Nhiếp Luận
HT. Thích Trí Quang dịch giải
- 2
- Chương 1: Cương Yếu Của
Đại Thừa
Chính Văn.-
Trong kinh Đại thừa a tì đạt ma,
trước đức Thế tôn, các vị Bồ tát đã khéo ngộ nhập đại thừa (2)
, vì biểu thị đại thừa bản thể vĩ đại, nên nói rằng căn cứ vào
đại thừa mà chư vị Thế tôn có 10 ngôn ngữ thù thắng nói về 10 tiết
mục thù thắng (3) : một là căn cứ của các pháp sở tri, hai là sắc
thái của các pháp sở tri, ba là ngộ nhập các pháp sở tri, bốn là nhân
quả của sự ngộ nhập ấy, năm là sự tu tập về nhân quả ấy, sáu là
giới tăng thượng trong sự tu tập, bảy là định tăng thượng trong sự
tu tập, tám là tuệ tăng thượng trong sự tu tập, chín là đoạn đức của
sự tu tập, mười là trí đức của sự tu tập (4) . Do những tiết mục
trên đây, đã được nói trong khế kinh đức Thế tôn ấn chứng, mà biểu
thị đại thừa thật là Phật thuyết.
Lược Giải.-
Luận này không phải tông luận,
mà là thích luận, giải thích phẩm Nhiếp đại thừa của kinh Đại thừa
a tì đạt ma. Phẩm ấy nói về 10 tiết mục, với chủ ý nói rằng vì những
tiết mục ấy thù thắng nên ngôn ngữ diễn đạt những tiết mục ấy
cũng thù thắng, nói cách khác, phải có ngôn ngữ thù thắng mới diễn đạt
được nghĩa lý thù thắng. Những tiết mục ấy là cương yếu của đại
thừa, nên đại thừa là Phật thuyết. Điều này chứng tỏ luận này cốt
chống luận cứ đại thừa là ngụy tạo, phi Phật thuyết. Phật thuyết
là kinh, kinh có 2 loại, có loại Phật tuyên thuyết, có loại Phật ấn chứng
mà bồ tát tuyên thuyết. Kinh Đại thừa a tì đạt ma là loại 2.
Chương 2: Đại
Thừa Là Thù Thắng
Chính Văn.-
Biểu thị như thế nào? Là 10 tiết
mục đã nói trên đây, trong thanh văn thừa đã không thấy nói đến, chỉ
trong đại thừa mới nhiều chỗ thấy nói. (Một) nói a lại da là căn cứ
của các pháp sở tri (5) . (Hai) nói 3 tánh, y tha, biến kế và viên thành
là sắc thái của các pháp sở tri (6) . (Ba) nói đạo lý duy thức là sự
ngộ nhập các pháp sở tri (7) . (Bốn) nói 6 độ là nhân quả của sự ngộ
nhập ấy (8) . (Năm) nói 10 địa của Bồ tát là sự tu tập về nhân quả
ấy (9) . (Sáu) nói bồ tát giới là giới tăng thượng trong sự tu tập. (Bảy)
nói thủ lăng nghiêm, hư không tạng, và các định đồng đẳng, là định
tăng thượng trong sự tu tập. (Tám) nói trí vô phân biệt là tuệ tăng
thượng trong sự tu tập (10) . (Chín) nói niết bàn vô trú là đoạn đức
của sự tu tập. (Mười) nói 3 loại thân Phật, thân tự tánh, thân thọ dụng
và thân biến hóa là trí đức của sự tu tập (11) . Do 10 tiết mục đã
nói trên đây mà biểu thị đại thừa biệt lập với thanh văn thừa, lại
biểu thị đức Thế tôn chỉ nói 10 tiết mục ấy cho Bồ tát, nên chỉ căn
cứ vào đại thừa mà chư vị Thế tôn có 10 ngôn ngữ thù thắng về 10
tiết mục thù thắng.
Lược Giải.-
Thời đại luận này còn có cái luận
cứ: đại thừa không gì khác hơn là chính tiểu thừa. Với nội dung 10 tiết
mục như luận này nói, cho thấy đại thừa không thể chính là tiểu thừa.
Đại thừa là đại thừa, với mọi sự thù thắng mà tiểu thừa không
có.
Chương 3: Đại
Thừa Là Phật Thuyết
Chính Văn.-
Tại sao do ngôn ngữ thù thắng của
đức Thế tôn nói về 10 tiết mục thù thắng mà biểu thị đại thừa là
Phật thuyết, ngăn chận ý kiến nói thanh văn thừa là đại thừa? Vì 10
tiết mục này trong thanh văn thừa đã không thấy nói đến, chỉ trong đại
thừa mới thấy chỗ này nói chỗ khác nói. Có nghĩa 10 tiết mục này là
rất có năng lực dẫn ra đại bồ đề, là khéo léo xác lập, là thích
ứng chứ không mâu thuẫn và có năng lực chứng được cái trí Nhất thế
trí (12) . Ở đây có 2 bài văn chỉnh cú (13) . 1. Căn cứ của các pháp sở
tri, sắc thái của các pháp sở tri, ngộ nhập về các pháp sở tri, nhân
quả của sự ngộ nhập ấy, sự tu tập về nhân quả ấy, 3 tăng thượng
học của sự tu tập ấy, đoạn đức và trí đức của kết quả sự tu tập
ấy, đó là những tiết mục thù thắng, thống thuộc đại thừa tối thượng.
2. Đại thừa thì thấy nói đến, mà ngoài đại thừa thì không thấy nói
đến. Do vậy, 10 tiết mục nói trên là nhân tố thù thắng của đại bồ
đề, và tôi chủ trương rằng đại thừa thật là Phật thuyết. Đại thừa
ấy, do nói về 10 tiết mục, nên là thù thắng.
Lược Giải.-
Nội dung luận này là 10 tiết mục.
Mười tiết mục là đại thừa, có năng lực dẫn ra toàn giác. Nên đại
thừa là Phật thuyết, và biệt lập với tiểu thừa.
Chương 4: Tổng
Quát Cả Đại Thừa
Chính Văn.-
Tại sao 10 tiết mục có thứ tự
như vậy? Là vì (một) các vị Bồ tát trước hết phải khéo biết về căn
bản của các pháp thì mới gọi là khéo biết về các pháp duyên khởi;
(hai) kế đó thì phải khéo biết sắc thái của các pháp duyên khởi thì mới
tách rời được 2 cực đoan thêm và bớt (14) ; (ba) kế đó, vị bồ tát
khéo biết này phải chính xác thông suốt, nghĩa là khéo biết về sở thủ
(15) , làm cho tâm trí siêu thoát mọi sự chướng ngại; (bốn) kế đó,
thông suốt sở thủ rồi thì, trước tiên, đối với 6 độ của da hành vị,
vì chứng đắc nên càng phải thành mãn để ý lạc được trong sáng; (năm)
kế đó, đối với 6 độ của ý lạc trong sáng, càng phải trải qua 10 địa
mà tu tập một cách nỗ lực, tức là phải trải qua 3 đại kiếp vô số
(16) ; (sáu đến tám) trong sự tu tập này phải viên mãn về 3 học của bồ
tát; (chín và mười) viên mãn rồi thì hiện chứng đại niết bàn và đại
bồ đề của kết quả sự viên mãn ấy. Thứ tự được nói về 10 tiết
mục là như vậy, và ở đây đã nói về toàn thể đại thừa một cách
trọn vẹn.
Lược Giải.-
Mười tiết mục bao gồm tất cả
cảnh, hành, quả, nên đã bao quát đựơc toàn bộ đại thừa. Luận này lấy
tên Nhiếp đại thừa là vì như vậy.
Mục 1: Danh Xưng A
Lại Da
Chính Văn.-
Trong 10 tiết mục thù thắng, trước
hết, hãy nói về căn cứ của các pháp sở tri. Căn cứ ấy là a lại da.
