Nhiếp Luận
HT. Thích Trí Quang dịch giải
4
Chương 1: Tổng
Minh Nhân Quả
Chính Văn.-
Như vậy là đã nói sự ngộ nhập
các pháp sở tri rồi, còn nhân quả của sự ngộ nhập ấy thì làm sao thấy
được? (Sự ngộ nhập ấy) phải do 6 ba la mật là thí, giới, nhẫn, tiến,
định, tuệ. Tại sao do 6 ba la mật làm nguyên nhân mà được ngộ nhập
duy thức? Rồi tại sao 6 ba la mật lại làm thành quả của sự ngộ nhập
ấy? (Sáu ba la mật làm nguyên nhân) là vị bồ tát này không ham tiền của
địa vị, không phạm tịnh giới, với khổ thì không dao động, với tu thì
không biếng nhác, trong những cái nhân tán động như vậy mà khi chúng
không hiện hành thì tâm chuyên nhất nơi cảnh, như thế là có năng lực
quyết trạch các pháp một cách đúng lý, nhập vào duy thức. (Sáu ba la mật
làm thành quả) là vị bồ tát này do 6 ba la mật mà ngộ nhập duy thức rồi,
chứng được 6 ba la mật thống thuộc cái ý lạc thanh tịnh tăng thượng.
Vì vậy, giả sử tách rời sự nỗ lực hiện khởi của 6 ba la mật thì
do cái thắng giải đối với giáo pháp Phật dạy, lại do những tác ý mến
trọng, tùy hỷ và vui thích, nên vẫn thường xuyên, không cách hở, thích
ứng phương tiện tu tập 6 ba la mật mau được viên mãn. Ở đây có 3 bài
chỉnh cú: 1. đến 3. (Một) đã tròn đầy cái pháp trong trắng, (hai) lại
được cái nhẫn sắc bén, (ba) nên bồ tát đối với giáo pháp sâu rộng
của đại thừa, (bốn) giác ngộ chỉ là phân biệt và được trí vô
phân biệt, (năm) hy vọng và thắng giải thanh tịnh nên ý lạc thanh tịnh;
(sáu) trước đó và nay đây do giáo pháp đẳng lưu ra mà cùng thấy được
chư Phật, (bảy) xác quyết rằng gần với đại bồ đề, bởi vì không
còn có sự khó được nữa. Do 3 bài chỉnh cú này mà tổng quát biểu thị
cái ý lạc thanh tịnh tăng thượng có 7 sắc thái: (1) tư lương (2) kham nhẫn
(3) đối tượng (4) tác ý (5) bản thân (6) điềm tốt (7) lợi cao. Đúng
theo sự tuần tự, 7 sắc thái này được các câu chỉnh cú biểu thị,
nên biết như vậy.
- Mục 1: Nói Về Số Mục
Chính Văn.-
Vì lý do nào mà ba la mật chỉ có
6 số mục? Vì thành lập sự đối trị những nguyên nhân bị đối trị,
vì làm chỗ dựa để chứng đắc pháp của chư Phật, và vì tùy thuận
thành thục cho chúng sinh. Vì muốn đối trị cái nguyên nhân không đi tới,
nên lập thí ba la mật và giới ba la mật - nguyên nhân không đi tới là
ham tiền của địa vị và nhà cửa vợ con; vì muốn đối trị cái nguyên
nhân làm cho đi tới rồi lại trở lui, nên lập nhẫn ba la mật và tiến
ba la mật - nguyên nhân trở lui là đau khổ bởi chúng sinh xúc phạm gây ra
khi mình ở trong sinh tử, và biếng nhác đối với sự nỗ lực trường kỳ
tu tập thiện pháp; vì muốn đối trị cái nguyên nhân tuy đã đi tới và
không trở lui nhưng hỏng mất, nên lập định ba la mật và tuệ ba la mật
- nguyên nhân hỏng mất là mọi thứ tán động và trí tuệ sai lầm ác hại.
Như thế đó là vì thành lập sự đối trị những nguyên nhân bị đối
trị nên chỉ qui định có 6 số mục. Lại nữa, 4 ba la mật trước là
nhân tố của sự không tán động, 1 ba la mật kế tiếp là thành tựu sự
không tán động, sự không tán động này làm chỗ dựa nên biến giác một
cách đúng như sự thật về chân lý của các pháp (110) , và thế là có năng
lực chứng đắc tất cả Phật pháp. Như thế đó là vì làm chỗ dựa để
chứng đắc pháp của chư Phật nên chỉ qui định có 6 số mục. Do thí ba
la mật mà tiếp nhận chúng sinh, do giới ba la mật mà không hại chúng
sinh, do nhẫn ba la mật mà nhịn chịu tai hại mình gặp, do tiến ba la mật
mà tán trợ việc họ nên làm - do chính những yếu tố tiếp nhận và ích
lợi chúng sinh như thế này mà làm cho họ có thể thành thục, nên từ đó
sắp đi, ai tâm chưa định thì làm cho định tĩnh, ai tâm định rồi thì
làm cho giải thoát, và khi khai ngộ cho họ thì họ được thành thục (111)
. Như thế đó là vì tùy thuận thành thục cho chúng sinh mà chỉ qui định
có 6 số mục. Nên biết như vậy.
Đoạn 1: Nói 6 Thứ
Tối Thắng
Chính Văn.-
Sắc thái của 6 ba la mật làm sao
thấy được? Do 6 thứ hơn hết mà thấy. Một do chỗ dựa hơn hết, là lấy
tâm bồ đề làm chỗ dựa. Hai do sự việc hơn hết, là thực hành trọn vẹn.
Ba do tiền đề hơn hết, là lấy sự lợi ích yên vui cho tất cả chúng
sinh làm tiền đề. Bốn do phương tiện hơn hết, là được trí vô phân
biệt tiếp nhận. Năm do hồi hướng hơn hết, là hồi hướng vô thượng
bồ đề. Sáu do thanh tịnh hơn hết, là phiền não và sở tri không còn chướng
ngại mà nổi lên.
Đoạn 2: Nói 4 Câu
Phân Biệt
Chính Văn.-
Thí là ba la mật? hay ba la mật là
thí? Có cái là thí mà không phải là ba la mật, (có cái là ba la mật mà
không phải là thí, có cái là thí mà cũng là ba la mật, có cái không phải
là thí mà cũng không phải là ba la mật), nên làm 4 câu như vậy (112) .
Như với thí, với các ba la mật khác cũng làm 4 câu, nên biết đúng cách.
Mục 3: Nói Về Thứ
Tự
Chính Văn.-
Vì lý do nào mà 6 ba la mật nói
theo thứ tự như vậy? Vì ba la mật trước thích ứng phát sinh ba la mật
sau.
Mục 4: Nói Về
Danh Từ
Chính Văn.-
Sự giải thích danh từ của các ba
la mật làm sao thấy được? Đối với thiện pháp bố thí v/v của thế
nhân, của thanh văn duyên giác, thì 6 pháp này rất hơn hết, có năng lực
đạt đến bờ bến bên kia, nên gọi chung là ba la mật. Rồi (một) có năng
lực phá nát sự keo lẫn, bần cùng, lại có năng lực dẫn ra phước đức
tư lương, đem lại tiền tài địa vị rộng lớn, nên gọi là thí. (Hai)
có năng lực hủy diệt giới luật ác, nẻo đường ác, lại có năng lực
thủ đắc nẻo đường lành, sự đẳng trì (113) , nên gọi là giới. (Ba)
có năng lực tận diệt phẫn nộ, oán thù, lại có năng lực khéo sống
trong sự yên ổn mình người, nên gọi là nhẫn. (Bốn) có năng lực rời
xa mọi sự biếng nhác, ác, bất thiện, lại có năng lực xuất sinh và tăng
trưởng vô lượng thiện pháp, nên gọi là tiến. (Năm) có năng lực tiêu
trừ mọi sự tán động, lại có năng lực dẫn ra sự đứng yên nơi nội
tâm, nên gọi là định. (Sáu) có năng lực hủy bỏ mọi kiến thức sai lầm,
mọi trí tuệ ác hại. lại có năng lực biết các pháp đúng với chân thật
và phẩm loại (114) , nên gọi là tuệ.
Đoạn 1: Nói Chung
5 Sự Tu Tập
Chính Văn.-
Nên biết như thế nào về sự tu tập
các pháp ba la mật này? Nên biết sự tu tập ấy đại lược có 5 sự. Một
là tu tập bằng sự nỗ lực nổi lên. Hai là tu tập bằng sự thắng giải.
Ba là tu tập bằng sự tác ý. Bốn là tu tập bằng sự phương tiện khéo
léo. Năm là tu tập bằng sự thành tựu việc làm. Tựu trung, 4 sự tu tập
thì như trước đã nói (115) , còn sự thành tựu việc làm là chư vị Như
lai thì việc Phật vận dụng tự nhiên mà không có ngừng nghỉ, đối với
các pháp ba la mật mà các Ngài đã viên mãn các Ngài lại hoạt dụng các
pháp ấy.
