sở trước.
Trên đơn, không được rủ áo chăn
ra tiếng, phát gió, làm người trên đơn bên cạnh động niệm. Xuống giường
thì niệm thầm bài kệ sau đây:
- Từ sáng giờ dần suốt đến tối,
- Hết thảy chúng sanh tự tránh giữ;
- Nếu rủi mất mạng dưới chân tôi,
- Cầu nguyện tức thì sanh tịnh độ *
Không được to lời lớn tiếng. Nhẹ
tay thả sáo phải đỡ tay phía sau. Không được kéo giày ra tiếng. Không
được ho khan ho đàm lớn ra tiếng. Không được cùng người trên đơn bên
cạnh chụm đầu, kề tai, bàn tán thế sự * Hoặc có pháp hữu thân tình
đến thăm, thì trong thiền đường không được nói chuyện lâu; hãy mời
đến dưới cây hay bên suối mới có thể khuynh tâm đàm luận * Nếu xem
kinh, phải thẳng mình, lắng lòng, yên lặng nghiền ngẫm, không được đọc
ra tiếng * Bảng đánh 2 tiếng thì nên sớm tới thiền đường. Đến ngồi
chỗ của mình thì niệm thầm bài kệ sau đây:
- Thẳng mình ngồi ngay,
- Nên nguyện chúng sanh,
- Ngồi tòa bồ đề,
- Tâm không vướng mắc.
(30) Phụ.- Bất đắc xuyên đường
trực quá * Thượng đơn hạ đơn câu đương tế hạnh, vật linh lân đơn
động niệm * Bất đắc đơn thượng tả văn tự, trừ chúng khán kinh
giáo thời. Bất đắc đơn thượng tương tụ bãi trà, dạ tọa tạp thoại.
Bất đắc đơn thượng phùng bổ y bị. Bất đắc miên ngọa cọng lân
đơn thuyết thoại, động chúng.
Phụ.- Không được xuyên thiền
đường mà đi thẳng * Lên đơn xuống đơn đều phải nhẹ nhàng, đừng làm
người trên đơn bên cạnh động niệm * Không được trên đơn viết chép,
trừ khi cả chúng coi kinh điển. Không được trên đơn xúm nhau bày trà,
ngồi đêm, nói tạp. Không được trên đơn may vá áo chăn. Không được nằm
ngang, cùng người trên đơn bên cạnh nói chuyện, động chúng.
- Chấp Tác Đệ Thập Nhất
- (Thứ 11, Làm Việc)
(31) Đương tích chúng tăng vật.
Đương tùy tri sự giả giáo lệnh, bất đắc vi lệ * Phàm tẩy thái,
đương tam dịch thủy. Phàm cấp thủy, tiên tịnh thủ * Phàm dụng thủy,
tu đế thị hữu trùng vô trùng, hữu, dĩ mật la lự quá phương dụng;
nhược nghiêm đông, bất đắc tảo lự thủy, tu đãi nhật xuất. Phàm
thiêu táo, bất đắc nhiên hủ tân * Phàm tác thực, bất đắc đới trảo
giáp cấu * Phàm khí ác thủy, bất đắc đương đạo, bất đắc cao thủ
dương bát; đương ly địa tứ ngũ thốn, từ từ khí chi. Phàm tảo địa,
bất đắc nghịch phong tảo, bất đắc tụ khôi thổ an môn phiến hậu * Tẩy
nội y, tu thập khứ kỷ sắt phương tẩy. Hạ nguyệt, dụng thủy bồn liễu
tu phúc, nhược ngưỡng tức trùng sanh. Phụ * Bất đắc nhiệt thang bát địa
thượng * Nhất thế mễ miến sơ quả đẳng, bất đắc khinh khí lang tạ,
tu gia ái tích.
Phải thương tiếc vật của tăng
chúng. Phải tùy giáo lịnh của vị tri sự, không được trái, ngang * Phàm
rửa rau, phải 3 lần đổi nước. Phàm múc nước, trước phải sạch tay *
Phàm dùng nước, phải nhìn kyՠcó trùng không trùng, có thì lấy là dày lọc
đi mới dùng ; mùa đông lạnh lắm thì không được lọc nước sớm, phải
chờ mặt trời mọc. Phàm đốt bếp, không được đốt củi thối mục *
Phàm làm đồ ăn, không được để bẩn trong móng tay * Phàm đổ bỏ nước
dơ, không được đổ ra đường đi, không được cao tay dơ lên đổ xuống
bắn ra ; phải cách đất bốn năm tấc từ từ đổ bỏ nước ấy. Phàm
quét đất, không được quét ngược gió, không được dồn đất bụi vào
sau cánh cửa * Giặt áo trong, phải nhặt bỏ rận chấy mới giặt. Những
tháng hè, dùng chậu nước rồi, phải lật úp xuống, nếu để ngửa ra là
sinh trùng. Phụ * Không được nước sôi đang nóng mà rót bắn trên đất
* Tất cả gạo bột, rau trái vân vân, không được khinh bỏ bừa bãi, phải
gia tâm quí tiếc.