Ở chỗ nào đức Thế tôn đã nói a lại da tên là a lại da? Là trong kinh
Đại thừa a tì đạt ma, đức Thế tôn đã nói như sau, trong một bài chỉnh
cú: Là cái nhân từ vô thỉ, a lại da là căn cứ mà tất cả các pháp đồng
đẳng nương dựa, do đó mà có mọi nẻo đường sinh tử và có sự chứng
được niết bàn (17) . Cũng trong kinh ấy, đức Thế tôn lại còn nói bài
chỉnh cú sau đây: Là cái chủ thức thâu tàng chủng tử (18) của các
pháp, nên mệnh danh là a lại da, đối với những người hơn người thì
Như lai khai thị. Như vậy là đã dẫn chứng trong khế kinh. Nhưng vì lý do
nào mà gọi là a lại da? Vì, đối với các pháp tạp nhiễm (19) , nó thâu
tàng với đặc tính làm quả, rồi cũng chính nó thâu tàng với đặc tính
làm nhân, nên mệnh danh là a lại da; hoặc hữu tình thâu tàng làm tự
ngã, nên mệnh danh là a lại da (20) .
Lược Giải.-
A lại da là cái căn bản vừa là
chủng tử, vừa là hiện hành, lại vừa là tự ngã, nên tên là a lại da.
Mục 2: Danh Xưng A
Đà Na
Chính Văn.-
A lại da cũng mệnh danh là a đà
na. Ở đây, khế kinh là như kinh Giải thâm mật nói: A đà na thức cực kỳ
vi tế, tất cả chủng tử tựa như dòng nước dốc (21) , Như lai không
nói cho phàm phu và tiểu thừa, vì sợ họ phân biệt chấp làm tự ngã. Nhưng
vì lý do nào mà mệnh danh a lại da là a đà na? Là vì nó chấp thọ sắc căn,
chấp thủ tự thể. Tại sao, vì các sắc căn do nó chấp thọ mới không
biến hoại, tùy chuyển suốt đời; lại lúc mới liên tục kiết sinh thì
nó chấp thủ kiết sinh ấy làm tự thể (22) . Do vậy mà a lại da cũng mệnh
danh là a đà na.
Lược Giải.-
Sinh mệnh là biểu hiện của a lại
da, nên a lại da có tên là a đà na.
Đoạn 1: Giải Thích
Trước Về Ý
Chính Văn.-
A lại da cũng mệnh danh là tâm, như
đức Thế tôn nói tâm ý thức 3 thứ. Trong đây ý có 2 loại. Thứ nhất
là làm đẳng vô gián duyên, tức cái ý vô gián diệt làm cho ý thức sinh
ra. Thứ hai là cái ý ô nhiễm thường tương ứng với 4 phiền não ngã kiến,
ngã mạn, ngã ái, ngã si, và chính nó là cái làm cho ý thức tạp nhiễm.
Ý thức do ý thứ nhất mà phát sinh, do ý thứ hai mà tạp nhiễm. Vì là đặc
tính nhận thức đối cảnh (nên cũng là thức), lại vì là đẳng vô gián
và vì là đặc tính tư lượng, nên ý có 2 loại (23) .
Lược Giải.-
Trong duy thức học, sự khám phá
và thuyết minh về ý cũng rất quan trọng và đặc thù. Ý là ý thức tự
ngã. Chính ý thức tự ngã này làm cho tâm thức tạp nhiễm, rồi ý thức
tự ngã này chuyển đổi đi thì chính ý làm cho tâm thức thanh tịnh. Do đó
mà ý được gọi là nhiễm tịnh y.
Chính Văn.-
Làm sao biết có cái ý ô nhiễm?
Là vì cái ý ô nhiễm nếu không có thì (một) vô minh bất cọng không có,
mà như vậy là có lỗi; (hai) cái đồng pháp với 5 thức cũng không có,
mà như vậy là có lỗi, vì 5 thức quyết định có 5 căn làm câu hữu y;
(ba) sự huấn thích danh từ cũng không có, mà như vậy là có lỗi; (bốn)
sự khác nhau giữa vô tưởng định và diệt tận định cũng không có, mà
như vậy là có lỗi, vì vô tưởng định còn có ý ô nhiễm chứ không phải
diệt tận định, không như vậy thì 2 định này đáng lẽ không khác gì
nhau; (năm) suốt thì gian sinh trời vô tưởng đáng lẽ không có ô nhiễm,
nghĩa là không có ngã chấp và ngã mạn, mà như vậy là có lỗi; (sáu) có
ý ô nhiễm nên trong các tâm thiện, ác và vô ký, lúc nào ngã chấp cũng
hiện hành thấy được, trái lại thì đáng lẽ chỉ trong tâm ác mới có
ngã và ngã sở tương ưng mà hiện hành, chứ không phải trong tâm thiện
và tâm vô ký - nên có cái ý ô nhiễm hiện hành vì câu hữu chứ không phải
hiện hành vì tương ưng, thì không có cái lỗi này (24) .
Lược Giải.-
Ý ô nhiễm chính là ý thức tự
ngã. Ý thức tự ngã phải có mới có sự ô nhiễm mà lúc nào tâm thức cũng
có.
Chính Văn.-
Ở đây có 4 bài chỉnh cú: 1. Vô
minh bất cọng, đồng pháp 5 thức, huấn thích danh từ, 2 định khác nhau,
nếu không có ý ô nhiễm thì 4 sự ấy không có, và như thế thì thành ra
có lỗi. 2. Nếu không có ý ô nhiễm thì đáng lẽ sinh trời vô tưởng không
còn ngã chấp, như vậy là có lỗi; ngã chấp thường có trong tất cả
tâm thức thiện, ác và vô ký, sự ấy cũng không có nếu không có ý ô
nhiễm. 3. Không có ý ô nhiễm thì 2 lý do đầu và 3 lý do tiếp theo, đều
không thể có được, và như vậy thì mâu thuẫn với chính tiểu thừa;
không có ý ô nhiễm thì đáng lẽ không phải lúc nào cũng có ngã chấp.
4. Tuệ giác sẽ sinh mà nó thường làm trở ngại, nó lại đi trong tất cả
tâm thức (24B) , nó đó là vô minh bất cọng.
Lược Giải.-
Trong 4 bài chỉnh cú này, quan trọng
là bài cuối cùng, nói về vô minh bất cọng và ngã chấp thường có: đó
là chứng cứ thấy rõ nhất về ý.
Chính Văn.-
Vì ý thì ô nhiễm, nên tính chất
của nó là hữu phú vô ký. Nó thường tương ưng với 4 phiền não. Như
phiền não ở cõi Sắc và Vô sắc thuộc về tính chất hữu phú vô ký,
vì phiền não 2 nơi này bị xa ma tha chế ngự, ý cũng vậy, lúc nào cũng
vi tế hằng hữu, nên nó là hữu phú vô ký (25) .
Lược Giải.-
Chúng sinh tu chứng được là vì ý
là vô ký.
Đoạn 2: Giải Thích
Về Tâm
Chính Văn.-
Tâm trong 3 thứ tâm ý thức, nếu
không có a lại da thì không có được. Do vậy mà xác lập a lại da là
tâm, do tâm làm chủng tử mà có ý và thức. Thế nhưng vì lý do gì mà a lại
da mệnh danh là tâm? Vì nó là nơi qui tụ của chủng tử các pháp huân tập.
Tại sao trong thanh văn thừa không nói tâm mệnh danh là a lại da và mệnh
danh là a đà na? Vì đó là lĩnh vực cực kỳ vi tế. Sự thể này như thế
nào? Vì tuệ giác của các vị thanh văn không nhắm vào toàn bộ đối cảnh,
nên đối với họ, tách rời a lại da đi nữa, tuệ giác vẫn thành tựu,
giải thoát vẫn thành tựu, nên Phật không cần nói cho họ về a lại da.
Còn các vị bồ tát thì tuệ giác quyết định phải nhắm vào toàn bộ đối
cảnh, nên Phật cần nói cho các vị ấy. Có nghĩa nếu tách rời tuệ
giác nhắm vào toàn bộ đối cảnh thì không dễ dàng chứng được cái
trí Nhất thế trí.