Đoạn 2: Nói Riêng
Sự Tu Tập Tác Ý
Chính Văn.-
Lại nữa, tu tập bằng sự tác ý
là tu tập 6 thứ ý lạc thống nhiếp mọi tác ý mến trọng, tùy hỷ và
vui thích: một là ý lạc rộng lớn, hai là ý lạc trường kỳ, ba là ý lạc
hoan hỷ, bốn là ý lạc mang ơn, năm là ý lạc chí lớn, sáu là ý lạc
thuần lành. (Một) nếu các vị bồ tát trải qua bao nhiêu vô số đại kiếp
mới hiện chứng vô thượng bồ đề, trong thì gian ấy giả sử mỗi một
sát na bỏ hết mọi thân mạng, đem 7 thứ quí báu chứa đầy trong hằng
sa thế giới mà phụng thí chư vị Như lai, làm như vậy cho đến ngày an tọa
trên pháp tòa bồ đề, vậy mà các vị bồ tát ấy ý lạc về thí vẫn
không biết chán và biết đủ; lại cũng trải qua ngần ấy thì gian, giả
sử trong mỗi sát na lửa dữ đầy cả đại thiên thế giới, đi đứng nằm
ngồi, lúc nào cũng thiếu thốn mọi thứ để sống, vậy mà giới, nhẫn,
tiến, định, tuệ, vẫn thường xuyên hiện hành, cho đến ngày an tọa
trên pháp tòa bồ đề, giới, nhẫn, tiến, định, tuệ, bao nhiêu ý lạc
ấy, các vị bồ tát vẫn không biết chán biết đủ, như thế đó gọi
là ý lạc rộng lớn của bồ tát. (Hai) chính cái ý lạc không biết chán
đã nói, cho đến ngày an tọa trên pháp tòa bồ đề, các vị bồ tát thường
xuyên không cách hở, không ngừng nghỉ, như thế đó gọi là ý lạc trường
kỳ của bồ tát. (Ba) các vị bồ tát đem 6 ba la mật của mình mà lợi
ích chúng sinh, do việc làm này mà hoan hỷ một cách sâu xa, nỗi hoan hỷ của
chúng sinh được lợi ích cũng không sánh bằng, như thế đó gọi là ý lạc
hoan hỷ của bồ tát. (Bốn) các vị bồ tát đem 6 ba la mật lợi ích
chúng sinh, thấy họ có ơn lớn với mình, không thấy mình có ơn với họ,
như thế đó gọi là ý lạc mang ơn của bồ tát. (Năm) các viể bồ tát
đem những thiện căn do 6 ba la mật tập hợp được, bằng tâm lý sâu xa,
xoay lại mà hiến cho tất cả chúng sinh, làm cho họ được quả báo khả
ái và thù thắng, như thế đó gọi là ý lạc chí lớn của bồ tát.
(Sáu) các vị bồ tát lại đem những thiện căn do 6 ba la mật tập hợp
được, cùng với chúng sinh xoay lại mà cầu vô thượng bồ đề, như thế
đó gọi là ý lạc thuần lành. Đó là (thứ nhất) bồ tát tu tập tác ý
mến trọng bao gồm 6 thứ ý lạc. Các vị bồ tát đối với vô lượng
thiện căn thích ứng tu tập 6 thứ ý lạc của vị bồ tát khác thì tùy hỷ
sâu xa, đó là (thứ hai) bồ tát tu tập tác ý tùy hỷ bao gồm 6 thứ ý lạc.
Các vị bồ tát vui thích sâu xa đối với 6 ba la mật thống thuộc 6 thứ
ý lạc của tất cả chúng sinh, lại nguyện cho đến ngày an tọa trên
pháp tòa bồ đề, bản thân cùng với 6 ba la mật không bao giờ rời nhau,
đó là (thứ ba) bồ tát tu tập tác ý vui thích bao gồm 6 thứ ý lạc. Nếu
ai nghe được sự tu tập 3 thứ tác ý bao gồm 6 thứ ý lạc của bồ tát
mà chỉ có được một ý nghĩ tin tưởng, vẫn còn sinh ra khối phước vô
lượng, những nghiệp chướng ác cũng sẽ tiêu tan, huống chi bồ tát.
Mục 6: Nói Về Chi
Tiết
Chính Văn.-
Chi tiết của các pháp ba la mật
ấy, làm sao nhìn thấy? Phải biết mỗi ba la mật đều có 3 loại. Ba loại
của thí là thí chánh pháp, thí tài sản, thí vô úy. Ba loại của giới
là giới luật nghi, giới nhiếp thiện pháp, giới lợi ích chúng sinh. Ba loại
của nhẫn là nhẫn oán hại, nhẫn khổ sở, nhẫn pháp (116) . Ba loại của
tiến là tiến áo giáp (117) , tiến đi tới, tiến không khiếp nhược không
thoái chuyển không mừng đủ. Ba loại của định là định an trú, định
dẫn phát, định thành sự (118) . Ba loại của tuệ là tuệ da hành vô
phân biệt, tuệ căn bản vô phân biệt, tuệ hậu đắc vô phân biệt (119)
.
Mục 7: Nói Về Thống
Nhiếp
Chính Văn.-
Làm sao thấy được sự thống nhiếp
lẫn nhau (120) ? Sáu ba la mật này thống nhiếp được hết thảy thiện pháp,
bởi vì (hết thảy thiện pháp) là sắc thái của 6 ba la mật, là tùy thuận
của 6 ba la mật, là đẳng lưu của 6 ba la mật.
Mục 8: Nói Về Sở
Trị
Chính Văn.-
Như vậy những thứ bị đối trị
của ba la mật là bao gồm các pháp tạp nhiễm, thì nhìn thấy như thế nào?
(Phải thấy) là bản thân, là nguyên nhân và là hậu quả (của mỗi thứ
bị đối trị (121) ).
Mục 9: Nói Về
Ích Lợi
Chính Văn.-
Những ích lợi thù thắng của 6 ba
la mật đạt được, làm sao nhìn thấy? Là các vị bồ tát khi lưu chuyển
sinh tử thì (thí) làm cho giàu sang, (giới) làm cho sinh mạng lớn lao, (nhẫn)
làm cho bằng hữu và dòng họ lớn lao, (tiến) làm cho sự nghiệp lớn lao
và hoạt động thành tựu, (định) làm cho bẩm tính nhẹ mỏng trần tục,
không có não hại, (tuệ) làm cho học rành công nghệ và tất cả ngũ minh
(122) . (Thêm nữa, và nói tổng quát, thì) đời sống thù thắng, không dẫn
ra tội lỗi, cho đến ngày ngồi trên pháp tòa bồ đề, thường xuyên hiện
hành mọi sự nghĩa lợi (123) cho tất cả chúng sinh, đó là lợi ích thù
thắng (của 6 ba la mật).
Mục 10: Nói Về
Quyết Trạch
Chính Văn.-
Nên nhìn thấy như thế nào về sự
quyết trạch lẫn nhau của 6 ba la mật? Là đức Thế tôn đối với tất cả
6 ba la mật này, có chỗ lấy tiếng thí mà nói, có chỗ lấy tiếng giới
mà nói, có chỗ lấy tiếng nhẫn mà nói, có chỗ lấy tiếng tiến mà
nói, có chỗ lấy tiếng định mà nói, có chỗ lấy tiếng tuệ mà nói.
Nói như vậy là có ý thú gì? Có nghĩa trong phần da hành (124) của hết thảy
ba la mật đều có hết thảy ba la mật hỗ trợ mới thành được. Ý thú
là như vậy.
Tiết 2: Kết Bằng
Chỉnh Cú
Chính Văn.-
Ở đây có 1 bài chỉnh cú ôn đà
nam: Số mục, sắc thái, thứ tự, danh từ, tu tập, chi tiết, thống nhiếp,
sở trị, ích lợi, quyết trạch, nên biết như vậy (về 6 ba la mật).
Chương 1: Thiết Lập
10 Địa
Chính Văn.-
Như vậy là đã nói nhân quả của
sự ngộ nhập rồi, còn sự tu tập về nhân quả ấy làm sao thấy được?
Thấy được qua 10 địa (125) của bồ tát. Những gì là 10 địa? Một là
cực hỷ địa, hai là ly cấu địa, ba là phát quang địa, bốn là diệm tuệ
địa, năm là nan thắng địa, sáu là hiện tiền địa, bảy là viễn hành
địa, tám là bất động địa, chín là thiện tuệ địa, mười là pháp
vân địa. Lý do thiết lập 10 địa như vậy làm sao thấy được? Vì muốn
đối trị 10 thứ vô minh (126) là những chướng ngại bị đối trị. Tại
sao, vì 10 sắc thái pháp tánh có 10 vô minh chướng ngại. Những gì là 10 sắc
thái pháp tánh? Trong địa thứ nhất là phổ biến, trong địa thứ hai là
tối thắng, trong địa thứ ba là thắng lưu, trong địa thứ tư là không
nhiếp thọ, trong địa thứ năm là không sai biệt, trong địa thứ sáu là
không nhiễm tịnh, trong địa thứ bảy là mỗi pháp không sai biệt, trong
địa thứ tám là không thêm bớt, thân tự tại độ tự tại, trong điểa
thứ chín là trí tự tại, trong địa thứ mười là nghiệp tự tại, tổng
trì tự tại, chánh định tự tại (127) . Trong đây có 3 bài chỉnh cú: 1.
đến 3. Phổ biến, tối thắng, thắng lưu, không nhiếp thọ, không sai biệt,
không nhiễm tịnh, mỗi pháp không sai biệt, không thêm bớt và thân tự tại
độ tự tại, trí tự tại, nghiệp tự tại, 10 sắc thái pháp tánh như vậy
bị chướng ngại vì 10 vô minh không ô nhiễm; để đối trị 10 vô minh chướng
ngại này nên thiết lập 10 địa. Phải biết 10 vô minh như vậy, đối với
thanh văn thì không phải là ô nhiễm, nhưng đối với bồ tát thì là ô
nhiễm.
Lược Giải.-
Thiết lập 10 địa là để đối
trị 10 vô minh, và 10 vô minh có người kể như ghi chú đã ghi. Nhưng có lẽ
đó không phải là ý của đoạn này. Đoạn này nói 10 địa có 10 sắc
thái pháp tánh, 10 sắc thái này bị 10 vô minh chướng ngại, vậy 10 cái
tên vô minh có lẽ đi liền với 10 sắc thái, ví dụ: thứ 1 là vô minh chướng
ngại cho sắc thái pháp tánh phổ biến, v/v.