- Nhập Dục Đệ Thập Nhị
- (Thứ 12, Vào Nhà Tắm)
(32) Tiên dĩ thang tẩy diện. Tùng
thượng chí hạ, từ từ tẩy chi * Bất đắc thô táo, dĩ thang thủy tiễn
lân nhân. Bất đắc dục đường tiểu di. Bất đắc cọng nhân ngữ tiếu
; Nhân thiên bảo giám vân, nhất sa di nhập dục hý tiếu, toại cảm Phất
thang địa ngục chi báo. Bất đắc tẩy tích xứ * Phàm hữu sang tiển,
nghi tại hậu dục; hoặc hữu khả úy sang, vưu nghi hồi tﬠmiễn thích
nhân nhãn. Bất đắc tứ ý cửu tẩy, phương ngại hậu nhân. Phụ * Thoát
y trước y, an tường tự tại * Dục tiền, tiên tẩy tịnh, tu tế hạnh; bất
đắc dĩ tẩy tịnh thủy nhập dục phũ * Thang lãnh nhiệt, y lệ kích bang,
bất đắc đại hoán.
Trước, lấy nước nóng rửa mặt.
Rồi từ trên đến dưới, từ từ mà rửa * Không được tinh nghịch, lấy
nước nóng tạt người bên cạnh. Không được trong nhà tắm mà tiểu giải.
Không được cùng người nói cười ; sách Nhân thiên bảo giám nói, một
sa di vào tắm mà giỡn cười nên cảm ra quả báo địa ngục Sôi sục.
Không được rửa chỗ kín * Phàm có ghẻ nhọt ghẻ lở thì nên tắm sau ;
hoặc có ghẻ nhọt đáng sợ, càng nên tránh đi, khỏi gớm mắt người.
Không được mặc ý lắm rửa lâu, trở ngại người sau. Phụ * Cởi áo mặc
áo nên thung dung tự tại * Trước khi tắm phải tẩy tịnh, và tẩy tịnh
thì phải giữ tế hạnh ; không được đem nước tẩy tịnh đổ vào vạc
nước tắm * Cần nước nóng đã nguội hay còn nóng thì y lệ mà đánh mõ
dài, không được gọi lớn.
- Nhập Xí Đệ Thập Tam
- (Thứ 13, Vào Nhà Xí)
(33) Dục đại tiểu tiện tức
đương hành, mạc đãi nội bức thảng thốt. Ư trúc can thượng quải trực
chuyết, triệp linh tề chỉnh, dĩ thủ cân hoặc yêu thao hệ chi, nhất tác
ký nhận, nhị khủng đọa địa. Tu thoát hoán hài lý, bất khả tịnh hài
nhập xí * Chí, đương tam đàn chỉ, sử nội nhân tri. Bất đắc bách xúc
nội nhân sử xuất. Dĩ thượng, phục đương tam đàn chỉ, mặc niệm
vân:
- Đại tiểu tiện thời,
- Đương nguyện chúng sanh,
- Khí tham sân si,
- Quyên trừ tội pháp *
Bất đắc đê đầu thị hạ. Bất
đắc trì thảo họa địa. Bất đắc nỗ khí tác thanh. Bất đắc cách
bích cọng nhân thuyết thoại. Bất đắc thóa bích * Phùng nhân bất đắc
tác lễ, nghi trắc thân thi. Bất đắc duyên lộ hành hệ y đới. Tiện
tất, đương tịnh tháo thủ, vị tháo bất đắc trì vật. Tẩy thủ mặc
niệm vân:
- Dĩ thủy quán chưởng,
- Đương nguyện chúng sanh,
- Đắc thanh thịnh thủ,
- Thọ trì Phật pháp.
- Án chủ ca ra da sa ha.
Phụ.- Nhược tiểu giải, diệc yếu
thâu khởi y tụ. Hựu bất khả trước thiên sam tiểu giải.