Mục 4: Các Danh Xưng
Khác Trong Tiểu Thừa
Chính Văn.-
Thật ra trong thanh văn thừa cũng đã
dùng cách nói khác và ý tứ kín mà nói về a lại da. Như trong Tăng nhất
a hàm nói chúng sinh yêu a lại da, thích a lại da, ưa a lại da, khoái a lại
da; để hủy diệt cái a lại da như vậy nên khi đức Như lai thuyết pháp
thì cung kính, tập trung thính giác, chuyên chú vào sự tìm hiểu, thuận
theo pháp và làm theo pháp; đức Như lai xuất thế nên cái pháp kỳ lạ hiếm
có (nhắm vào sự hủy diệt a lại da) như vậy xuất hiện thế gian. Trong
kinh Bốn thành quả Như lai xuất hiện của thanh văn thừa cũng đã dùng
cách nói khác và ý tứ kín mà nói về a lại da. A hàm của Đại chúng bộ
cũng đã dùng cách nói khác và ý tứ kín mà nói a lại da với cái tên căn
bản thức, tựa như gốc rễ làm chỗ dựa cho cái cây. Trong Hóa địa bộ
cũng đã dùng cách nói khác và ý tứ kín mà nói a lại da là cái uẩn
cùng tận sinh tử, có chỗ có lúc thấy sắc và tâm mất đi, nhưng không
phải chủng tử của chúng nơi a lại da đã mất (26) .
Lược Giải.-
Trong cái gọi là Phật giáo nguyên
thỉ thì có 2 kinh đã nói a lại da; trong cái gọi là Phật giáo bộ phái
thì có 2 bộ đã nói căn bản thức và cùng sinh tử uẩn.
Mục 5: Lời Kết
Chính Văn.-
Như vậy căn cứ của các pháp sở
tri được nói là a lại da thức, là a đà na thức, là tâm, là a lại da,
là căn bản thức, là cùng sinh tử uẩn. Do những cách nói khác nhau như vậy
mà a lại da thành ra như đại lộ của đại vương đi.
Tiết 2: Ngăn Chận
Sự Giải Thích Khác Đi
Chính Văn.-
Có người nói tâm ý thức, ý nghĩa
là một, chỉ danh từ khác nhau. Nói như vậy không đúng. Ý với thức đã
có thể thấy được ý nghĩa khác nhau, thì tâm cũng vậy, ý nghĩa phải khác.
Có người nói đức Thế tôn nói chúng sinh yêu a lại da, cho đến nói rộng
hơn, thì ở đây chính 5 uẩn là a lại da. Có người nói cái lạc thọ đi
đôi với tham, gọi là a lại da. Có người nói ngã kiến là a lại da. Các
vị này, do giáo lý và luận chứng, cho thấy họ ngu mê a lại da nên có những
kiến chấp như vậy. Cái lối giải thích a lại da như họ nói, đối với
đạo lý của thanh văn thừa cũng đã mâu thuẫn. Nếu không ngu mê a lại
da thì đã phải lấy thức a lại da đặt tên a lại da. Đặt tên như vậy
thì hơn hết. Hơn hết như thế nào? Nếu 5 uẩn là a lại da, thì sinh chỗ
thuần khổ trong các đường dữ, phải rất chán nghịch, chúng sinh tuyệt
đối không yêu thích, thường mong rời bỏ cho mau, vậy mà nói chấp tàng
thì không đúng đạo lý. Nếu nói cái lạc thọ đi đôi với tham là a lại
da, thì tứ thiền sắp lên đã không có lạc thọ ấy, lạc thọ ấy chúng
sinh tứ thiền thường chán nghịch, vậy mà nói chấp tàng thì không đúng
đạo lý. Nếu nói ngã kiến là a lại da, thì những người tin hiểu vô
ngã trong chánh pháp thường có sự chán nghịch, vậy mà nói chấp tàng
thì không đúng đạo lý. A lại da chính là tự ngã, nên dẫu sinh chỗ thuần
khổ trong đường dữ, thường mong bỏ được khổ uẩn, nhưng vẫn thường
có ngã ái, nên chưa hề có ý thức cầu bỏ. Dẫu sinh tứ thiền sắp
lên, thường chán nghịch cái lạc thọ đi đôi với tham, nhưng vẫn thường
có cái ngã ái a lại da theo dõi họ. Dẫu những người tin hiểu vô ngã
trong chánh pháp thường chán nghịch ngã kiến, nhưng vẫn thường có ngã
ái a lại da theo dõi họ. Do vậy, đem thức a lại da đặt tên a lại da
thì xác lập hơn hết.
Mục 1: Nói Về 3
Đặc Tính
Chính Văn.-
Như vậy là đã nói danh xưng khác
biệt của a lại da, còn đặc tính của a lại da thì thế nào? Qui định
đặc tính của a lại da thì đại khái có 3: một là đặc tính đặc hữu,
hai là đặc tính làm nhân, ba là đặc tính làm quả (27) . Đặc tính đặc
hữu của a lại da là, với khả năng thâu giữ chủng tử, a lại da có
cái đặc tính tiếp nhận các pháp tạp nhiễm (28) huân tập rồi làm nhân
sinh ra các pháp ấy. Đặc tính làm nhân là chính cái a lại da thâu giữ chủng
tử ấy lúc nào cũng làm nhân sinh ra các pháp tạp nhiễm. Đặc tính làm
quả là chính cái a lại da ấy tiếp nhận các pháp tạp nhiễm huân tập
mà vô thỉ đến giờ liên tục hiện hữu.
Lược Giải.-
Vạn hữu là hiện tượng của a lại
da, đó là đặc tính làm nhân của nó. A lại da qui tụ tiềm năng của vạn
hữu, đó là đặc tính làm quả của nó. Cả 2 đặc tính gồm lại là đặc
tính đặc hữu của nó: đặc tính đặc hữu của nó là thâu giữ chủng
tử, nghĩa là tiếp nhận huân tập (làm quả) và phát sinh các pháp (làm
nhân). Nói tóm, hiện tượng là hiện tượng của a lại da, tiềm năng là
tiềm năng của a lại da, a lại da có cái đặc tính làm chủ thể như vậy.
Mục 2: Nói Về Sự
Huân Tập
Chính Văn.-
Huân tập là thế nào? Huân tập
là năng thuyên, vậy sở thuyên là gì? Sở thuyên của từ ngữ huân tập
là cái này với cái kia cùng sinh cùng diệt (29) , rồi cái này thành ra có
cái kia, đó là sở thuyên của từ ngữ huân tập. Ví như mè ướp hoa, mè
với hoa cùng sinh cùng diệt, rồi mè thành ra có cái hơi thơm của hoa (30)
. Lại như nói hành giả tham lam, thì đó là tham lam huân tập, tâm của
hành giả với sự tham lam ấy cùng sinh cùng diệt, nên tâm của hành giả
có cái tham lam ấy. Hoặc nói người đa văn, thì có nghĩa người ấy do
đa văn huân tập, cùng sinh cùng diệt với tác ý của đa văn, nên tâm
hành giả có ký ức của đa văn, và vì thâu giữ cái đã được huân tập
mà gọi là người nắm chắc chánh pháp. Đạo lý huân tập nơi a lại da,
nên biết cũng là như vậy.
Lược Giải.-
Nhìn vào những ví dụ thì thấy tuồng
như huân tập là cái này không có cái kia, nhưng huân tập cái kia mà thành
ra có cái kia. Thật ra đạo lý huân tập muốn nói cái năng tính tiếp nhận
huân tập. Nếu mè không có cái năng tính tiếp nhận hơi thơm thì có ướp
hoa cũng không thơm được. Vậy cái năng tính thọ huân mới chính là yếu
tố thọ huân. Sự huân tập của a lại da là như vậy.
Mục 3: Nói A Lại
Da Với Chủng Tử Là Đồng Nhất Hay Biệt Lập
Chính Văn.-
Nơi a lại da, chủng tử của các
pháp tạp nhiễm là biệt lập hay đồng nhất? Nơi a lại da, không phải chủng
tử có thật và biệt lập, nhưng cũng không phải đồng nhất. A lại da phát
sinh, có nghĩa là những năng tính khác nhau phát sinh, nên có cái tên thức
chủng tử.
Lược Giải.-
Cái tay có khả năng viết chữ, khả
năng ấy không phải đồng nhất hay biệt lập với cái tay. Thế nhưng khả
năng ấy được huân tập mà có, rồi bị huân tập mà không, còn cái tay
không vì vậy mà có hay không theo. A lại da với chủng tử cũng là như vậy.
Mục 4: Nói A Lại
Da Với Các Pháp Làm Nhân Duyên Cho Nhau
Chính Văn.-
A lại da với các pháp tạp nhiễm
đồng thời mà làm nhân tố cho nhau, sự ấy làm sao thấy được? Ví như
đèn sáng, ngọn đèn với tim đèn đồng thời mà vẫn có sự hỗ tương.