Chương 2: Danh
Nghĩa 10 Địa
Chính Văn.-
Thêm nữa, (một) tại sao địa thứ
nhất gọi là cực hỷ, vì ở đây lần đầu tiên được cái năng lực thù
thắng là có thể làm thành mọi sự nghĩa lợi cho mình người. (Hai) tại
sao địa thứ hai gọi là ly cấu, vì ở đây xa rời đến cùng cực những
sự phạm giới dơ bẩn. (Ba) tại sao địa thứ ba gọi là phát quang, vì
ở đây là chỗ dựa của đẳng trì và đẳng chí (128) không thoái chuyển,
là chỗ dựa của ánh sáng chánh pháp lớn lao. (Bốn) tại sao địa thứ
tư gọi là diệm tuệ, vì ở đây các pháp bồ đề phần (129) đốt tiêu
hết thảy chướng ngại. (Năm) tại sao địa thứ năm gọi là nan thắng,
vì trí chân đế với trí thế gian mâu thuẫn với nhau, mà ở đây kết hợp
được 2 thứ khó kết hợp đó, làm cho thích ứng với nhau. (Sáu) tại sao
địa thứ sáu gọi là hiện tiền, vì ở đây cái trí duyên khởi (130)
làm chỗ dựa, khiến cho tuệ ba la mật hiện ra trước mắt. (Bảy) tại
sao địa thứ bảy gọi là viễn hành, vì ở đây là đã đến giới hạn
cuối cùng của hữu công dụng hành. (Tám) tại sao địa thứ tám gọi là
bất động, vì ở đây hết thảy hữu tướng, hữu công dụng hành, đều
không thể dao động. (Chín) tại sao địa thứ chín gọi là thiện tuệ,
vì ở đây được trí vô ngại (131) loại thù thắng nhất. (Mười) tại
sao địa thứ mười gọi là pháp vân, vì ở đây được cái trí tổng
duyên tất cả các pháp, hàm tàng hết thảy đà la ni môn và tam ma địa môn;
ở đây ví như mây lớn, che được sự chướng ngại rộng lớn như không
gian; ở đây lại viên mãn được pháp thân.
Chương 3: Nói
Về Thủ Đắc
Chính Văn.-
Làm sao thấy được sự thủ đắc
10 địa như vậy? Do 4 sự thủ đắc. Một là thủ đắc thắng giải, là
thủ đắc sự tin hiểu sâu xa đối với các địa. Hai là thủ đắc chánh
hạnh, là thủ đắc 10 pháp hạnh thích hợp với các địa (132) . Ba là thủ
đắc thông đạt, là khi ở địa thứ nhất thông đạt pháp giới thì đã
thông đạt cùng khắp tất cả các địa. Bốn là thủ đắc thành mãn, là
tu chứng các địa đạt đến cứu cánh.
Tiết 1: Tu Chỉ
Quán
Chính Văn.-
Sự tu tập các địa làm sao thấy
được? Là các vị bồ tát trong mỗi địa đều tu chỉ và quán, bằng 5 sắc
thái tu tập. Những gì là 5 sắc thái? Là tu tổng tập, tu không tướng, tu
không dụng công, tu xí thạnh, tu không mừng đủ (133) . Năm sự tu tập này
làm cho bồ tát thành tựu 5 sự kết quả: (1) trong mỗi ý nghĩ, tiêu dung
chỗ dựa của mọi thứ thô nặng; (2) rời xa các tướng, được cái vui
trong hoa viên chánh pháp; (3) biết được chính xác cái ánh sáng chánh pháp
lớn lao, không có giới hạn, phổ biến và vô lượng; (4) đã hiện hành
cái vô tướng thuận với phần thanh tịnh, không còn phân biệt; (5) để
viên mãn thành tựu pháp thân, nên nhiếp thọ chính xác những nhân tố
thù thắng của những địa ở sau (134) .
Tiết 2: Tu 10 Độ
Chính Văn.-
Do sự thêm hơn lên mà nói 10 địa
tu riêng 10 ba la mật (135) . Sáu địa trước thì tu riêng 6 ba la mật đã
nói. Còn 4 địa sau tu riêng 4 ba la mật là một, phương tiện ba la mật, là
đem những thiện căn của 6 ba la mật trước đã tập hợp được mà chung
với chúng sinh xoay lại cầu vô thượng bồ đề. Hai, nguyện ba la mật, là
phát ra mọi sự đại nguyện nhiệm mầu, dẫn ra những dữ kiện thù thắng
cho các ba la mật đương lai. Ba, lực ba la mật, là do 2 lực, tư trạch lực
(136) và tu tập lực, mà làm cho 6 ba la mật trước hiện hành một cách
không gián đoạn. Bốn, trí ba la mật, là do cái trí nhiệm mầu được thành
tựu bởi 6 ba la mật trước mà hưởng thụ pháp lạc và thành thục chúng
sinh. Tất cả 4 ba la mật này đều thống nhiếp vào phần hậu đắc của
trí vô phân biệt của tuệ ba la mật. Thêm nữa, trong tất cả địa không
phải không tu tập tất cả ba la mật (137) . Và pháp môn như thế này
chính là kho tàng ba la mật (138) .
Tiết 1: Nói Bằng
Tản Văn
Chính Văn.-
Trải qua bao nhiêu thì gian tu hành
các địa mới được viên mãn? Có 5 giai đoạn (139) , trải qua 3 vô số kiếp.
(Một) giai đoạn hành giải, trải qua vô số kiếp thứ nhất tu hành viên
mãn. (Hai) giai đoạn thanh tịnh ý lạc, giai đoạn hữu tướng hành, giai
đoạn vô tướng hành, tức 6 địa trước đến địa thứ 7, trải qua vô
số kiếp thứ hai tu hành viên mãn. (Ba) giai đoạn vô công dụng hành, tức
địa thứ 8 đến địa thứ 10, trải qua vô số kiếp thứ ba tu hành viên
mãn.
Lược Giải.-
Hãy nói 5 giai đoạn trước. Giai
đoạn giải hành (là 1), giai đoạn thanh tịnh ý lạc (là 2) chia ra 3 giai
đoạn: giai đoạn hữu tướng hành (là 3) giai đoạn vô tướng hành (là 4)
giai đoạn vô công dụng hành (là 5). Nay nói 3 vô số kiếp. Vô số kiếp
thứ nhất là giai đoạn giải hành (gồm 10 trú, 10 hạnh, 10 hướng, 4 da hành).
Vô số kiếp thứ hai có 2 giai đoạn: giai đoạn hữu tướng hành (địa thứ
1 đến địa thứ 6) giai đoạn vô tướng hành (địa thứ 7). Vô số kiếp
thứ ba là giai đoạn vô công dụng hành (địa thứ 8 đến địa thứ 10).
Như vậy thực sự chỉ có 4, nhưng nói 5 là vì tổng quát lại thì có 2
giai đoạn: giai đoạn giải hành và giai đoạn thanh tịnh ý lạc.
Tiết 2: Nói Bằng
Chỉnh Cú
Chính Văn.-
Ở đây có 1 bài chỉnh cú: thanh tịnh
lực, tăng thượng lực, kiên cố lực, thăng tiến lực, đó là bồ tát bắt
đầu tu hành 3 vô số kiếp.
Lược Giải.-
Thanh tịnh lực là cụ bị 2 tư
lương phước trí mà khắc phục những chướng ngại cần phải khắc phục.
Tăng thượng lực là cụ bị đại nguyện và thân cận đại thiện tri thức
mà bước tới. Kiên cố lực là cụ bị chí ý kiên cố để ma lực không
thể làm cho thoái chuyển. Thăng tiến lực là cụ bị sức mạnh tinh tiến
mà, trong từng ý nghĩ, sự tu tập thêm và hơn lên để đạt đến viên
mãn. Bắt đầu về 3 vô số kiếp là bồ tát phải có 4 lực như vậy.
Chương 1: Nói Về
Xuất Xứ
Chính Văn.-
Như vậy là đã nói sự tu tập về
nhân quả rồi, còn sự thù thắng của giới tăng thượng trong sự tu tập
ấy thì làm sao thấy được? Hãy thấy như đã được nói đến, trong phần
Chính thọ bồ tát giới, thuộc Bồ tát địa (của luận Du dà sư địa).
Tiết 1: Chi Tiết
Thù Thắng
Chính Văn.-
Thêm nữa, nên biết đại lược do
4 sự thù thắng dưới đây mà thấy giới tăng thượng này là thù thắng:
một là do sự chi tiết thù thắng, hai là do học xứ chung với không chung
thù thắng, ba là do sự rộng lớn thù thắng, bốn là do sự sâu xa thù thắng.
(Một), sự chi tiết thù thắng là bồ tát giới có 3 loại: một là giới
luật nghi, hai là giới nhiếp thiện pháp, ba là giới lợi ích chúng sinh. Tựu
trung, giới luật nghi thì nên biết có nghĩa là xây dựng 2 giới nhiếp thiện
pháp và lợi ích chúng sinh, giới nhiếp thiện pháp thì nên biết có nghĩa
là xây dựng sự tu tập hết thảy Phật pháp, giới lợi ích chúng sinh
thì nên biết có nghĩa là xây dựng sự thành thục hết thảy chúng sinh.
Lược Giải.-
Giới luật nghi xây dựng 2 giới
nhiếp thiện pháp và nhiếp chúng sinh, lời cắt nghĩa này rất đáng quan
tâm.
Tiết 2: Chung Với
Không Chung Thù Thằng
Chính Văn.-
(Hai), học xứ chung với không chung
thù thắng, là các vị bồ tát thì vì tất cả tánh tội đều không hiện
hành, nên chung với thanh văn; nhưng giá tội tương tự (140) thì có trường
hợp hiện hành, nên không chung với thanh văn. Đối với học xứ giá tội,
có thứ thanh văn phạm mà bồ tát không phạm, có thứ bồ tát phạm mà
thanh văn không phạm. Thêm nữa, bồ tát có đủ cả các giới thân miệng
ý, thanh văn chỉ có 2 giới thân miệng, thế nên bồ tát thì ý cũng có phạm
giới, chứ không phải thanh văn (ý cũng có như vậy). Chính yếu mà nói,
thì tất cả 3 nghiệp thân miệng ý không tội lỗi mà lợi ích chúng sinh,
thì bồ tát nên hiện hành tất cả, nên tu học tất cả. Như thế đó
nên biết gọi là chung với không chung thù thắng.
Tiết 3: Rộng Lớn
Thù Thắng
Chính Văn.-
(Ba), sự rộng lớn thù thắng thì
lại do 4 thứ rộng lớn nữa: một là rộng lớn vì học xứ thì đủ loại
và vô lượng, hai là rộng lớn vì phước đức được thâu đạt rất là
vô lượng, ba là rộng lớn vì ý lạc thì muốn lợi ích yên vui cho tất cả
chúng sinh, bốn là rộng lớn vì xây dựng thì xây dựng vô thượng bồ đề.