Muốn đại diện tiểu tiện là
nên đi ngay, đừng đợi trong cơ thể bức bách mà thảng thốt. Ở trên
sào tre, treo áo trực chuyết thì phải gấp xếp cho tề chỉnh, lấy khăn
tay hoặc dây lưng buộc áo ấy, một là làm dấu nhận biết, hai là sợ rơi
xuống đất. Phải cởi đổi giày dép, không được mang giày dép sạch
vào nhà xí * Đến nhà xí, phải ba lần đàn chỉ để cho người ở trong
đó biết. Không được thúc bách người ở trong đó cho họ phải ra. Đã
lên nhà xí, lại phải ba lần đàn chỉ, niệm thầm:
- Đại tiện tiểu tiện,
- Nên nguyện chúng sanh,
- Xả tham sân si,
- Loại trừ tội lỗi *
Không được cúi đầu nhìn xuống.
Không được cầm cỏ vẽ đất. Không được rán hơi ra tiếng. Không được
cách vách cùng người nói chuyện. Không được nhổ nước miếng vào vách
* Gặp người không được thi lễ, phải nghiêng mình tránh họ. Không được
ven theo đường vừa đi vừa buộc áo, dải. Tiện lợi hoàn tất, phải rửa
tay thật sạch, chưa rửa thì không được cầm nắm đồ vật. Rửa tay thì
niệm thầm:
- Lấy nước rửa tay
- Nên nguyện chúng sanh,
- Được tay thanh tịnh,
- Nhận giữ Phật pháp
- Án chủ ca ra da sa ha.
Phụ.- Tiểu giải, cũng phải vén
tay áo lên. Lại không được mặc áo thiên sam mà tiểu giải.
- Thụy Ngọa Đệ Thập Tứ
- (Thứ 14, Nằm Ngủ)
(34) Ngọa, tu hữu hiếp, danh cát tường
thụy. Bất đắc ngưỡng ngọa phúc ngọa, cập tả hiếp ngọa * Bất đắc
dữ sư đồng thất đồng tháp, hoặc đắc đồng thất, bất đắc đồng
tháp. Diệc bất đắc dữ đồng sự sa di cọng tháp * Phàm quải hài lý,
tiểu y đẳng, bất đắc quá nhân đầu diện. Phụ * Bất đắc thoát lý y
ngọa. Bất đắc thụy sàng thượng tiếu ngữ cao thanh * Bất đắc thánh tượng
cập pháp đường tiền huề niệu khí quá.
Nằm, phải nghiêng hông bên phải,
gọi là cách ngủ cát tường. Không được nằm ngửa, nằm sấp, và nằm
nghiêng hông bên trái * Không được cùng thầy đồng phòng đồng giường,
hoặc được đồng phòng mà không được đồng giường. Cũng không được
cùng sa di đồng sự chung giường * Phàm treo giày, tất, áo nhỏ vân vân,
không được quá đầu và mặt người. Phụ * Không được cởi áo trong
mà nằm. Không được trên giường ngủ cười nói lớn tiếng * Không được
trước thánh tượng và pháp đường mà mang đồ tiểu tiện đi qua.
- Vi Lô Đệ Thập Ngũ
- (Thứ 15, Quanh Lò Lửa)
(35) Bất đắc giao đầu tiếp nhĩ
thuyết thoại. Bất đắc đàn cấu nị hỏa trung. Bất đắc hồng bồi hài
miệt * Bất đắc hướng hỏa thái cửu, khủng phương hâểu nhân. Xảo
noãn, tiện nghi qui vị.
Không được giao đầu tiếp tai nói
chuyện. Không được gảy búng cáu bẩn vào trong lửa. Không được hơ sấy
giày, tất * Không được hơ lửa quá lâu, sợ trở ngại người sau. Hơi
ấm, liền nên về chỗ.
- Tại Phòng Trung Trú Đệ Thập Lục
- (Thứ 16, Ở Trong Phòng)
(36) Canh tương vấn tấn, tu tri đại
tiểu * Dục trì đăng hỏa nhập, dự cáo phòng nội tri, vân hỏa nhập ; dục
diệt đăng hỏa, dự vấn đồng phòng nhân, cánh dụng đăng phủ. Diệt
đăng hỏa, bất đắc khẩu xuy. Niệm tụng, bất đắc cao thanh * Nhược hữu
bịnh nhân, đương từ tâm thỉ chung khán chi. Hữu nhân thụy, bất đắc
đả vật tác hưởng, cập cao thanh ngữ tiếu * Bất đắc vô cố nhập tha
phòng viện.