Lại như một bó lau, dựa nhau giữ nhau mà đồng thời không ngã. Hãy quan
sát cái đạo lý hỗ tương ở đây cũng là như vậy: A lại da là nhân tố
cho các pháp tạp nhiễm, các pháp tạp nhiễm cũng là nhân tố cho a lại da
(31) , chỉ sự thể này mới lập ra cái nghĩa nhân duyên (32) , còn nhân
duyên nào khác nữa thì không thể có được.
Lược Giải.-
Khi nói nhân duyên mới thật nói
duy thức.
Mục 5: Nói A Lại
Da Là Nhân Của Các Pháp Đa Dạng
Chính Văn.-
Tại sao a lại da huân tập thì
không đa dạng, mà lại làm nhân cho các pháp đa dạng? Như tấm vải được
nhuộm, khi nhuộm thì chưa có đa dạng, nhuộm rồi thì nơi tấm vải có những
màu sắc và đường nét đa dạng. A lại da cũng vậy. Nó được sự huân
tập bởi các pháp đa dạng, nhưng khi huân tập thì chưa có đa dạng, huân
tập rồi thì các pháp đa dạng hiện hành.
Lược Giải.-
Như cái tay tuy luyện tập mọi khả
năng mà vẫn không thấy đa dạng, nhưng lúc thi thố khả năng ấy thì thấy
rất đa dạng. A lại da cũng vậy, huân tập chủng tử thì không thấy đa
dạng, nhưng chủng tử hiện hành thì thấy rất đa dạng.
Đoạn 1: Nói Về 2
Loại Duyên Khởi
Chính Văn.-
Sự duyên khởi như đã nói trên đây,
thì trong đại thừa cũng đã rất sâu xa. Thêm nữa, nói đại khái thì
duyên khởi có 2 loại. Một là duyên khởi ra tự tánh khác nhau, hai là
duyên khởi ra tự thể khác nhau (33) . Ở đây do a lại da mà các pháp sinh
ra, đó là duyên khởi ra tự tánh khác nhau, vì làm duyên tố cho những tự
tánh khác nhau. Lại có sự duyên khởi của 12 chi, đó là duyên khởi ra tự
thể khác nhau, vì làm duyên tố cho những tự thể tốt xấu khác nhau.
Lược Giải.-
Cả 2 sự duyên khởi đều là do a
lại da. Duyên khởi thứ nhất do danh ngôn huân tập, duyên khởi thứ hai do
hữu chi huân tập. Duyên khởi thứ nhất là chất liệu, duyên khởi thứ
hai là tổ hợp. Nhân sinh vũ trụ do duyên khởi thứ nhất mà thành các
pháp biệt thể khác nhau, do duyên khởi thứ hai mà các pháp biệt thể ấy
thành ra quả báo tổng thể khác nhau.
Chính Văn.-
Nơi a lại da, nếu ngu mê sự duyên
khởi thứ nhất thì có kẻ cho tự tánh là nguyên nhân, có kẻ cho túc tác
là nguyên nhân, có kẻ cho tự tại là nguyên nhân, có kẻ cho thật ngã là
nguyên nhân, có kẻ cho không có nguyên nhân (33B) . Nếu ngu mê sự duyên khởi
thứ hai thì có kẻ cho thật ngã là tác giả, có kẻ cho thật ngã là thọ
giả (34) . Ví như những kẻ đui mù bẩm sinh, chưa thấy con voi bao giờ, có
người đem con voi bảo họ rờ. Những kẻ đui mù ấy người rờ nhằm vòi
voi, người rờ nhằm ngà voi, người rờ nhằm tai voi, người rờ nhằm chân
voi, người rờ nhằm đuôi voi, người rờ nhằm u lưng voi. Ai hỏi họ voi
là gì, thì người nói như cán cày, người nói như cái chày, người nói
như cái ky, người nói như cái cối, người nói như cái chổi, người nói
như núi đá. Cái vô minh đui mù, không biết 2 loại duyên khởi thì cũng
tương tự như vậy: có người chấp tự tánh làm nguyên nhân, có người
chấp túc tác là nguyên nhân, có người chấp tự tại làm nguyên nhân, có
người chấp thật ngã làm nguyên nhân, có người chấp không có nguyên
nhân, có người chấp thật ngã là tác giả, có người chấp thật ngã là
thọ giả, trong khi a lại da với đặc tính đặc hữu, đặc tính làm nhân
và đặc tính làm quả, thì như con voi mà họ không biết đến.
Lược Giải.-
Đây là ví dụ mà thường nói là
người mù rờ voi.
Chính Văn.-
Nếu nói tổng quát, thì a lại da
là dị thục thức, là chủng tử thức, nên bao quát tất cả tự thể (và
tự tánh) (35) trong 3 cõi, mọi đường lành dữ.
Lược Giải.-
A lại da hiện hành tự tánh thì gọi
là chủng tử thức. A lại da hiện hành tự thể thì gọi là dị thục thức.
Đoạn 2: Nói Về
Chủng Tử
Chính Văn.-
Ở đây có 5 bài chỉnh cú: 1. và
2. Chủng tử có loại ở ngoài và loại ở trong (36) , cả 2 loại (đều là
tính chất vô ký), không phải rõ ràng thiện hay ác. Chủng tử ở ngoài
là nói theo cái biết thông thường, chủng tử ở trong mới nói theo cái
nghĩa thù thắng. Cả 2 loại chủng tử đều có 6 đặc tính: một là sát
na diệt, hai là quả câu hữu, ba là hằng tùy chuyển, bốn là tánh quyết
định, năm là đãi chúng duyên, sáu là dẫn tự quả. 3. Kiên trụ, vô ký,
khả huân, tương ưng với năng huân: sở huân không thể khác 4 đặc tính
này, và đó là sắc thái huân tập (37) . 4. Sáu thức không có đặc tính tương
ưng với năng huân, vì có 3 sự sai biệt nên mâu thuẫn với nghĩa sở huân:
2 giai đoạn trước với sau (dầu đồng loại mà) không phải câu hữu,
nên cũng như bao thứ đồng loại khác, thành ra sai lầm (38) . 5. Chủng tử
ở ngoài và chủng tử ở trong đều có đặc tính năng sinh và đặc tính
năng dẫn, nên biết như vậy. Nên cây khô với thân chết do đặc tính năng
dẫn mà vẫn còn một thì gian sau mới tiêu diệt (39) .
Lược Giải.-
Cách nói về chủng tử và sở
huân như ở đây, là cốt chứng minh chỉ có chủng tử nơi a lại da mới
thật là chủng tử, chỉ có a lại da mới thật là chủ thể sở huân.
Chính Văn.-
Để biểu thị chủng tử ở trong
không phải như chủng tử ở ngoài, nên nói thêm 2 bài tụng: 1 và 2. Chủng
tử ở ngoài (hoặc có huân tập) hoặc không huân tập, không phải như chủng
tử ở trong quyết định phải có huân tập. Phải biết như vậy. Nếu sự
huân tập đa văn không có, mà có kết quả của sự đa văn thì phi lý; lại
làm thì mất, không làm mà được, mâu thuẫn như vậy nên sai lầm (40) .
Chủng tử ở ngoài do chủng tử ở trong làm nhân duyên, vì do a lại da tiếp
nhận huân tập (41) .
Lược Giải.-
Sự khác nhau giữa chủng tử trong
và chủng tử ngoài cho thấy chỉ chủng tử sinh hiện hành và hiện hành
sinh chủng tử mới là nhân duyên, do a lại da làm chủ thể. Cái nghĩa duy
thức là ở đấy. Chủng tử sinh hiện hành (kể cả hiện hành tâm và vật),
nếu có cái khái niệm vạn hữu do nguyên tử chuyển động mà hình thành,
thì có thể có khái niệm ấy.
Đoạn 3: Qui Nạp
Theo 2 Thức Và 4 Duyên
Chính Văn.-
Ngoài a lại da, những chuyển thức
khác, đối với tất cả tự thể trong các nẻo đường sinh tử, nên biết
gọi là cái thức thọ dụng. Như trong luận Trung biên phân biệt có bài chỉnh
cú, nói cái thứ nhất gọi là thức nhân duyên, cái thứ hai gọi là thức
thọ dụng. Sự thọ dụng, sự phân biệt và sự suy động là những tâm sở
thuộc về thức thọ dụng (42) . Hai thức như trên lại làm nhân duyên cho
nhau, như bài chỉnh cú trong kinh Đại thừa a tì đạt ma đã nói: Các pháp
đối với tàng thức thế nào thì tàng thức đối với các pháp cũng vậy,
làm quả cho nhau mà cũng làm nhân cho nhau (43) .