Tiết 4: Sâu Xa Thù
Thắng
Chính Văn.-
(Bốn), sự sâu xa thù thắng là
các vị bồ tát do loại phương tiện khéo léo (141) , làm 10 việc sát sinh
v/v mà không có tội lỗi, sinh vô lượng phước, mau chứng vô thượng bồ
đề. Thêm nữa, các vị bồ tát hiện hành 2 nghiệp thân miệng biến hóa,
thì nên biết đó cũng là giới pháp sâu xa; vì lý do này mà có khi bồ
tát làm quốc vương, thị hiện những việc bức não chúng sinh, đặt họ
đứng vững vào trong giới pháp. Thêm nữa, các vị bồ tát thị hiện những
việc bản sinh, làm những sự bức não chúng sinh mà thực sự nhiếp hóa
chúng sinh, trước làm cho họ tin tưởng sâu xa, sau đi đến thành thục. Như
thế đó là sự sâu xa thù thắng của giới pháp mà bồ tát học tập. Do
4 sự thù thắng đã nói đại lược trên đây, nên biết luật nghi của bồ
tát rất là thù thắng.
Chương 3: Kết Chỉ
Kinh Khác
Chính Văn.-
Chi tiết như vậy của học xứ bồ
tát, nên biết còn có vô lượng chi tiết nữa, như đã được nói trong khế
kinh đại thừa Tỳ nại da cù sa.
Chương 1: Nêu Lên
Chi Tiết
Chính Văn.-
Như vậy là đã nói sự thù thắng
của giới tăng thượng rồi, còn sự thù thắng của định tăng thượng
thì làm sao thấy được? Đại lược do 6 chi tiết, nên biết như vậy: một
là đối tượng, hai là chủng loại, ba là đối trị, bốn là năng lực,
năm là dẫn ra, sáu là việc làm.
Tiết 1: Đối Tượng
Chính Văn.-
(Một), đối tượng của định
tăng thượng là lấy giáo pháp đại thừa mà làm đối tượng.
Tiết 2: Chủng Loại
Chính văn.-
(Hai), chủng loại của định tăng
thượng là định Đại thừa quang minh, định Tập phước định vương, định
Hiền thủ, định Kiện hành (142) , v/v, chủng loại vô lượng.
Tiết 3: Đối Trị
Chính Văn.-
(Ba), đối trị của định tăng
thượng là cái trí vin theo tổng tướng của các pháp, bằng vào cái cách
ví như lấy chốt tháo chốt (143) mà trừ bỏ tất cả sự thô nặng (144)
của 2 chướng ngại nơi a lại da.
Tiết 4: Năng Lực
Chính Văn.-
(Bốn), năng lực của định tăng
thượng là sống trong cái vui của thiền định thì tùy ý muốn mà thọ
sinh (145) .
Tiết 5: Dẫn Ra
Chính Văn.-
(Năm), dẫn ra của định tăng thượng
là dẫn ra thần thông vô ngại trong mọi thế giới (146) .
Mục 1: Làm Thần
Thông
Chính Văn.-
(Sáu), việc làm của định tăng
thượng là chấn động thế giới, phóng ánh sáng rực rỡ, chiếu khắp mọi
khu vức, làm cho mọi thế giới trở nên thấy được, làm cho vật thể
chuyển biến, đi lại trong từng sát na giữa các thế giới, thu lại và
phóng ra cả không gian và thì gian, thu mọi sắc tượng vào nơi bản thân,
đến với loài nào thì hiện ra thân hình cùng loại, hoặc hiện hoặc ẩn,
tự do làm cho các loài biến thể, chế ngự thần thông thấp kém của người
khác, truyền cảm hứng hùng biện cho người thuyết pháp, và truyền cảm
hứng ghi nhớ và thích thú cho người nghe pháp, phóng ra ánh sáng lớn những
lúc thuyết pháp, dẫn ra những thần thông lớn lao như vậy.
Đoạn 1: Nói 10 Việc
Khó
Chính Văn.-
Lại dẫn ra làm 10 việc khó làm. Mười
việc khó làm, một là tự thệ nguyện: thệ nguyện thụ đắc vô thượng
bồ đề; hai là không thoái lui: những cái khổ sinh tử không thể làm cho
thoái lui; ba là không ruồng bỏ: không ruồng bỏ những kẻ làm theo tà hạnh;
bốn là khó trước mắt: kẻ thù mà vẫn làm lợi ích cho họ; năm là
không nhuốm bẩn: sống với đời mà không bị việc đời làm hôi tanh;
sáu là tin khó hiểu: tuy chưa hiểu đại thừa mà vẫn tin giáo pháp rộng
lớn sâu xa; bảy là thông khó thông: thông suốt nhân vô ngã và pháp vô
ngã; tám là hiểu khó hiểu: hiểu được những ngôn từ sâu xa bí mật của
đức Như lai tuyên thuyết; chín là không bỏ nhiễm: không bỏ sinh tử mà
không nhiễm sinh tử; mười là làm khó làm: tu được sự giải thoát chướng
ngại của Phật, cùng tận biên cương của sinh tử mà vận dụng tự
nhiên, thường xuyên làm việc nghĩa lợi cho chúng sinh.
Thứ 1: Nói Qua Sự
Giải Thích 6 Độ
Chính Văn.-
Thêm nữa, trong việc (thứ 8) hiểu
khó hiểu, là các vị bồ tát hiểu được những ngôn từ bí mật nào của
đức Như lai tuyên thuyết? Là như khế kinh nói, (1) tại sao bồ tát cho
được, là nếu bồ tát không cho chút gì mà cho cả mười phương vô lượng
thế giới; (2) tại sao bồ tát thích cho, là nếu bồ tát không ưa thích mọi
sự cho; (3) tại sao bồ tát tin hiểu sâu xa vào sự cho, là nếu bồ tát
không tin đức Như lai mà cho; (4) tại sao bồ tát khích lệ sự cho, là nếu
bồ tát không tự khích lệ sự cho; (5) tại sao bồ tát đam mê sự cho, là
nếu bồ tát không tạm thời cho chút ít; (6) tại sao sự cho của bồ tát
rộng lớn, là nếu bồ tát rời sự phân tán; (7) tại sao sự cho của bồ
tát trong sạch, là nếu bồ tát phát sinh keo lẫn; (8) tại sao sự cho của
bồ tát rốt ráo, là nếu bồ tát không đứng nơi sự rốt ráo; (9) tại
sao sự cho của bồ tát tự tại, là nếu bồ tát không tự tại trong sự
cho; (10) tại sao sự cho của bồ tát vô tận, là nếu bồ tát không đứng
nơi sự vô tận (147) . Như sự thí như vậy, thì kế tiếp là giới và cuối
cùng là tuệ, tùy sự thích hợp, nên biết cũng là như vậy.
Thứ 2: Nói Qua Sự
Giải Thích 10 Ác
Chính Văn.-
(1) Sát sinh là gì, là nếu cắt đứt
sự sinh tử lưu chuyển của chúng sinh; (2) Lấy cắp là gì, là nếu không
ai cho cũng tự thu lấy chúng sinh; (3) Tà hạnh là gì, là nếu biết dâm dục
bất chánh mà tu chánh hạnh; (4) Nói dối trá là gì, là nếu nói được sự
dối trá trong sự nói dối trá; (5) Nói ly gián là gì, là nếu thường cư
trú trong sự Không tối thượng; (6) Nói thô ác là gì, là nếu khéo léo đứng
yên nơi bờ bến niết bàn; (7) Nói thêu dệt là gì, là nếu nói chính xác
mọi chủng loại và chi tiết của các pháp; (8) Tham dục là gì, là nếu
luôn luôn muốn tự chứng đắc thiền định tối thượng; (9) Sân hận là
gì, là nếu chính xác ghét và hủy diệt mọi thứ phiền não nơi tâm trí;
(10) Tà kiến là gì, là nếu thấy được đúng như sự thật cái tánh tà
đi khắp mọi nơi.
Thứ 3: Nói Qua Sự
Giải Thích Pháp Phật Sâu Xa
Chính Văn.-
Pháp của Phật sâu xa thì thế nào
là pháp của Phật sâu xa? Ở đây nên giải thích: (1) pháp thường trú là
pháp của Phật, vì pháp thân của Ngài là thường trú; (2) pháp đoạn diệt
là pháp của Phật, vì mọi sự chướng ngại vĩnh viễn đoạn diệt; (3)
pháp sinh khởi là pháp của Phật, vì thân biến hóa của Ngài biểu hiện
sinh khởi; (4) pháp thủ đắc là pháp của Phật, vì 84 ngàn hành vi chúng
sinh và sự đối trị của hành vi ấy đều có thể thủ đắc; (5) pháp
tham lam là pháp của Phật, vì tự nguyện nhiếp thọ chúng sinh tham lam làm
bản thể của mình; (6) pháp sân hận là pháp của Phật, (7) pháp ngu si là
pháp của Phật, (8) pháp dị sinh là pháp của Phật, nên biết cũng là như
vậy, (cũng là vì tự nguyện nhiếp thọ chúng sinh sân hận, ngu si và dị
sinh làm bản thể của mình); (9) pháp không dơ là pháp của Phật, vì
thành mãn cái chân như mà mọi chướng ngại dơ bẩn không thể làm dơ;
(10) pháp không bẩn là pháp của Phật, vì sống trong đời mà không bị việc
đời làm bẩn. Như thế đó gọi là pháp của Phật sâu xa.
Mục 3: Làm 4 Việc
Chính Văn.-
Định tăng thượng lại dẫn ra 4
việc: tu tập 6 ba la mật, thành thục tất cả chúng sinh, làm sạch thế giới
của Phật, hoàn thành các pháp của Phật (148) . Nên biết 4 pháp này cũng
là việc làm của định tăng thượng của bồ tát.
Mục 1: Nêu Lên
Chính Văn.-
Như vậy là đã nói sự thù thắng
của định tăng thượng rồi, còn sự thù thắng của tuệ tăng thượng thì
làm sao thấy được? Là tự tánh, sở y, nhân duyên, sở duyên, hành tướng,
nhiệm trì, trợ bạn, dị thục, đẳng lưu, xuất ly, cứu cánh, thắng lợi,
sai biệt, thí dụ, tác sự và thậm thâm (149) của trí vô phân biệt. Nên
biết trí vô phân biệt được nói như vậy thì gọi là sự thù thắng của
tuệ tăng thượng.
Đoạn 1: Giải Thích
Tự Tánh
Chính Văn.-
Tựu trung, tự tánh của trí vô
phân biệt là không phải 5 trạng thái: một là không phải không tác ý,
hai là không phải không tầm tư, ba là không phải không thọ tưởng, bốn
là không phải sắc tự tánh, năm là không phải kế đạt đối với chân
như. Không phải 5 trạng thái như vậy thì nên biết đó gọi là trí vô
phân biệt.