Chào hỏi nhau, phải biết lớn nhỏ
* Muốn cầm lửa đèn vào, phải bảo trước trong phòng biết, rằng tôi cầm
lửa đèn vào; muốn tắt lửa đèn, phải hỏi trước người cùng phòng
còn dùng nữa không. Tắt lửa đèn, không được dùng miệng mà thổi. Tụng
niệm thì không được lớn tiếng * Nếu có bịnh nhân thì nên từ tâm coi
sóc từ đầu đến cuối. Có người ngủ thì không được đụng đồ ra
tiếng, và lớn tiếng nói cười * Không được vô cớ vào phòng khác.
- Đáo Ni Tự Đệ Thập Thất
- (Thứ 17, Đến Chùa Ni)
(37) Hữu dị tòa phương tọa, vô dị
tòa bất đắc tọa. Bất đắc vi phi thời chi thuyết. Nhược hoàn, bất đắc
thuyết kỳ hảo xú * Bất đắc thư sớ vãng lai, cập giả tá tài cát tẩy
hoán đẳng. Bất đắc thủ vị tịnh phát. Bất đắc bình xứ cọng tọa.
Phụ * Vô nhị nhân, bất đắc đan tiến * Bất đắc bỉ thử tống lễ. Bất
đắc chúc thác ni tăng nhập hào quí gia hóa duyên, cập cầu niệm kinh sám
đẳng. Bất đắc dữ ni tăng kết bái phụ mẫu, tỷ muội, đạo hữu.
Có chỗ ngồi khác mới ngồi,
không có chỗ ngồi khác thì không được ngồi. Không được nói không phải
lúc. Về, không được nói sự tốt xấu của họ * Không được thư từ
qua lại, và mượn nhờ may vá giặt rũ vân vân. Không được chính tay
mình cạo tóc cho họ. Không được cùng ngồi chỗ khuất. Phụ * Không phải
hai người thì không được đến một mình * Không được lễ vật qua lại.
Không được dặn nhờ ni tăng đến nhà hào quý mà khuyến hóa, cầu tụng
kinh sám vân vân. Không được cùng ni tăng kết làm cha mẹ, chị em, pháp hữu.
- Chí Nhân Gia Đệ Thập Bát
- (Thứ 18, Đến Nhà Người)
(38) Hữu dị tòa đương tọa, bất
nghi tạp tọa. Nhân vấn kinh, đương tri thời; thận vật vi phi thời chi
thuyết * Bất đắc đa tiếu * Chủ nhân thiết thực, tuy phi pháp hội, diệc
vật thất nghi quyՠ* Vô phạm dạ hành * Bất đắc không thất nội hoặc
bình xứ, dữ nữ nhân cọng tọa cọng ngữ. Bất đắc thư sớ vãng lai đẳng,
đồng tiền * Nhược nghệ tục tỉnh thân, đương tiên nhập trung đường
lễ Phật, hoặc gia đường thánh tượng đoan trang vấn tấn, thứ phụ mẫu
quyến thuộc đẳng, nhất nhất vấn tấn. Bất đắc hướng phụ mẫu thuyết
sư pháp nghiêm, xuất gia nan, tịch liêu đạm bạc, gian tân khổ khuất đẳng
sự; nghi vị thuyết Phật pháp, linh sanh tín tăng phước. Bất đắc dữ thân
tộc tiểu nhi đẳng cửu tọa cửu lập, tạp thoại hý tiếu; diệc bất
đắc vấn tộc trung thị phi hảo ác. Nhược thiên vãn tác túc, đương độc
xử nhất tháp, đa tọa thiểu ngọa, nhất tâm niệm Phật; sự ngật tức
hoàn, bất đắc lưu liên.
Có chỗ ngồi khác mới nên ngồi,
không được ngồi tạp. Người ta hỏi kinh thì phải biết lúc, thận trọng
đừng làm cái việc nói không phải lúc * Không được cười nhiều * Chủ
nhân thiết trai, dẫu không phải pháp hội, cũng đừng bỏ nghi thức * Đừng
phạm cái lỗi đi đêm * Không được ở trong nhà vắng, hoặc ở chỗ khuất,
cùng phụ nữ ngồi với nhau, nói với nhau. Không được thư từ qua lại vân
vân, như trước đã nói * Đến nhà tục thăm người thân, phải trước hết
vào nhà chính lạy Phật, hoặc đến trước tượng thánh trong nhà nghiêm
chỉnh chắp tay, thứ đến cha mẹ bà con vân vân, nhất nhất chào hỏi.