Lược Giải.-
Sự qui nạp 2 thức nhân duyên và
thọ dụng cũng cốt nói a lại da làm chủ thể nhân duyên: hiện sinh chủng
hay chủng sinh hiện, đều là a lại da và các chuyển thức của nó.
Chính Văn.-
Trong sự duyên khởi thứ nhất thì
2 thức như vậy làm nhân duyên cho nhau, còn trong sự duyên khởi thứ hai
thì là duyên gì, là tăng thượng duyên. Và như vậy thì 6 thức do mấy
duyên nữa sinh ra, do tăng thượng duyên, sở duyên duyên, đẳng vô gián
duyên (44) . Còn 3 sự duyên khởi, một là cùng tận sinh tử, hai là đường
lành đường dữ, ba là khả năng thọ dụng, thì đủ cả 4 duyên (45) .
Lược Giải.-
Sự qui nạp 2 thức (và 3 duyên khởi)
với 4 duyên cũng cốt nói a lại da là nhân duyên, ngoài ra tất cả đều là
các duyên khác chứ không phải nhân duyên, mà nhân duyên mới là duy thức.
Mục 1: Nói Tổng
Quát
Chính Văn.-
Như vậy là đã xác lập danh xưng
và đặc tính của a lại da, nhưng làm sao biết được danh xưng và đặc tính
như vậy quyết định chỉ chỉ cho a lại da chứ không phải chỉ cho chuyển
thức? Bởi vì nếu phi cái a lại da đã được xác lập thì tạp nhiễm
và thanh tịnh đều bất thành: phiền não tạp nhiễm, nghiệp tạp nhiễm
và sinh tạp nhiễm đã bất thành, mà thanh tịnh của thế gian và thanh tịnh
của xuất thế cũng bất thành.
Đoạn 1: Nói Chuyển
Thức Huân Tập Phiền Não Bất Thành
Chính Văn.-
Tại sao phiền não tạp nhiễm bất
thành? Vì phiền não và tùy phiền não huân tập thành chủng tử, sự đó
nếu nói ở nơi 6 thức thì không hợp lý. Tại sao, vì nếu nói nhãn thức
với phiền não và tùy phiền não cùng sinh cùng diệt, nhãn thức được
phiền não và tùy phiền não huân tập thành ra chủng tử, chứ không phải
cái nào khác, thì chính nhãn thức ấy nếu diệt mất, thức khác xen vào,
như vậy thì sự huân tập, và chỗ dựa của sự huân tập, đều không thể
có được - Có nghĩa nhãn thức diệt mất, thức khác xen vào, hiện không
còn thực thể, vậy nói nhãn thức với phiền não cùng sinh thì không hợp
lý, vì nhãn thức đã quá khứ, hiện không còn thực thể, tựa như cái
nghiệp đã quá khứ, hiện không còn thực thể gì nữa, mà nói nó sinh ra
quả báo, thì không hợp lý. Giả sử cho nhãn thức với phiền não cùng
sinh mà có sự huân tập thì cũng bất thành: sự huân tập ấy không thể
ở nơi phiền não, vì phiền não là năng y, không kiên trụ; cũng không thể
nói ở nơi thức khác, vì thức khác thì cái căn sở y riêng biệt, lại
không quyết định cùng sinh cùng diệt; cũng không thể nói ở ngay nơi bản
thân nhãn thức, vì bản thân thì quyết định không có sự cùng sinh cùng
diệt. Do vậy, nói nhãn thức với phiền não có sự huân tập thì không hợp
lý, mà nhãn thức ấy cũng không thể do thức khác huân tập. Nói nhãn thức
như vậy thì các chuyển thức khác cũng vậy, nên nhận thức một cách
thích đáng.
Đoạn 2: Nói Ly Dục
Thoái Xuống Phiền Não Bất Thành
Chính Văn.-
Từ những chỗ ở trên, như trời
Vô tưởng v/v, chết rồi sinh xuống ở đây, thì bấy giờ phiền não và
tùy phiền não làm tạp nhiễm cái thức đầu tiên, cái thức ấy khi phát
sinh lẽ đáng không có chủng tử, vì chỗ dựa và sự huân tập đều đã
quá khứ, hiện không còn thực thể gì.
Đoạn 3: Nói Thức
Đối Trị Sinh Phiền Não Bất Thành
Chính Văn.-
Cái thức đối trị phiền não sinh
ra, thì mọi cái thức thế gian đều diệt mất, bấy giờ nếu tách rời a
lại da, nói chủng tử phiền não và tùy phiền não ở nơi cái thức đối
trị thì không hợp lý, vì thức đối trị tính nó là giải thoát, không
cùng sinh cùng diệt với phiền não và tùy phiền não. Sau cái thức đối
trị, cái thức thế gian sinh ra lại, bấy giờ nếu tách rời a lại da thì
mọi sự huân tập và chỗ dựa của sự huân tập đều đã quá khứ, hiện
không còn thực thể gì, vậy cái thức thế gian sinh ra lại đó đáng lẽ
không có chủng tử mà được phát sinh. Do vậy, nếu không có a lại da
thì phiền não tạp nhiễm mọi trường hợp đều bất thành.
Mục 3: Nói Nghiệp
Tạp Nhiễm Phi A Lại Da Thì Bất Thành
Chính Văn.-
Tại sao nghiệp tạp nhiễm bất thành?
Vì hành làm duyên tố cho thức là không thích đáng, nếu không có a lại
da; nếu không có a lại da thì thủ làm duyên tố cho hữu cũng không thích
đáng.
Lược Giải.-
Hành với thủ đều là nghiệp mà
một thuộc quá khứ, một thuộc hiện tại. Hành duyên thức, hành là nghiệp,
thức là a lại da, thế thì nghiệp thành tựu; không có a lại da thì thức
đó là thức nào cũng không hợp lý. Thủ duyên hữu cũng vậy.
Số 1: Nói Kiết
Sinh Liên Tục Bất Thành
Chính Văn.-
Tại sao sinh tạp nhiễm bất thành?
Vì sự kiết sinh liên tục không được thích đáng. Có ai chết rồi sinh
ra ở cõi Dục này, thì được giải thích rằng giai đoạn trung hữu có
cái ý thức ô nhiễm kiết sinh liên tục; cái ý thức ô nhiễm ấy diệt mất
ở giai đoạn trung hữu, nhưng trong thai mẹ thành ra cái thức hóa hợp với
tinh huyết. Như vậy có nghĩa chính ý thức hóa hợp với tinh huyết, hóa hợp
rồi do ý thức ấy mà trong thai mẹ có cái ý thức khác chuyển sinh, nếu
thế thì đáng lẽ phải có 2 cái ý thức cùng lúc chuyển sinh trong thai mẹ.
Nếu chính cái thức hóa hợp với tinh huyết là ý thức, thì không hợp
lý, vì cái thức hóa hợp ấy là ô nhiễm, là bất đoạn, là không có đối
cảnh (46) . Giả thiết cái thức hóa hợp là chính ý thức, thì cái thức
hóa hợp ấy là thức chủng tử ? hay cái ý thức do cái thức ấy sinh ra mới
là thức chủng tử? Nếu cái thức hóa hợp là thức chủng tử, thì thế
chính là a lại da mà các người lấy tên khác gọi là ý thức. Nếu cái
ý thức do thức hóa hợp sinh ra mới là thức chủng tử, thế thì cái thức
làm chỗ dựa, cái thức làm nhân lại không phải là thức chủng tử, còn
cái thức dựa vào nó, cái thức làm quả lại là thức chủng tử: như thế
thật không hợp lý. Do vậy, hãy xác định cái thức hóa hợp không phải
là ý thức, mà là thức dị thục, thức chủng tử.
Số 2: Nói Chấp Thọ
Căn Thân Bất Thành
Chính Văn.-
Kiết sinh liên tục rồi, nếu
không có thức dị thục thì sự chấp thọ sắc căn không thể có được.
Ngoài thức dị thục, những thức khác đều có cái căn sở y khác nhau, đều
không kiên trụ, mà các sắc căn thì không thể tách rời với thức.