Lược Giải.-
Trí vô phân biệt dĩ nhiên không
tác ý, tầm tư và thọ tưởng, nhưng không tác ý như trạng thái hôn mê,
không tầm tư như nhị thiền sắp lên, không thọ tưởng như diệt tận định
thì không phải là trí vô phân biệt. Trí này cũng không vô tri giác như sắc
chất. Đối tượng hóa chân như ra mà kế đạt, sự kế đạt ấy cũng không
phải trí vô phân biệt.
Thứ 1: Tự Tánh
Chính Văn.-
Đối với 16 sắc thái được xác
lập của trí vô phân biệt như trên đã nói, ở đây lại nói 25 bài chỉnh
cú. 1. Tự tánh của trí vô phân biệt của bồ tát là không phải 5 trạng
thái, nhất là trạng thái kế đạt chân như.
Thứ 2: Sở Y
Chính Văn.-
2. Sở y của trí vô phân biệt của
bồ tát không phải tâm mà là tâm, bởi vì nó không thuộc chủng loại tư
lượng. (149B)
Thứ 3: Nhân Duyên
Chính Văn.-
3. Nhân duyên của trí vô phân biệt
của bồ tát là do đa văn huân tập cùng với tác ý đúng lý.
Thứ 4: Sở Duyên
Chính Văn.-
4. Sở duyên của trí vô phân biệt
của bồ tát là pháp tánh ly ngôn, tức chân như vô ngã.
Thứ 5: Hành Tướng
Chính Văn.-
5. Hành tướng của trí vô phân biệt
của bồ tát là, đối với đối tượng sở duyên, biết đối tượng ấy
là phi sắc thái danh ngôn. 6. Đặc tính tương ưng là tương ưng với đối
tượng sở phân biệt chứ không phải gì khác, và đối tượng ấy chỉ là
những chữ liên kết lại, triển chuyển thành sự tương ưng. 7. Không phải
tách rời cái năng thuyên mà có cái sở thuyên để trí biết đến, nhưng
năng thuyên và sở thuyên không phải hoàn toàn tương đồng, do vậy mà
pháp tánh thì phi danh ngôn.
Thứ 6: Nhiệm Trì
Chính Văn.-
8. Nhiệm trì của trí vô phân biệt
của bồ tát là làm cho những bồ tát hạnh sau đó tiến mau và lớn thêm.
Thứ 7: Trợ Bạn
Chính Văn.-
9. Trợ bạn của trí vô phân biệt
của bồ tát là 5 ba la mật mà nói ra 2 đạo. (4 ba la mật trước là tư
lương đạo, định ba la mật là y chỉ đạo).
Thứ 8: Dị Thục
Chính Văn.-
10. Dị thục của trí vô phân biệt
của bồ tát là do phần da hành của trí ấy mà sinh trong 2 đại hội (tha
thọ dụng và biến hóa) của Phật (149C) .
Thứ 9: Đẳng Lưu
Chính Văn.-
11. Đẳng lưu của trí vô phân biệt
của bồ tát là trong những đời sau, tự thể của nó hơn thêm lên.
Thứ 10: Xuất Ly
Chính Văn.-
12. Xuất ly của trí vô phân biệt
của bồ tát là nên biết trong 10 địa, (địa thứ nhất rời khỏi hệ lụy
nên) được gọi là được, (các địa sau thoát khỏi chướng ngại nên)
được gọi là thành.
Thứ 11: Cứu Cánh
Chính Văn.-
13. Cứu cánh của trí vô phân biệt
của bồ tát là chứng được 3 thân thể thanh tịnh và thành được 10 tự
tại tối thượng.
Thứ 12: Thắng Lợi
Chính Văn.-
14. Trí vô phân biệt không nhiễm
như hư không, là vì (phần da hành của nó) chuyển được các ác nghiệp cực
nặng, nhờ vào sự tin hiểu (chân như vô phân biệt). 15. Trí vô phân biệt
không nhiễm như hư không, là vì (phần căn bản của nó) thoát ly mọi sự
chướng ngại, được gọi là thích ứng với sự được và thích ứng với
sự thành. 16. Trí vô phân biệt như hư không, là vì (phần hậu đắc của
nó) thường đi trong thế gian mà không bị mọi sự của thế gian làm cho
ô nhiễm.
Thứ 13: Sai Biệt
Chính Văn.-
17. Như người câm muốn biết (mà
chưa biết, cũng không nói được), như người câm biết được (mà không
nói được), như người không câm biết được (và nói được): 3 phần của
trí vô phân biệt được ví dụ như vậy. 18. Như người ngu muốn biết,
như người ngu biết được, như người không ngu biết được: 3 phần của
trí vô phân biệt được ví dụ như vậy. 19. Như 5 thức muốn biết, như
5 thức biết được, như ý thức biết được: 3 phần của trí vô phân biệt
được ví dụ như vậy. 20. Như người chưa hiểu luận văn mà muốn hiểu,
như người hiểu được, như người hiểu được mà dạy được: tuần tự
ví dụ cho 3 phần da hành, căn bản và hậu đắc của trí vô phân biệt.
Nên biết như vậy.
Thứ 14: Thí Dụ
Chính Văn.-
21. Như người nhắm mắt, phần
căn bản của trí vô phân biệt cũng là như vậy; như người ấy mở mắt,
phần hậu đắc của trí vô phân biệt cũng là như vậy. 22. Nên biết như
hư không, phần căn bản của trí vô phân biệt cũng là như vậy; như trong
hư không ấy hiện mọi hình sắc, phần hậu đắc của trí vô phân biệt
cũng là như vậy.
Thứ 15: Tác Sự
Chính Văn.-
23. Như ngọc như ý và nhạc khí chư
thiên, không tư lượng mà vẫn thành việc: mọi việc Phật làm, thành mà
không tư lượng thì cũng như vậy.
Thứ 16: Thậm Thâm
Chính Văn.-
24. Không phải chính nơi pháp tánh
chân như mà cũng không phải nơi nào khác, không phải trí mà là trí; vì
cùng với pháp tánh chân như không khác gì nhau, nên trí vô phân biệt
thành vô phân biệt. 25. Nên biết pháp tánh của các pháp là không phân biệt:
sở phân biệt là không nên trí vô phân biệt cũng không.
Tiết 2: Nói Chi Tiết
Chính Văn.-
Ở đây trí vô phân biệt phần da
hành có 3 thứ: do nhân tố, do dẫn ra, do tập luôn, và đó là do sự phát
sinh mà có khác nhau (150) . Trí vô phân biệt phần căn bản có 3 thứ: đã
đầy đủ, không thác loạn, không hý luận, và đó là do sự không phân biệt
mà có khác nhau (151) . Trí vô phân biệt phần hậu đắc có 5 thứ: thông
suốt, tùy nghĩ, thiết lập, tổng hợp, đúng ý, và đó là do sự tư trạch
mà có khác nhau (152) .
Mục 1: Dẫn Kinh Đại
Thừa A Tì Đạt Ma Nói Về Không Phải Thật
Chính Văn.-
Lại có 6 bài chỉnh cú xác lập
trí vô phân biệt như vậy: 1. Ngạ quỉ, bàng sinh, cùng với chư thiên,
nhân loại, mỗi loài tùy thích ứng mà sự đồng đẳng nhưng tâm khác biệt,
nên tôi cho rằng biến kế là không thật. 2. Quá khứ, vị lai, mộng ảnh,
2 ấn tượng của hiện cảnh và trong định, tuy đối tượng không thật
có mà ấn tượng vẫn thành tựu. 3. Nếu sự mà thật thì không có trí
vô phân biệt, không có trí ấy mà nói Phật quả chứng đắc thì vô lý.
4. Bồ tát được định tự tại thì do thắng giải lực mà muốn đất
v/v thành gì cũng thành cả. Những người đắc định khác cũng vậy. 5. Thành
tựu sự quyết trạch là có trí mà được định, thì tư duy các pháp, tư
duy thế nào biểu hiện như thế. 6. Trí vô phân biệt mà hiện hành thì mọi
sự không hiển hiện, mà sự không thì thức cũng không (153) .
Mục 2: Dẫn Kinh
Bát Nhã Ba La Mật Đa Nói Về Không Phải Chỗ
Chính Văn.-
Tuệ ba la mật với trí vô phân biệt
không khác gì nhau, như nói bồ tát đứng nơi bát nhã ba la mật không
thích ứng 5 chỗ thì tu tập viên mãn 5 ba la mật khác. Như thế nào gọi
là không thích ứng 5 chỗ mà tu tập viên mãn? Là do xa lìa 5 chỗ sau đây.
Một là xa lìa chỗ chấp ngã của ngoại đạo. Hai là xa lìa chỗ phân biệt
của bồ tát chưa thấy chân như. Ba là xa lìa chỗ nhị biên của sinh tử
với niết bàn. Bốn là xa lìa chỗ mừng đủ của sự chỉ dứt phiền não
chướng. Năm là xa lìa chỗ niết bàn vô dư y không còn đoái hoài gì đến
lợi ích yên vui cho chúng sinh.
Tiết 4: Nói Thù Thắng
Chính Văn.-
Trí thanh văn với trí bồ tát khác
gì nhau? Do 5 sắc thái sau đây mà khác nhau, nên biết như vậy. Một là
khác vì không phân biệt, tức không phân biệt các pháp 5 uẩn v/v. Hai là
khác vì không phải phần ít, tức thông đạt chân như, nhập vào lĩnh vực
tất cả chủng loại, phổ độ tất cả chúng sinh, chứ không phải chỉ
có phần ít mà thôi. Ba là khác vì vô trú, tức lấy niết bàn vô trú làm
chỗ cư trú. Bốn là khác vì rốt ráo, tức trong niết bàn vô dư y mà
không có cùng tận. Năm là khác vì vô thượng, tức trên cái trí vô phân
biệt của đại thừa này không còn thừa nào hơn nữa. Ở đây có 1 bài
chỉnh cú: Những bậc lấy đại bi làm bản chất, thì do cái trí có 5 sắc
thái hơn cả, mà trong sự thành mãn thuộc lĩnh vực thế gian hay sự thành
mãn thuộc lĩnh vực xuất thế, nên nói rằng những bậc ấy tối cao xa.