Không được hướng về cha mẹ nói những việc như cái nghiêm của phép
thầy, cái khó của xuất gia, cô liêu đạm bạc, gian nan khổ sở, vân
vân; nên vì cha mẹ nói Phật pháp, làm cho cha mẹ phát sinh tín tâm và tăng
trưởng phước đức. Không được cùng thân tộc, thiếu niên vân vân, ngồi
lâu đứng lâu, nói tạp giỡn cười; cũng không được hỏi đến những
việc phải trái tốt xấu trong thân tộc. Nếu trời tối, ngủ lại, thì
phải dùng riêng một giường, ngồi nhiều nằm ít, nhất tâm niệm Phật;
việc xong về liền, không được lưu luyến.
(39) Phụ.- Bất đắc tả hữu tà
thị. Bất đắc tạp ngữ. Nhược dữ nữ nhân ngữ, bất đắc đê thanh mật
ngữ. Bất đắc đa ngữ * Bất đắc trá hiện uy nghi, giả trang thiền tướng,
cầu bỉ cung kính. Bất đắc cuống thuyết Phật pháp, loạn đáp tha vấn,
tự mại đa văn, cầu bỉ cung kính * Bất đắc tống hạp lễ, hiệu bạch
y vãng hoàn. Bất đắc quản nhân gia vụ. Bất đắc tạp tọa tửu tịch.
Bất đắc kết bái bạch y nhân tác phụ mẫu tỷ muội. Bất đắc thuyết
tăng trung quá thất.
Phụ.- Không được nhìn hai bên một
cách bất chính. Không được nói tạp. Nói với phụ nữ thì không được
thấp tiếng nói thầm. Không được nói nhiều * Không được trá hiện uy
nghi, giả trang thiền tướng, mong họ cung kính. Không được nói dối trá
chánh pháp của Phật, đáp rối loạn lời hỏi của người, tự khoe đa
văn, cầu họ cung kính * Không được biếu tặng lễ vật, học đòi sự
giao hảo của người đời. Không được lo liệu việc nhà của người. Không
được ngồi xen tiệc rượu. Không được cùng người đời kết làm cha mẹ
chị em. Không được nói lỗi lầm trong tăng chúng.
- Khất Thực Đệ Thập Cửu
- (Thứ 19, Khất Thực)
(40) Đương dữ lão thành nhân câu.
Nhược vô nhân câu, đương tri sở khả hành xứ * Đáo nhân môn hộ, nghi
thẩm cử thác, bất đắc thất uy nghi. Gia vô nam tử, bất khả nhập môn
* Nhược dục tọa, tiên đương chiêm thị tòa tịch: hữu đao binh bất
nghi tọa, hữu bảo vật bất nghi tọa, hữu phụ nhân y bị trang nghiêm đẳng
bất nghi tọa * Dục thuyết kinh, đương tri sở ưng thuyết thời, bất ưng
thuyết thời * Bất đắc thuyết dữ ngã thực linh nhĩ đắc phước. Phụ
* Phàm khất thực, bất đắc ai cầu khổ sách. Bất đắc quảng đàm nhân
quả, vọng bỉ đa thí * Đa đắc vật sanh tham trước, thiểu đắc vật
sanh ưu não * Bất đắc chuyên hướng thục tình thí chủ gia cập thục
tình am viện xứ sách thực.
Nên cùng bậc lão thành đi chung. Nếu
không có bâểc lão thành đi chung thì phải biết chỗ có thể đi * Đến cửa
ngõ của người, phải xét kyՠcử động, không được để mất uy nghi. Nhà
không có đàn ông thì không được vào cửa * Nếu muốn ngồi, trước hết
phải xem kyՠchỗ ngồi: có khí giới không nên ngồi, có đồ quí không
nên ngồi, có y phục và đồ trang sức vân vân của phụ nữ không nên ngồi
* Muốn nói kinh, phải biết lúc đáng nói, lúc không đáng nói * Không được
nói cho tôi đồ ăn thì làm cho người được phước. Phụ * Phàm khất thực,
không được khẩn khoản nài nỉ. Không được nói nhiều về nhân quả,
mong họ cho nhiều * Được nhiều đừng sanh tham trước, được ít đừng
sanh phiền não * Không được hay đến nhà thí chủ thân tình hoặc chỗ am
viện thân tình mà đòi hỏi thực phẩm.