Số 3: Nói Thức Với
Danh Sắc Dựa Nhau Bất Thành
Chính Văn.-
Nếu tách rời thức dị thục, thì
thức với danh sắc nương tựa vào nhau, y như bó lau tựa nhau mà đứng, sự
đó cũng bất thành.
Số 4: Nói Thức Thực
Bất Thành
Chính Văn.-
Nếu tách rời thức dị thục, thì
hữu tình sinh ra rồi, sự thức thực (47) bất thành. Tại sao, vì trong 6 thức,
lấy ra thức nào cũng không thể làm thức thực cho hữu tình đã sinh ra
trong 3 cõi.
Số 1: Nói Chủng Tử
Của Tâm Kiết Sinh Bất Thành
Chính Văn.-
Nếu chết ở cõi Dục này, chính
lúc thọ sinh ở cõi Sắc và cõi Vô sắc, thì đó là cái ý thức ô nhiễm
của cõi Dục liên tục kiết sinh. Cái ý thức ô nhiễm này lệ thuộc cõi
Sắc và cõi Vô sắc, vậy nếu nó không phải là thức dị thục, thì bất
cứ cái gì làm chủng tử cũng không thể có được.
Số 2: Nói Chủng Tử
Của Thiện Tâm Ô Nhiễm Bất Thành
Chính Văn.-
Sinh cõi Vô sắc, nếu tách rời thức
chủng tử dị thục, thì cái thiện tâm ô nhiễm ở cõi ấy đáng lẽ
không có chủng tử, nó không có chỗ dựa để được duy trì.
Số 3: Nói Dị Thục
Của Tâm Xuất Thế Bất Thành
Chính Văn.-
Chính nơi cõi Vô sắc, nếu cái
tâm xuất thế hiện tiền thì cái tâm thế gian mất hết, bấy giờ đáng
lẽ rời mất cõi Vô sắc ấy. Nếu sinh chỗ Phi tưởng phi phi tưởng mà
cái tâm xuất thế của chỗ Vô sở hữu hiện tiền, thì khi đó cả 2 chỗ
ấy đáng lẽ rời mất hết. Bởi vì cái tâm xuất thế kia không lấy chỗ
Phi tưởng phi phi tưởng làm chỗ dựa, không lấy chỗ Vô sở hữu làm chỗ
dựa, cũng chưa phải lấy Niết bàn làm chỗ dựa, (mà chỉ có thể dựa
vào thức dị thục).
Đoạn 2: Nói Khi Chết
Chính Văn.-
Lại nữa, khi chết thì tùy điều
thiện hay điều ác đã làm mà cái thân sở y, hoặc bắt đầu từ dưới
trở lên, hoặc bắt đầu từ trên sắp xuống, dần dần phát lạnh. Nếu
không tin có a lại da thì sự thể như vậy không thể có được. Do vậy,
nếu tách rời thức chủng tử dị thục (48) thì sinh tạp nhiễm cũng bất
thành.
Mục 5: Nói Thanh Tịnh
Của Thế Gian Phi A Lại Da Thì Bất Thành
Chính Văn.-
Tại sao sự thanh tịnh của thế
gian bất thành? Người nào có cái tham lệ thuộc cõi Dục mà chưa có cái
tâm lệ thuộc cõi Sắc, thì đem chính cái thiện tâm lệ thuộc cõi Dục
(49) làm cái tâm ham muốn ly dục mà siêng năng tu tập. Cái tâm tu tập lệ
thuộc cõi Dục này cùng với cái tâm lệ thuộc cõi Sắc không cùng sinh
cùng diệt, nên cái tâm lệ thuộc cõi Sắc không phải được huân tập bởi
cái tâm tu tập lệ thuộc cõi Dục, vậy nói nó làm chủng tử cho cái tâm
lệ thuộc cõi Sắc thì không hợp lý. Lại nữa, cái tâm lệ thuôểc cõi
Sắc nhiều đời quá khứ, bị những tâm khác xen cách, không thích đáng
làm chủng tử cho cái định tâm ngày nay của cõi Sắc, bởi vì nó đã
không còn có nữa. Vì vậy, hãy xác định rằng cái định tâm lệ thuộc
cõi Sắc là do thức chủng tử dị thục triển chuyển truyền lại, làm
nhân duyên ngày nay cho nó, còn cái thiện tâm tu tập thì làm tăng thượng
duyên. Phải nhận thức thích đáng như vậy đối với tất cả các chỗ
ly dục. Và như vậy, nếu tách rời thức chủng tử dị thục, thì sự
thanh tịnh của thế gian theo lẽ bất thành.
Thứ 1: Nói Sự Văn
Huân Tập Phi A Lại Da Thì Bất Thành
Chính Văn.-
Tại sao sự thanh tịnh của xuất
thế bất thành? Như đức Thế tôn dạy, rằng do lời tiếng của Ngài mà
trong tâm người nghe có cái tác ý đúng lý, cái tác ý này làm nhân cho
chánh kiến được sinh ra. Hãy xét coi cái tác ý đúng lý do lời tiếng của
Phật mà có ra đó, nó huân tập nhĩ thức? huân tập ý thức? hay huân tập
cả hai? Khi tư duy đúng lý đối với chánh pháp được nghe, thì nhĩ thức
không còn phát sinh; ngay ý thức cũng bị các thức tán loạn khác xen cách,
khi cái tác ý đúng lý phát sinh, thì cái ý thức được sự nghe huân tập,
cùng với sự huân tập ấy, đã quá khứ cả rồi, quyết định không còn
thực thể gì nữa, làm sao còn làm chủng tử để sinh ra cái tâm thích ứng
với cái tác ý đúng lý sau này? Lại nữa, cái thích ứng với tác ý đúng
lý là tâm thế gian, cái thích ứng với chánh kiến là tâm xuất thế, hai
cái chưa hề cùng sinh cùng diệt, nên cái tâm này không phải cái tâm kia
huân tập, không huân tập mà nói nó làm chủng tử cho cái tâm này thì
không hợp lý. Do vậy, nếu tách rời thức chủng tử dị thục thì sự
thanh tịnh xuất thế cũng không thể thành tựu, vì văn huân tập thâu giữ
chủng tử của chánh kiến là điều không thích đáng.
Số 1: Nói Về
Nhân
Chính Văn.-
Tại sao thức chủng tử dị thục
là cái nhân tạp nhiễm mà lại làm chủng tử cho cái tâm xuất thế thanh
tịnh đối trị lại chính cái nhân tạp nhiễm? Cái tâm xuất thế xưa
chưa hề được huân tập, huân tập không có; huân tập không có thì chủng
tử do đâu sinh ra? Do vậy, nên giải đáp rằng do cái chủng tử được huân
tập bởi sự chánh văn đẳng lưu (50) từ pháp giới tối thanh tịnh.
Lược Giải.-
Đoạn này có vẻ không phải tư
tưởng chánh văn là xuất từ chủng tử vô lậu vốn có của a lại da. Nếu
lấy tư tưởng chỗ khác, như Khởi tín luận, mà giải thích đoạn này,
thì a lại da là pháp giới tối thanh tịnh đang bị che lấp nơi chúng sinh,
nhưng từ pháp giới tối thanh tịnh đã được hiển lộ nơi chư Phật mà
huân tập cho sự chánh văn rồi dẫn ra chánh kiến. Tựa như cái tay của
ta đang chỉ xuống được cái tay đã chỉ lên của người khác đỡ cho chỉ
lên. Điều này được gọi là cái dụng huân tập của chân như.
Số 2: Nói Về Sở
Y
Chính Văn.-
Chánh văn huân tập như vậy là tự
tánh a lại da, hay không phải là tự tánh a lại da ? Nếu là tự tánh a lại
da, thì sao lại là chủng tử đối trị a lại da? Nếu không phải là tự
tánh a lại da, thì cái chỗ dựa của chủng tử chánh văn huân tập làm
sao tìm thấy? Cho đến ngày chứng được tuệ giác bồ đề của chư Phật,
chánh văn huân tập này tùy chuyển nơi một chỗ sở y, ấy là ký thác nơi
thức dị thục, cùng với thức ấy hóa hợp tùy chuyển, tựa như sữa với
nước, nhưng nó vẫn không phải là a lại da, bởi vì nó là chủng tử đối
trị a lại da.