Chương 2: Giải
Nghi Về 3 Tăng Thượng
Chính Văn.-
Nếu các vị bồ tát thành tựu giới
tăng thượng, định tăng thượng và tuệ tăng thượng như vậy, công đức
viên mãn, tiền tài địa vị đều đại tự tại, thì tại sao hiện thấy
có người thiếu thốn tiền tài địa vị? Vì thấy người ấy có cái
nghiệp nặng trở ngại cho tiền tài địa vị, vì thấy người ấy nếu
được cho tiền tài địa vị thì chướng ngại cho thiện pháp thượng thặng,
vì thấy người ấy nếu thiếu thốn tiền tài địa vị thì chán bỏ hiện
hữu, vì thấy người ấy nếu được cho tiền tài địa vị thì dồn chứa
những nhân tố của pháp bất thiện, vì thấy người ấy nếu được cho
tiền tài địa vị thì thế là gây ra bao nhiêu nguyên nhân tổn hại người
khác: vì thế mà hiện thấy có người thiếu thốn tiền tài địa vị.
Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Thấy có nghiệp rất nặng, thấy sinh ra chướng
ngại, thấy không chán hiện hữu, thấy dồn chứa nhân ác, thấy tổn hại
người khác, nên hiện có những người không cảm ứng với sự bố thí của
bồ tát.
Tiết 1: Nói Thể Tướng
Chính Văn.-
Như vậy là đã nói sự thù thắng
của tuệ tăng thượng rồi, còn sự thù thắng của đoạn đức của sự
tu tập làm sao thấy được? Đoạn đức là niết bàn vô trú của bồ
tát. Thể tướng của niết bàn ấy là xả bỏ tạp nhiễm mà không xả bỏ
sinh tử, chuyển y chỗ dựa của 2 phần (sinh tử và niết bàn). Ở đây,
sinh tử là phần tạp nhiễm nơi y tha, niết bàn là phần thanh tịnh nơi y
tha, chỗ dựa của 2 phần là y tha thông cả 2 phần. Chuyển y là chính y
tha khi nổi lên sự đối trị thì chuyển bỏ phần tạp nhiễm mà chuyển
được phần thanh tịnh.
Lược Giải.-
Niết bàn nghĩa là chính nơi y tha mà
chuyển bỏ biến kế tạp nhiễm, chuyển được viên thành thanh tịnh. Niết
bàn vô trú là bỏ tạp nhiễm (phiền não) mà không bỏ sinh tử, nên không
trú nơi sinh tử mà cũng không trú nơi niết bàn. Do vậy, niết bàn là chuyển
y.
Mục 1: Nói Chi Tiết
Chính Văn.-
Chuyển y như vậy đại lược có 6
trạng thái. Một là chuyển bằng sự bớt sức mạnh thêm khả năng, là do
thắng giải lực sống trong đa văn huân tập, lại do có sự hổ thẹn,
nên làm cho phiền não chỉ hiện hành một phần ít, còn một phần không
hiện hành. Hai là chuyển bằng sự thông đạt, là các vị bồ tát đã nhập
đại địa, (từ địa thứ nhất) đến địa thứ sáu, trước mắt chân
thật thì hiển hiện, phi chân thật thì không hiển hiện. Ba là chuyển bằng
sự tu tập, là (từ địa thứ bảy) đến địa thứ mười, còn có chướng
ngại, hữu tướng không hiển hiện mà chân thật thì hiển hiện. Bốn là
chuyển bằng sự viên mãn, là vĩnh viễn không còn chướng ngại, hữu tướng
không hiển hiện, chân thật tối thanh tịnh thì hiển hiện, đã được tự
tại đối với hữu tướng. Năm là chuyển một cách thấp kém, là các vị
thanh văn chỉ thông đạt được nhân không vô ngã, một bề chống sinh tử,
một bề bỏ sinh tử. Sáu là chuyển một cách rộng lớn, là các vị bồ
tát thông đạt cả pháp không vô ngã, chính nơi sinh tử mà thấy là thanh
tịnh, dẫu đoạn tạp nhiễm mà không bỏ sinh tử.
Lược giải.-
Sáu chuyển y, thứ 6 là đại thừa,
thứ 5 là tiểu thừa. Trong đại thừa lại có 4 chuyển y của 4 bồ tát vị:
giải hành vị, thông đạt vị, tu tập vị, cứu cánh vị.
Mục 2: Nói Mất
Được
Chính Văn.-
Nếu các bồ tát ở nơi sự chuyển
y thấp kém thì có lỗi lầm gì? Là không đoái hoài đến sự lợi ích
yên vui cho tất cả chúng sinh, trái bỏ tất cả các pháp bồ tát, chỉ giải
thoát như tiểu thừa thấp kém: đó là lỗi lầm mất mát. Nếu các bồ
tát ở nơi sự chuyển y rộng lớn thì có công đức gì? Là lấy chuyển y
của đại thừa làm chỗ dựa nên được tự tại trong sinh tử, thị hiện
thân hình chúng sinh trong tất cả nẻo đường sinh tử, đem những phương
tiện điều phục khéo léo là đời sống thù thắng (của nhân loại và chư
thiên) và giáo pháp 3 thừa (thanh văn duyên giác bồ tát) mà xây dựng cho
chúng sinh được giáo hóa: đó là công đức nhận được.
Tiết 1: Nói Về
Chuyển Y Giải Thoát
Chính Văn.-
Ở đây có 4 bài chỉnh cú: 1. Phàm
phu che khuất chân thật nên một bề hiển hiện hư vọng. Bồ tát xả bỏ
hư vọng nên một bề hiển hiện chân thật. 2. Nên biết hiển hiện với
không hiển hiện, chân thật với hư vọng, hễ chuyển y thì giải thoát,
tùy ý mà tự tại.
Tiết 2: Nói Về Niết Bàn Vô Trú
Chính Văn.-
3. Đối với sinh tử niết bàn, nếu
nổi lên cái trí bình đẳng, thì bấy giờ do đó mà chứng được sinh tử
tức niết bàn. 4. Do vậy, đối với sinh tử không phải xả bỏ không phải
không xả bỏ, cũng tức là đối với niết bàn không phải chứng đắc không
phải không chứng đắc.
Chương 1: Nói Thể
Tánh
Chính Văn.-
Như vậy là đã nói sự thù thắng
của đoạn đức của sự tu tập, còn sự thù thắng của trí đức của sự
tu tập thì làm sao thấy được? Do 3 loại thân Phật mà biết sự thù thắng
của trí đức: một là do tự tánh thân, hai là do thọ dụng thân, ba là do
biến hóa thân. Tựu trung, tự tánh thân là pháp thân của chư vị Như lai,
do các pháp tự tại chuyển chỗ y cứ; thọ dụng thân là dựa vào pháp
thân, ở tại chúng hội của chư Phật nơi tịnh độ (154) , thọ dụng pháp
lạc đại thừa; biến hóa thân là cũng dựa vào pháp thân, từ Đâu suất
thiên cung thị hiện ẩn mất, thọ sinh, thọ dục, vượt thành xuất gia,
đến chỗ ngoại đạo, tu các khổ hạnh, chứng đại bồ đề, chuyển đại
pháp luân, nhập đại niết bàn.
Tiết 1: Tổng Tiêu
Chính Văn.-
Ở đây có 1 bài chỉnh cú ôn đà
nam: Tướng, chứng đắc, tự tại, y chỉ, nhiếp trì, sai biệt, đức, thậm
thâm, niệm, nghiệp, nói về (pháp thân của) chư Phật.
Đoạn 1: Chuyển Y
Chính Văn.-
Pháp thân chư Phật lấy gì làm sắc
thái? Nên biết pháp thân đại lược có 5 sắc thái. Thứ nhất là sắc
thái chuyển y, là chuyển diệt y tha thuộc phần tạp nhiễm chướng ngại,
chuyển được y tha thuộc phần thanh tịnh, giải thoát chướng ngại, tự
tại với pháp.
Đoạn 2: Bạch Pháp
Thành Tựu
Chính Văn.-
Thứ hai là sắc thái bạch pháp
thành tựu, là do 6 ba la mật viên mãn mà được 10 tự tại. Tựu trung, sống
lâu tự tại, tâm thức tự tại và đồ dùng tự tại, là do viên mãn thí
ba la mật; nghiệp tự tại và sinh tự tại là do viên mãn giới ba la mật;
thắng giải tự tại là do viên mãn nhẫn ba la mật; nguyện tự tại là do
viên mãn tiến ba la mật; thần lực tự tại, thống nhiếp tất cả ngũ thông,
là do viên mãn định ba la mật; trí tự tại và pháp tự tại là do viên
mãn tuệ ba la mật (155) .
Đoạn 3: Vô Nhị
Chính Văn.-
Thứ ba là sắc thái vô nhị, là
có không không hai, vì các pháp không thật có mà chân không hiển lộ thì
thật có; là hữu vi vô vi không hai, vì không làm nghiệp và phiền não, nhưng
tự tại thị hiện là vẫn có làm; là mâu thuẫn đồng nhất không hai,
vì chỗ y cứ của chư Phật thì không dị biệt, nhưng vô lượng chúng
sinh hiện thành đẳng giác. Ở đây có 2 bài chỉnh cú: 1. Vì ngã chấp
không còn, nên trong pháp tánh không còn thấy có những cái thân riêng biệt.
Nhưng tùy theo cái thân chứng đắc riêng biệt ngày trước, nên thiết lập
ra khác nhau. 2. Khác nhau vì chủng tánh, vì không rỗng, vì viên mãn, vì
không đầu (156) , chỗ y cứ là pháp tánh thanh tịnh thì không riêng biệt,
nên chư Phật không phải nhiều mà cũng không phải một.
Đoạn 4: Thường
Trú
Chính Văn.-
Thứ tư là sắc thái thường trú,
vì chân như thì thanh tịnh, vì bản nguyện dẫn ra, vì việc đáng làm thì
không có cái thời kỳ kết thúc.
Đoạn 5: Bất Khả Tư Nghị
Chính Văn.-
Thứ năm là sắc thái bất khả tư
nghị, vì chân như thanh tịnh chỉ chứng đắc từ bên trong, vì không có sự
ví dụ nào của thế gian có thể ví dụ được, vì không phải là chỗ
mà mọi tầm tư có thể thấu đến.