- Nhập Tụ Lạc Đệ Nhị Thập
- (Thứ 20, Vào Chỗ Dân Cư)
(41) Vô thiết duyên, bất đắc nhập
* Bất đắc trì hành. Bát đắc diêu tý hành. Bất đắc sác sác bàng thị
nhân vật hành. Bất đắc cọng sa di tiểu nhi đàm tiếu hành. Bất đắc dữ
ni tăng tiền hậu hỗ tùy hành. Bất đắc dữ túy nhân cuồng nhân tiền hậu
hỗ tùy hành. Bất đắc cố thị nữ nhân. Bất đắc nhãn giác bàng khán
nữ nhân * Hoặc phùng tôn túc thân thức, câu lập hạ bàng, tiên ý vấn tấn.
Hoặc phùng hý huyễn kỳ quái đẳng, câu bất nghi khán, duy đoan thân
chánh đạo nhi hành * Phàm ngộ thủy khanh, thủy khuyết, bất đắc khiêu
việt; hữu lộ đương nhiễu hành, vô lộ, chúng giai khiêu việt tắc đắc.
Phi bịnh duyên cập cấp sự, bất đắc thừa mã, nãi chí hý tâm tiên
sách trì sậu. Phụ * Phàm ngộ quan phủ, bất luận đại tiểu, câu nghi hồi
t Ngộ đấu tránh giả diệc viễn thi, bất đắc trụ khán * Bất đắc
hồi tự khoa trương sở kiến thành trung hoa myՠchi sự.
Không có lý do cần thiết thì
không được vào * Không được đi như chạy. Không được đi mà lay động
cánh tay. Không được đi mà luôn luôn nhìn qua hai bên những người và vật.
Không được đi mà cùng sa di hay thiếu niên nói cười. Không được đi mà
cùng phụ nữ trước sau theo nhau. Không được đi mà cùng ni tăng trước
sau theo nhau. Không được đi mà cùng người say người khùng trước sau
theo nhau. Không được cố nhìn phụ nữ. Không được dùng khóe mắt nhìn
qua phụ nữ * Gặp tôn túc, thân thức, thì nên đứng chỗ thấp hoặc đứng
một bên, chào hỏi trước. Gặp những sự kỳ lạ như trò chơi, ảo thuật
vân vân, đều không nên xem; chỉ thẳng mình ngay đường mà đi * Phàm gặp
nước hố, nước lở, không được nhảy qua; có đường khác thì nên đi
vòng quanh, không có đường khác mà mọi người cùng nhảy qua thì được.
Không phải lý do bịnh và việc khẩn cấp thì không được cỡi ngựa, cho
đến đùa giỡn ra roi cho ngựa chạy. Phụ * Phàm gặp quan quyền, bất luận
lớn nhỏ, đều nên tránh đi. Gặp kẻ đánh nhau cãi nhau, cũng nên tránh
xa, không được dừng ngó * Không được về chùa khoa trương những sự
hoa myՠtrong thành thị mà mình đã thấy.
- Thị Vật Đệ Nhị Thập Nhất
- (Thứ 21, Mua Đồ)
(42) Vô tranh quí tiện. Vô tọa nữ
tứ. Nhược vi nhân sở phạm, phương tiện thi, vật tùng cầu trị. Dĩ
hứa giáp vật, tuy phục cánh tiện, vô xả bỉ thủ thử, linh chủ hữu hận
* Thận vô bảo nhậm trí khiên phụ.
Không tranh đắt rẻ. Không ngồi
hàng quán phụ nữ. Nếu bị người xúc phạm thì phương tiện tránh đi,
đừng theo mà mưu cầu giá rẻ. Đã hứa mua vật của ai, thì dẫu vật của
người khác rẻ hơn cũng đừng bỏ vật ấy lấy vật này, làm cho chủ vật
ấy tức giận * Thận trọng, đừng bảo lãnh kẻo dẫn đến lỡ lầm và
mắc nợ.
- Phàm Sở Thi Hành Bất Đắc Tự Dụng Đệ Nhị
Thập Nhị
- (Thứ 22, Làm Gì Cũng Không Được Tự Ý)
(43) Xuất nhập hành lai, đương tiên
bạch sư. Tác tân pháp y, đương tiên bạch sư; trước tân pháp y, đương
tiên bạch sư. Thế đầu, đương tiên bạch sư. Tật bịnh phục dược,
đương tiên bạch sư. Tác chúng tăng sự, đương tiên bạch sư. Dục hữu
tư cụ chỉ bút chi bối, đương tiên bạch sư. Nhược phúng khởi kinh bối,
đương tiên bạch sư. Nhược nhân dĩ vâểt huệ thí, đương tiên bạch sư
dĩ nhiên hậu thọ; kỷ vật huệ thí nhân, đương tiên bạch sư, sư thính
nhiên hậu dữ. Nhân tùng kỷ giả tá, đương tiên bạch sư, sư thính
nhiên hậu dữ; kỷ dục tùng nhân tá vật, đương tiên bạch sư, sư thính
đắc khứ * Bạch, sư thính bất thính, giai đương tác lễ; bất thính, bất
đắc hữu hận ý. Phụ * Nãi chí đại sự, hoặc du phương, hoặc thính giảng,
hoặc nhập chúng, hoặc thủ sơn, hoặc hưng duyên sự, giai đương bạch
sư, bất đắc tự dụng.