Số 3: Nói Về Phẩm
Loại
Chính Văn.-
Chánh văn huân tập này do huân tập
bậc thấp thành huân tập bậc vừa, do huân tập bậc vừa thành huân tập
bậc cao, vì nó do nghe, nghĩ và tu đa phần tu tập mà được như vậy.
Số 4: Nói Về Thể
Tánh Và Tác Dụng
Chính Văn.-
Chủng tử chánh văn huân tập bậc
thấp, bậc vừa và bậc cao này, nên biết nó cũng là chủng tử của pháp
thân, trái ngược với a lại da, không phải thâu tàng nơi a lại da, bởi vì
nó là sự đẳng lưu của pháp giới xuất thế tối thanh tịnh, tuy đang còn
là thế gian mà đã là chủng tử của tâm xuất thế (51) . Cái tâm xuất
thế này lúc chưa phát sinh mà đã có khả năng đối trị mọi phiền não,
đã có khả năng đối trị mọi nẻo đường ác, đã có khả năng đối
trị những ác nghiệp xốp mục, đã có khả năng tùy thuận, gặp gỡ và
phụng sự đối với chư vị Phật đà, chư vị Bồ tát. Tuy còn là thế
gian, mà phần bồ tát sơ nghiệp có được thuộc về giải thoát thân và
pháp thân, còn phần thanh văn duyên giác có được chỉ thuộc về giải
thoát thân.
Như vậy chánh văn huân tập không
phải là a lại da, mà thuộc về pháp thân và giải thoát thân, và nó huân
tập tuần tự tăng lên từ bậc thấp đến bậc vừa bậc cao như thế nào,
thì cũng như thế ấy thức dị thục tuần tự giảm bớt, nghĩa là chuyển
biến cái sở y đi. Sở y của chủng tử chuyển biến thì thức dị thục
và thức chủng tử chuyển sinh một cách không còn chủng tử của nó, chủng
tử của nó vĩnh diệt.
Lại nữa, như sữa với nước là
thế nào? Chánh văn huân tập không phải a lại da vẫn cùng a lại da đồng
chuyển, nhưng chủng tử a lại da diệt hết mà chủng tử không phải a lại
da tăng lên, sự thế này ví như con ngỗng uống sữa trong nước (52) , lại
như thế gian khi được ly dục, thì sự huân tập cõi Dục giảm dần và sự
huân tập cõi Sắc cõi Vô sắc tăng dần mà được chuyển đổi sở y.
Thứ 1: Nói Cái Thực
Diệt Định Phi A Lại Da Thì Bất Thành
Chính Văn.-
Nhập diệt định (53) thì thức vẫn
không rời thân, Phật đã dạy như vậy. Ở đây thức dị thục mới
thích đáng không rời thân, vì không do đối trị thức ấy mà có diệt định.
Cũng không phải xuất diệt định thì ý thức sinh lại, bởi vì ngay như
thức dị thục mà gián đoạn rồi, có nghĩa tách rời kiết sinh liên tục
rồi, thì cũng không có sự sinh lại. Nếu ai chấp rằng vì có ý thức
nên nói diệt định có tâm, thì cái tâm ấy bất thành, vì (có ý thức
thì) diệt định đáng lẽ không thành; vì đối cảnh và cái biết đối cảnh
thì diệt định không có, (mà ý thức thì có rất rõ); vì (nếu có ý thức
thì) đáng lẽ phải có cái lỗi thích ứng với tâm sở thiện, còn ác với
vô ký thì không hợp lý rồi ; vì (nếu có ý thức thì) đáng lẽ có cái
lỗi là 2 tâm sở thọ và tưởng đều hiện hành, (không thể gọi là diệt
thọ tưởng định); vì (nếu có ý thức thì) đáng lẽ có cả tâm sở
xúc, trong định đáng lẽ có cái khả năng ấy; vì (nếu có ý thức thì)
đáng lẽ có cái lỗi chỉ diệt tâm sở tưởng mà thôi, (không được gọi
là diệt thọ tưởng định); lại đáng lẽ có cả cái lỗi tư tâm sở,
tín tâm sở, v/v, hiện hành; nếu nói bạt nhổ cái năng y (là tâm sở)
tách rời cái sở y (là ý thức, và cái sở y vẫn còn) thì không hợp lý;
vì có sự ví dụ (ví như vô tưởng định, cái tưởng năng y bị diệt thì
cái ý thức sở y cũng không còn); vì, (nếu nói ví như ở tứ thiền, hơi
thở năng y không còn mà cái thân sở y vẫn còn, thì không đúng, bởi hơi
thở) không biến hành, còn thọ và tưởng (là biến hành), không có sự
không biến hành. Lại nữa, nói trong diệt định do có ý thức nên nói có
tâm, thì tâm ấy dầu thiện, dầu ác, dầu vô ký, đều bất thành cả,
nên không hợp lý.
Thứ 2: Nói Sắc Với
Tâm Vô Gián Phát Sinh Làm Chủng Tử Cũng Bất Thành
Chính Văn.-
Nếu chấp sắc với tâm phát sinh
không gián đoạn, đó là chủng tử của các pháp, thì điều này bất
thành, như trước đã nói (54) . Thêm nữa, từ các cõi trời Vô sắc và
Vô tưởng chết rồi, (sinh ở cõi Dục, có sắc và có tưởng sinh ra, sắc
với tưởng ấy lấy gì làm chủng tử); từ diệt tận định và từ vô tưởng
định xuất rồi (lấy gì làm chủng tử cho thọ và tưởng sinh ra), nên
cái chấp nói trên không hợp lý. Thêm nữa, (nếu nói tâm trước làm chủng
tử sinh ra tâm sau, thì) cái tâm tối hậu của các vị La hán không thể
có được, (làm sao nhập niết bàn hoàn toàn). Do vậy, (sắc tâm vô gián
sinh ra sắc tâm thì) chỉ có thể nói là đẳng vô gián duyên, (không thể
nói làm chủng tử, nghĩa là làm nhân duyên).
Mục 7: Kết Luận
Xác Lập A Lại Da
Chính Văn.-
Như vậy, nếu tách rời thức chủng
tử dị thục thì tạp nhiễm và thanh tịnh đều bất thành tất cả, do đó
mà xác lập a lại da, với 3 đặc tính đã nói, quyết định thực hữu.
Mục 8: Nói Riêng
Chuyển Y Phi A Lại Da Thì Bất Thành
Chính Văn.-
Ở đây có 3 bài chỉnh cú. 1. Trong
tịnh tâm, bồ tát rời xa 5 thức, không còn thừa lại ý thức ác và vô
ký, vậy cái tâm tạp nhiễm phải chuyển y, các người làm sao cho có (nếu
không công nhận có a lại da)? 2. Nếu nói sự đối trị là chuyển y, thì
vì sự đối trị ấy chưa phải vĩnh đoạn chủng tử tạp nhiễm, nên sự
chuyển y bất thành. Thêm nữa, (cho sự đối trị là chuyển y thì như thế
là) nhân với quả không khác nhau, đối với sự vĩnh đoạn thành ra sai lầm.
3. (Nếu không công nhận a lại da, thế là) không có chủng tử và không
có thức thể, mà cho là chuyển y, thì vì không có 2 thứ chủng tử và thức
thể : không có thì nói chuyển y là phi lý.
Lược Giải.-
Chuyển y nghĩa là chuyển bỏ cái
chỗ dựa. Như vậy chuyển y là chuyển a lại da. Trước quả vị Phật,
chuyển y chỉ phân đoạn tạp nhiễm, đến quả vị Phật, chuyển y mới
vĩnh đoạn tạp nhiễm.
Mục 1: Tổng Quát
Nêu Lên
Chính Văn.-
Lại nữa, sự sai biệt của a lại
da là thế nào? Nói tổng quát thì nên biết a lại da hoặc có 3 sự sai biệt,
hoặc có 4 sự sai biệt.
Lược Giải.-
Nói các dạng của a lại da là chủ
ý nói nhân sinh vũ trụ đa dạng thì chủng tử cũng đa dạng.
Mục 2: Nói 3 Sự Sai Biệt
Chính Văn.-
Ở đây, 3 sự sai biệt là 3 sự
huân tập sai biệt: một là danh ngôn huân tập sai biệt (55) , hai là ngã kiến
huân tập sai biệt (56) , ba là hữu chi huân tập sai biệt (57) .