Mục 2: Chứng Đắc
Chính Văn.-
Pháp thân như vậy làm sao chứng đắc
lúc đầu? Là do trí căn bản vô phân biệt và trí hậu đắc vô phân biệt
vin theo ấn tượng tổng quát của pháp đại thừa, khéo tu với 5 sắc
thái tu tập (157) , nơi tất cả bồ tát vị thì tích tụ tư lương phước
trí, đến kim cang dụ định thì phá được chướng ngại nhỏ nhiệm khó
phá, định này vô gián thoát ly tất cả chướng ngại nên chứng đắc
chuyển y.
Mục 3: Tự Tại
Chính Văn.-
Pháp thân do mấy thứ tự tại mà
tự tại? Đại lược do 5 thứ. Thứ nhất do sự tự tại về quốc độ,
về bản thân, về tướng hảo, về âm thanh vô biên, về tướng vô kiến
đảnh, ấy là do chuyển chỗ y cứ của sắc uẩn. Thứ hai do sự tự tại
về cái vui rộng lớn, không tội lỗi và không số lượng, ấy là do chuyển
chỗ y cứ của thọ uẩn. Thứ ba do sự tự tại về hùng biện tất cả
danh thân, cú thân và văn thân, ấy là do chuyển chỗ y cứ của tưởng uẩn.
Thứ tư do sự tự tại hóa hiện, biến đổi, dẫn nhiếp đại chúng, dẫn
nhiếp bạch pháp, ấy là do chuyển chỗ y cứ của hành uẩn. Thứ năm do sự
tự tại về đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quan sát trí,
thành sở tác trí, ấy là do chuyển chỗ y cứ của thức uẩn.
Mục 4: Y Chỉ
Chính Văn.-
Pháp thân y cứ vào mấy chỗ? Đại
lược vào 3 chỗ. Thứ nhất do những chỗ y cứ của Phật cư trú. Ở đây
có 2 bài chỉnh cú: 1. Chư Phật được 5 thứ tánh hỷ là do đẳng chứng
pháp tánh, (các vị thanh văn) không được 5 thứ tánh hỷ là do không đẳng
chứng pháp tánh ấy; nên ai cầu 5 thứ tánh hỷ thì phải đẳng chứng pháp
tánh. 2. Một là năng lực vô lượng, hai là sự thành vô lượng, ba là
pháp vị viên mãn, bốn là nghĩa đức viên mãn, được 4 sự tánh hỷ này
thì tối thắng, không tội lỗi, năm là thấy thường vô tận (158) . Thứ
hai do những chỗ y cứ của thọ dụng thân, chỉ để thành thục cho các vị
bồ tát. Thứ ba do những chỗ y cứ của biến hóa thân, phần nhiều để
thành thục cho các vị thanh văn v/v.
Mục 5: Nhiếp Trì
Chính Văn.-
Nên biết pháp thân do mấy Phật
pháp nhiếp trì? Đại lược do 6 Phật pháp. Một, do thanh tịnh, là chuyển
a lại da mà được pháp thân. Hai, do dị thục, là chuyển sắc căn mà được
trí diể thục. Ba, do an trú, là chuyển sự ở nơi ngũ dục mà được ở
nơi 4 vô lượng tâm. Bốn, do tự tại, là chuyển sự tự tại của các
nghiệp vụ tiếp thu mà được sự tự tại của cái trí thần thông vô ngại
qua lại trong mọi thế giới. Năm, do ngôn ngữ, là chuyển ngôn ngữ hý luận
của mọi thứ thấy nghe hay biết mà được sự tự tại của cái trí
hùng biện làm cho lòng chúng sinh vui vẻ. Sáu, do bạt tế, là chuyển sự cứu
vớt mọi thứ tai nạn lầm lỗi mà thành cái trí cứu vớt tất cả tai nạn
lầm lỗi cho tất cả chúng sinh. Nên biết pháp thân được 6 pháp như vậy
của Phật thu giữ.
Mục 6: Sai Biệt
Chính Văn.-
Pháp thân chư Phật nên nói khác
nhau? hay nên nói không khác? Vì chỗ y cứ (là pháp tánh thanh tịnh), vì ý
lạc (cùng muốn cứu độ chúng sinh) và vì việc làm (cứu độ chúng sinh)
không khác nhau, nên nên nói không khác; nhưng vô lượng chúng sinh thành bậc
đẳng giác, nên nên nói có khác. Nói pháp thân như vậy thì nói thọ dụng
thân cũng vậy: ý lạc và việc làm không khác nhau, nên nên nói không
khác; nhưng không phải chỉ do chỗ y cứ không khác nhau, mà còn vô lượng
thân thể khác nhau (nên nên nói có khác). Nên biết biến hóa thân nên nói
như thọ dụng thân.
Đoạn 1: Nói Các
Đức
Chính Văn.-
Pháp thân thích ứng với mấy đức?
Thích ứng với 20 công đức tối thanh tịnh: 4 tâm vô lượng, giải thoát,
thắng xứ, biến xứ, vô tránh, nguyện trí, 4 trí vô ngại, 6 thần thông,
30 tướng đại trượng phu, 80 tùy hình hảo, 4 tất cả tướng thanh tịnh,
10 lực, 4 vô úy, 3 bất hộ, 3 niệm trú, bạt nhổ tập khí, sự không
quên mất, đại bi, 18 pháp bất cọng, nhất thế tướng diệu trí. Ở đây
có 16 bài chỉnh cú (nói về 20 công đức mới kê): 1. Kính lạy đấng
thương xót chúng sinh, phát khởi 4 thứ ý lạc: muốn chúng sinh hòa đồng
cái vui, muốn chúng sinh xa lìa nỗi khổ, muốn chúng sinh không mất hoan hỷ,
muốn chúng sinh hưởng mọi lợi lạc (159) . 2. Kính lạy đấng giải thoát
hết thảy chướng ngại, bậc thánh hơn cả thế gian, tuệ giác cùng khắp
các pháp, đấng tâm giải thoát như vậy (160) .
Chính Văn.-
3. Kính lạy đấng diệt được cho
chúng sinh tất cả mê hoặc, không còn thừa sót, tổn hại phiền não, thường
xuyên thương xót những người còn có ô nhiễm (161) . 4. Kính lạy đấng
không còn dụng công, không còn vướng mắc, không bị ngăn ngại, thường
xuyên tịch định, giải đáp gạn hỏi (162) .
Chính Văn.-
5. Kính lạy đấng đối với sự
được nói là giáo pháp sở y và nghĩa lý năng y, đối với sự nói là
ngôn từ và trí tuệ, đều sử dụng tuệ giác vô ngại mà thường khéo
thuyết pháp (163) . 6. Kính lạy đấng vì khéo giáo hóa chúng sinh nên thị
hiện phi hành, biết rõ ngôn âm, biết rõ tâm hành, biết rõ quá khứ, biết
rõ vị lai, ra khỏi phiền não (164) .
Chính Văn.-
7. Kính lạy đấng khai đạo, chúng
sinh nhìn thấy Ngài thì ai cũng biết chắc chắn đó là bậc Thiện sĩ, và
nhìn thấy chốc lát cũng tin tưởng sâu xa (165) . 8. Kính lạy đấng chứng
đắc (4 sự thanh tịnh toàn bộ), đó là tùy ý giữ hay bỏ sự sống lâu
của thân mạng, biến hóa chất và biến đổi hình của thế giới, định
tâm và trí giác hoàn toàn tự tại (166) .
Chính Văn.-
9. Kính lạy đấng chế ngự ma
vương, kẻ lừa dối chúng sinh trong 4 sự: phương tiện, qui y, thanh tịnh và
xuất ly (167) . 10. Kính lạy đấng ngoại đạo không thể thắng được, vì
tự lợi thì nói về trí đức và nói về đoạn đức, lợi tha thì nói về
xuất ly và nói về chướng ngại (168) .
Chính Văn.-
11. Kính lạy đấng chế ngự đại
chúng, bằng cách ở trong đại chúng thuyết pháp một cách điều phục sự
chỉ trích của họ; Ngài lại rời bỏ 2 sự dơ bẩn là ưa khen ghét chê.
Ngài không phải giữ gìn cái gì, cũng không có sự quên mất (169) . 12.
Kính lạy đấng không lúc nào không biến giác chân lý, nên khắp trong mọi
cử động đi đứng nằm ngồi toàn là sự dụng của trí giác viên minh
(170) .
Chính Văn.-
13. Kính lạy đấng không có sự
lãng quên: trong sự lợi ích yên vui cho chúng sinh, việc Ngài làm thường
xuyên không lỡ cơ hội và không vô hiệu quả (171) . 14. Kính lạy đấng tâm
ý lợi lạc chúng sinh, bằng cách ngày đêm 6 buổi quan sát toàn thể thế
giới, sự quan sát đi đôi với tâm đại bi (172) .
Chính Văn.-
15. Kính lạy đấng hơn hết tất cả
thanh văn duyên giác, do hành do chứng do trí do nghiệp của Ngài (173) . 16.
Kính lạy đấng hủy diệt nghi hoạĂc cho hết thảy mọi người ở khắp
mọi nơi, vì Ngài đã chứng đắc trí đại bồ đề đủ mọi phẩm chất,
nghĩa là thủ đắc tất cả 3 thân (174) .
Đoạn 2: Nói 6 Đức
Chính Văn.-
Pháp thân chư Phật, ngoài sự
thích ứng với các đức như trên, lại còn thích ứng với 6 đức: tánh,
nhân, quả, nghiệp, tương ưng, chuyển hiện. Do đó pháp thân chư Phật viên
mãn công đức vô thượng, nên biết như vậy. Ở đây có 2 bài chỉnh cú:
1. và 2. (Tánh là chứng đắc) viên thành thắng nghĩa, (nhân là tu tập) tất
cả các địa mà xuất sinh, (quả là) đạt đến vị trí trên hết tất cả
chúng sinh, (nghiệp là) giải thoát cho tất cả chúng sinh, (tương ưng là)
thích ứng với các đức vừa vô tận vừa vô đẳng, (chuyển hiện là hiện
biến hóa thân thì) thế gian thấy được, (hiện thọ dụng thân thì) đại
hội bồ tát thấy được, (nhưng tự tánh thân thì) không phải nhân loại
chư thiên v/v được thấy.