Ra vào đi về, phải bạch thầy
trước. Sắm pháp y mới, phải bạch thầy trước; mặc pháp y mới, phải
bạch thầy trước. Cạo đầu, phải bạch thầy trước. Tật bịnh uống
thuốc, phải bạch thầy trước. Làm việc tăng chúng, phải bạch thầy trước.
Muốn có đồ riêng thuộc loại giấy bút, phải bạch thầy trước. Tụng
kinh tán kệ, phải bạch thầy trước * Ai đem đồ cho mình, phải bạch thầy
mới nhận; mình đem đồ cho ai, phải bạch thầy, thầy chấp thuận mới
cho. Ai mượn đồ, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới cho mượn;
mình mượn đồ của ai, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới
mượn * Bạch thầy, thầy chấp thuận hay không chấp thuận, đều phải làm
lễ. Thầy không chấp thuận, không được có ý giận hờn. Phụ * Cho đến
việc lớn như du học, như nghe giảng, như nhập chúng, như giữ chùa, như
những việc kết thiện duyên với Tam bảo, đều phải bạch thầy, không
được tự ý.
- Tham Phương Đệ Nhị Thập Tam
- (Thứ 23, Đi Học Xa)
(44) Viễn hành yếu giả lương bằng
* Cổ nhân tâm địa vị thông, bất viễn thiên lý cầu sư. Phụ * Niên ấu
giới thiển, vị hứa viễn hành; như hành, bất đắc dữ bất lương chi bối
đồng hành * Tu vị tầm sư phỏng đạo, quyết trạch sanh tử, bất nghi
quan sơn ngoạn thủy, duy đồ du lịch quảng viễn, khoa thị ư nhân * Sở
đáo chi xứ, yết phóng hành lý, bất đắc kính nhập điện đường. Nhất
nhân khán hành lý, nhất nhân tiên tiến vấn tấn, thủ thường trú tiến
chỉ, phương khả an đốn hành lý nhập nội.
Đi xa cần nhờ bạn tốt * Người
xưa tâm địa chưa thông suốt thì không ngại đi xa ngàn dặm mà cầu thầy.
Phụ * Tuổi nhỏ giới cạn thì chưa cho đi xa; nếu đi, không được cùng
những kẻ không tốt đi chung * Phải vì tìm thầy hỏi đạo, giải quyết
sanh tử, không nên nhìn non ngắm nước, chỉ toan tính du lịch rộng xa để
khoe khoang với người * Đến đâu thì để hành lý xuống, không được vào
thẳng điện Phật, hay giảng đường, tăng đường. Phải một người coi
hành lý, một người vào trước chào hỏi, tiếp nhận qui củ tiến chỉ của
thường trú chỗ ấy mới có thể thu xếp hành lý vào phía trong.
- Y Bát Danh Tướng Đệ Nhị Thập
Tứ
- (Thứ 24, Danh Tướng Y Bát [Mà
Sa Di Phải Biết Trước)
(45) Ngũ điều y, Phạn ngữ an đà
hội, thử vân trung túc y, diệc vân hạ y, diệc vân tạp tác y. Phàm tự
trung chấp lao phục dịch, lộ đồ xuất nhập vãng hoàn, đương trước thử
y. Đáp y kệ vân:
- Thiện tai giải thoát phục,
- Vô thượng phước điền y,
- Ngã kim đảnh đới thọ,
- Thế thế bất xả ly.
- Án tất đà da sa bà ha.
Pháp y 5 điều, Phạn ngữ là an đà
hội, xứ này dịch trung túc y, cũng dịch hạ y, cũng dịch tạp tác y.
Phàm chấp lao phục dịch trong chùa, ra vào qua lại ngoài đường nên mang
pháp y này. Bài kệ mang pháp y này là:
- Lành thay áo giải thoát,
- Áo ruộng phước tối thượng,
- Nay tôi kính tiếp nhận,
- Đời đời không rời bỏ.