Lược Giải.-
Do 3 sự sai biệt trên đây mà thấy
a lại da vừa là chất liệu, vừa là tổ hợp, đối với nhân sinh vũ trụ.
Đoạn 1: Tổng Quát
Nêu Lên
Chính Văn.-
Ở đây, 4 sự sai biệt, một là dẫn
phát sai biệt, hai là dị thục sai biệt, ba là duyên tướng sai biệt, bốn
là tướng mạo sai biệt.
Đoạn 2: Nói Dẫn Phát Sai Biệt, Dị
Thục Sai Biệt Và Duyên Tướng Sai Biệt
Chính Văn.-
Dẫn phát sai biệt là sự huân tập
mới có. Sự này không có thì hành làm duyên tố cho thức và thủ làm
duyên tố cho hữu, đáng lẽ không thể thành được. Dị thục sai biệt là
do hành và hữu làm duyên tố mà có thức dị thục sai biệt trong mọi nẻo
đường sinh tử. Sự này không có thì không có chủng tử, các pháp về
sau mà phát sinh là điều đáng lẽ không thể thành được. Duyên tướng
sai biệt là cái tướng ngã chấp nơi ý. Sự này không có thì cái ngã chấp
nơi ý ô nhiễm đáng lẽ không thể thành được.
Lược Giải.-
Dẫn phát là cái dạng a lại da do
nghiệp lực mới huân tập. Dị thục, xưa dịch là báo, là cái dạng a lại
da do nghiệp lực huân tập mà thành quả báo. Duyên tướng là cái dạng a
lại da là đối tượng tự ngã của ý.
Thứ 1: Tổng Quát
Nêu Lên
Chính Văn.-
Tướng mạo sai biệt là a lại da
có tướng chung với tướng riêng, có tướng chủng tử không cảm giác với
tướng chủng tử có cảm giác, v/v.
Thứ 2: Nói Các Dạng
Chung Với Riêng Và Không Cảm Giác Với Có Cảm Giác
Chính Văn.-
Tướng chung là chủng tử của thế
giới ở ngoài, tướng riêng là chủng tử của tự thể riêng biệt (58) .
Tướng chung là chủng tử không sinh cảm giác, tướng riêng là chủng tử
có sinh cảm giác. Khi sự đối trị sinh ra, thì chỉ tướng riêng bị diệt,
còn tướng chung thì do người khác duy trì, và mình chỉ thấy trong sạch.
Sự thể này như các hành giả Du dà đối với một vật mà có những cái
biết và cái thấy khác nhau, thành tựu tất cả. Ở đây có 2 bài chỉnh
cú: 1 và 2. Khó vĩnh đoạn và khó biến tri, nên biết chính là cái gọi
là cọng kiết (59). Tâm trí hành giả Du dà bất đồng, nên cái thế giới
rộng lớn ở ngoài, đối với người trong sạch, dầu không diệt mất mà
thấy là trong sạch. Lại như cõi Phật trong sạch là do Phật thấy trong sạch.
Lại có bài chỉnh cú riêng biệt nữa, làm luận cứ cho những cái biết
và cái thấy bất đồng nói trên cùng được xác lập: Các hành giả Du
dà đối với một vật mà những cái biết và cái thấy không đồng nhất
vẫn được xác lập, nên biết sở thủ là duy thức. Sự này không có
thì thế giới sai biệt và chúng sinh sai biệt đáng lẽ không thể thành
được.
Lược Giải.-
Tướng mạo sai biệt là a lại da
có nhiều dạng nữa. Trước hết là cái dạng thế giới khác nhau và tự
thể khác nhau, 1 bên là không cảm giác, đối trị sinh ra thì không mất nhưng
thấy trong sạch, 1 bên là có cảm giác, đối trị sinh ra thì mất.
Thứ 3: Nói Các Dạng
Nặng Với Nhẹ
Chính Văn.-
Có tướng nặng và tướng nhẹ.
Tướng nặng là chủng tử của phiền não và tùy phiền não; tướng nhẹ
là chủng tử của thiện pháp hữu lậu. Sự này không có thì cái sở y của
dị thục không kham năng với có kham năng khác nhau không thể thành được.
Lược Giải.-
Có kham năng làm lành và xuất thế
là nhẹ nhàng, trái lại là nặng nề. Sở y của dị thục là bản thân ta
đây; bản thân ấy có hay không kham năng thì biết a lại da có cái dạng
nhẹ nhàng hay nặng nề.
Thứ 4: Nói Các Dạng
Hết Với Còn
Chính Văn.-
Có tướng hết với còn. Tướng hết
là chủng tử thiện ác đã thành quả báo dị thục; tướng còn là chủng
tử danh ngôn huân tập, loại chủng tử vô thỉ đến giờ vẫn lưu chuyển.
Sự này không có thì 2 nghiệp thiện ác có quả báo rồi là hết, đáng lẽ
không thành; thêm nữa, phần danh ngôn mới huân tập đáng lẽ không thành.
Lược Giải.-
Cái dạng hết là chủng tử của
nghiệp, hết năng lực là hết quả báo. Cái dạng còn là chủng tử các
pháp, lưu chuyển từ vô thỉ đến giờ. Có dạng thứ nhất mới có sự kết
thúc của nghiệp lực, có dạng thứ hai mới có chủng tử tân huân của
các pháp - Chủ trương có chủng tử tân huân là chủ trương có chủng tử
bản hữu.
Thứ 5: Nói Các Dạng
Ví Dụ
Chính Văn.-
Có các tướng ví dụ. Là a lại da
có những sự ảo thuật, sóng nắng, chiêm bao và màng mắt làm ví dụ. Sự
này không có thì những ảnh tượng thác loạn do chủng tử biến kế tạo
ra, đáng lẽ không thành.
Lược Giải.-
Ảo thuật, ví dụ này có 2 mặt:
ảo hình do ảo thuật tạo ra và nhà ảo thuật tạo ra ảo hình. A lại da
được ví như cả 2 mặt: các pháp chỉ như ảo hình và các pháp ấy do a
lại da phát sinh. Sóng nắng là nai khát, từ xa nhìn sóng nắng thấy như là
nước: hạnh phúc chỉ là ảo tượng của khát vọng, khát vọng cùng ảo
tượng toàn là a lại da. Chiêm bao dễ hiểu. Màng mắt là màng mắt có bịnh,
thì thấy vòng lửa, hoa đốm, v/v: ảo tượng thác loạn chỉ do vô minh
thác loạn, vô minh với ảo tượng toàn là a lại da. A lại da có các dạng
ví dụ như vậy là do chủng tử của sự biến kế.
Thứ 6: Nói Các Dạng
Còn Đủ Với Không Đủ
Chính Văn.-
Có tướng còn đủ với không đủ.
Những kẻ đủ hết mọi sự ràng buộc thì gọi là tướng còn đủ. Những
người ly dục thì gọi là tướng giảm bớt. Các vị thanh văn đang còn tu
học và các vị bồ tát thì gọi là tướng nhổ hẳn một phần. La hán
và Duyên giác thì gọi là tướng nhổ hẳn toàn phần về phiền não chướng.
Chư vị Như lai thì gọi là tướng nhổ hẳn toàn phần về phiền não chướng
và sở tri chướng. Mọi sự thích ứng là như vậy. Sự này không có thì
sự tạp nhiễm và sự hoàn diệt tuần tự như trên đây đáng lẽ không
thành.
Lược Giải.-
A lại da có 5 dạng về sự tạp
nhiễm và sự hoàn diệt.
Tiết 4: Nói Tính
Chất Vô Phú Vô Ký Của A Lại Da
Chính Văn.-
Vì lý do gì mà các pháp thiện ác
dẫn ra quả dị thục, nhưng quả dị thục lại vô phú vô ký? Vì quả dị
thục vô phú vô ký mới không trái nghịch với thiện ác, chứ thiện ác
thì trái nghịch lẫn nhau. Quả dị thục mà là thiện hay ác, thì sự tạp
nhiễm hay sự hoàn diệt không mặt nào thành cả. Do vậy, thức dị thục
chỉ là vô phú vô ký.
Lược Giải.-
Như cái tay tập viết chữ, khả năng
viết chữ và chữ được viết tính chất khác nhau, mà cái tay vẫn là
trung tính - trung tính mới tập và viết được mọi chữ. A lại da cũng vậy.
Chân
thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh
Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 |