- Án tất đà da sa bà ha.
(46) Thất điều y, Phạn ngữ uất
đa la tăng, thử vân thượng trước y, diệc vân nhập chúng y. Phàm lễ Phật,
tu sám, tụng kinh, tọa thiền, phó trai, thính giảng, bố tát, tự tứ,
đương trước thử y. Đáp y kệ vân:
- Thiện tai giải thoát phục,
- Vô thượng phước điền y,
- Ngã kim đảnh đới thọ,
- Thế thế thường đắc phi.
- Án độ ba độ ba sa bà ha.
Pháp y 7 điều, Phạn ngữ là uất
đa la tăng, xứ này dịch thượng trước y, cũng dịch nhập chúng y. Phàm lạy
Phật, tu sám, tụng kinh, tọa thiền, phó trai, nghe giảng, bố tát, tự tứ,
nên mang pháp y này. Bài kệ mang pháp y này là:
- Lành thay áo giải thoát, Á
- Áo ruộng phước tối thượng,
- Nay tôi kính tiếp nhận,
- Đời đời thường khoác mặc.
- Án độ ba độ ba sa bà ha.
(47) Nhị thập ngũ điều y, Phạn
ngữ tăng già lê, thử vân hợp, diệc vân trùng, diệc vân tạp toái y.
Phàm nhập vương cung, thăng tòa thuyết pháp, tụ lạc khất thực, đương
trước thử y. Hựu thử y cửu phẩm: hạ phẩm hữu tam, vị cửu điều,
thập nhất điều, thập tam điều; trung phẩm hữu tam, vị thập ngũ điều,
thập thất điều, thập cửu điều; thượng phẩm hữu tam, vị nhị thập
nhất điều, nhị thập tam điều, nhị thập ngũ điều. Đáp y kệ vân:
- Thiện tai giải thoát phục,
- Vô thượng phước điền y,
- Ngã kim đảnh đới thọ,
- Quảng độ chư quần mê.
- Án ma ha ca ba bà tra tất đế sa bà ha.
Pháp y 25 điều, Phạn ngữ là tăng
già lê, xứ này dịch là hợp, cũng dịch là trùng, cũng dịch là tạp
toái y. Phàm vào vương cung, thăng tòa thuyết pháp, khất thực phường khóm
[truyền giới, thuyết giới] nên mang pháp y này. Lại nữa, pháp y này có 9
bậc: bậc thấp có 3, là 9 điều, 11 điều và 13 điều; bậc vừa có 3,
là 15 điều, 17 điều và 19 điều; bậc cao có 3, là 21 điều, 23 điều và
25 điều. Bài kệ mang pháp y này là:
- Lành thay áo giải thoát,
- Áo ruộng phước tối thượng,
- Nay tôi kính tiếp nhận, ( *)
- Hóa độ cho tất cả.
- Án ma ha ca ba bà tra tất đế sa bà ha.
( *) Tỳ ni chép: phụng hành lịnh
Như lai.
(48) Bát, Phạn ngữ bát đa la, thử
vân ứng lượng khí, vị thể sắc lượng tam, giai ứng pháp cố. Thể dụng
ngõa thiết nhị vật, sắc dĩ dược yên huân trị, lượng tắc phân thượng
trung hạ.
Bát, Phạn ngữ là bát đa la, xứ này
dịch là ứng lượng khí, là vì thể chất, màu sắc, dung lượng, cả 3 đều
thích ứng chánh pháp. Thể chất thì dùng 2 thứ đất và sắt, màu sắc
thì bôi thuốc mà xông khói, dung lượng thì chia lớn vừa nhỏ.
(49) Cụ, Phạn ngữ ni sư đàn, thử
vân tọa cụ, diệc vân tùy túc y. Khai cụ kệ vân:
- Tọa cụ ni sư đàn,
- Trưởng dưỡng tâm miêu tánh,
- Triển khai đăng thánh địa,
- Phụng trì Như lai mạng.
- Án đàn ba đàn ba sa bà ha.
Cụ, Phạn ngữ là ni sư đàn, xứ
này dịch là tọa cụ, cũng dịch là tùy túc y. Bài kệ mở cụ là:
- Tọa cụ ni sư đàn,
- Nuôi lớn lúa tâm tánh,
- Mở ra lên thánh địa,
- Phụng hành lịnh Như lai.
- Án đàn ba đàn ba sa bà ha.
Chân
thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh
Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000