Mục 8: Sâu Xa
Chính Văn.-
Pháp thân chư Phật rất sâu xa, cực
kỳ rất sâu xa, trạng thái rất sâu xa ấy làm sao thấy được? Ở đây
có 12 bài chỉnh cú: 1. Chư Phật thì không thọ sinh mà thọ sinh, không trú
ở mà trú ở, việc làm thì toàn là không còn dụng công, và ăn là sự
ăn thứ tư (175) . 2. Không khác nhau mà cùng không số lượng, không số lượng
nhưng cùng làm một việc như nhau, và việc làm có loại không thường xuyên,
có loại thường xuyên, nên Phật thì đủ cả 3 thân (176) .
Chính Văn.-
3. Sự hiện hành đẳng giác thì
không phải có, sự giác ngộ toàn bộ thì không phải không; trong mỗi ý
nghĩ có vô số lượng chúng sinh do sự có với sự không mà hiển lộ ra
(là đức Phật) (177) . 4. Không phải ô nhiễm mà không phải tách rời ô
nhiễm, do dục mà được xuất ly; biết dục là không dục, ngộ nhập
pháp tánh của dục (178) .
Chính Văn.-
5. Chư Phật siêu quá các uẩn mà
an trú trong các uẩn: Phật cùng với uẩn không phải đồng nhất không phải
dị biệt, không xả bỏ mà khéo vắng lặng (179) . 6. Chư Phật thì việc
làm viên dung như nước vào biển cả, nên ta đã làm, ta đang làm, ta sắp
làm, chư Phật không có lối tư duy như vậy (180) .
Chính Văn.-
7. Chúng sinh vì tội chướng mà
không hiện thấy Phật, như đồ bể thì không có nước và được mặt
trăng hiện ra. Ánh sáng chánh pháp của Phật tựa như mặt trời soi khắp
thế gian, (nhưng chúng sinh tội chướng thì như người mù không thấy được
ánh sáng ấy). (181) . 8. Hoặc thị hiện thành đẳng giác, hoặc thị hiện
nhập niết bàn, như lửa khi đỏ khi tắt. (Nhưng lửa khi đỏ khi tắt mà)
không bao giờ không có, chư Phật cũng vậy, vì Phật thì thường trú (182)
.
Chính Văn.-
9. Trong pháp phi thánh, trong nhân loại
và các nẻo ác, trong pháp phi phạn hạnh, Phật an trú trong tự thể tối
thắng (183) . 10. Phật hiện hành khắp nơi mà cũng không hiện hành một nơi
nào; thân Phật hiện hành mọi nơi, sự đó không phải 6 giác quan biết
được (184) .
Chính Văn.-
11. Phiền não bị đàn áp chứ
không bị hủy diệt, như độc tố bị chú lực vô hiệu hóa. Nên bồ tát
để lại phiền não, cho đến khi phiền não hết hẳn thì chứng được trí
toàn giác của Phật (185) . 12. Phiền não trở thành giác phần, sinh tử mà
làm niết bàn: vì đủ đại phương tiện như vậy nên Phật thì bất khả
tư nghị (186) .
Chính Văn.-
Nên biết 12 bài chỉnh cú như trên
là nói sự sâu xa có 12 thứ: sự sâu xa về sinh, trú, nghiệp và ăn, sự sâu
xa về an lập, số lượng và việc làm, sự sâu xa về hiện thành đẳng
giác, sự sâu xa về ly dục, sự sâu xa về đoạn diệt các uẩn, sự sâu
xa về thành thục chúng sinh, sự sâu xa về hiển hiện của Phật, sự sâu
xa về thị hiện thành đẳng giác và nhập niết bàn, sự sâu xa về an
trú, sự sâu xa về thị hiện bản thân, sự sâu xa về đoạn diệt phiền
não, sự sâu xa về bất khả tư nghị.
Đoạn 1: Nói Về Niệm Phật
Chính Văn.-
Nếu các bồ tát niệm pháp thân của
Phật, thì nên niệm bằng mấy mặt? Đại lược mà nói, thì bồ tát niệm
pháp thân của Phật bằng 7 mặt sau đây. Một là chư Phật hoàn toàn tự
tại đối với tất cả các pháp, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì
thần thông vô ngại đối với toàn thể các thế giới hệ. Ở đây có 1
bài chỉnh cú: Chúng sinh vô lượng, nhưng có người đủ mọi chướng ngại,
có người thiếu các yếu tố, lại có những người bị 2 loại quyết định
là nghiệp chướng và báo chướng, đối với mọi người như vậy thì Phật
không thể tự tại. Hai là thân chư Phật thường trú, nên niệm Phật như
vậy, vì Phật thì chân như đã vô gián thoát hết dơ bẩn. Ba là chư Phật
tối thắng, không tội lỗi, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì tất cả
phiền não chướng và sở tri chướng đều đã thoát ly. Bốn là chư Phật
không còn dụng công, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì không còn dụng
công mà mọi việc Phật làm đều không ngừng nghỉ. Năm là chư Phật hưởng
thụ rất giàu vui, nên niệm Phật như vậy, vì tịnh độ của Phật thì rất
giàu vui. Sáu là chư Phật rời hết ô nhiễm, nên niệm Phật như vậy, vì
Phật thì sống trong đời mà việc đời không thể ô nhiễm. Bảy là chư
Phật làm thành việc lớn, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì thị hiện
thành đẳng giác, thị hiện nhập niết bàn, v/v, tất cả chúng sinh ai chưa
thành thục thì Phật làm cho thành thục, ai thành thục rồi thì Phật làm
cho giải thoát. Ở đây có 2 bài chỉnh cú: 1. và 2. Tự tại, thường trú,
thanh tịnh, không còn dụng công, cho chúng sinh đại pháp lạc, sống khắp
nơi mà không bị ô nhiễm, lợi ích đồng đẳng cho bao chúng sinh: chư Phật
viên mãn những mặt như vậy, người có trí nên niệm chư Phật về mọi
mặt ấy.
Đoạn 2: Nói Về Tịnh
Độ
Chính Văn.-
Sắc thái của Phật độ thanh tịnh,
làm sao biết được? Như trong phẩm tựa của kinh Bách thiên, thuộc bồ
tát tạng, đã nói. Rằng đức Thế tôn ở trong đại cung điện, nơi được
cấu trúc bằng 7 chất liệu quí báu rực rỡ hơn hết, phóng ánh sáng lớn
chiếu khắp vô biên quốc độ (1. hiển sắc viên mãn), nơi có vô số khu
vức được trang sức tuyệt diệu và vị trí xen nhau (2. hình sắc viên
mãn), nơi mà hình lượng tràn đầy một cách vô giới hạn và khó ước tính
(3. phần lượng viên mãn), nơi mà hình lượng ấy siêu việt lĩnh vực 3 cõi
(4. phương sở viên mãn), nơi được tạo thành bởi loại thiện căn tối
thượng và siêu việt thế gian (5. nhân viên mãn), nơi lấy tâm thức cực
trong sạch và cực tự tại mà làm bản thể (6. quả viên mãn), nơi đức
Thế tôn đóng đô (7. chủ viên mãn), nơi các đại bồ tát vân tập (8. phụ
dực viên mãn), nơi vô số 8 bộ thường xuyên tùy tùng (9. quyến thuộc
viên mãn), nơi sống bằng sự vui thích mùi vị chánh pháp quảng đại (10.
nhiệm trì viên mãn), nơi xuất phát mọi sự ích lợi chân thật cho chúng
sinh (11. sự nghiệp viên mãn), nơi dứt tuyệt phiền não, tai nạn (12. nhiếp
ích viên mãn), nơi tách rời các loại ma (13. vô úy viên mãn), nơi được
sự trang hoàng của Phật, một sự trang hoàng vượt quá mọi sự trang
hoàng (14. trú xứ viên mãn), nơi lấy đại niệm, đại tuệ và đại hạnh
mà làm đường đi (15. lộ viên mãn), nơi lấy sự chỉ vĩ đại và sự
quán tinh tế mà làm cỗ xe (16. thừa viên mãn), nơi lấy sự không vĩ đại,
sự vô tướng vĩ đại và sự vô nguyện vĩ đại mà làm cửa vào (17.
môn viên mãn), nơi kiến thiết trên hoa sen chúa làm bằng ngọc lớn và
trang trí bởi vô số lượng công đức (18. y trì viên mãn). Như thế đó
là nói về 18 sự viên mãn (187) của Phật độ thanh tịnh. Thêm nữa, thọ
dụng Phật độ thanh tịnh như vậy thì một chiều sạch mầu, một chiều
yên vui, một chiều không tội, một chiều tự tại.
Lược Giải.-
Tịnh độ được nói ở đây là
thọ dụng độ, nói xác hơn là tha thọ dụng độ. Tịnh độ ấy là Hoa tạng
thế giới (tượng trưng bằng đại cung điện) trên Liên hoa đài tạng (tượng
trưng bằng đài hoa sen). Tịnh độ ấy có 18 sự viên mãn và 4 sự một
chiều.
Mục 10: Nghiệp
Chính văn.-
Nên biết pháp giới chư Phật,
trong mọi thì gian, làm được 5 việc. Một là cứu vớt tai nạn cho tất cả
chúng sinh, vì chúng sinh gặp Phật thì thoát được mọi tai nạn đui, điếc,
điên, cuồng, v/v. Hai là cứu vớt đường dữ, vì cứu vớt chúng sinh ra
khỏi chỗ dữ mà đặt vào chỗ lành. Ba là cứu vớt sự phi phương tiện,
vì làm cho ngoại đạo bỏ những phi phương tiện cầu được giải thoát,
mà đem họ để vào giáo pháp của đức Như lai. Bốn là cứu vớt thân kiến,
vì trao cho họ con đường siêu thoát 3 cõi. Năm là cứu vớt cỗ xe được
đi, vì cứu vớt các vị bồ tát muốn đi theo các cỗ xe khác, các vị
thanh văn thuộc loại không cố định, đem họ đặt cả vào trong đại thừa,
cho họ tu theo cỗ xe vĩ đại. Cũng nên biết nghiệp dụng của chư Phật
trong 5 việc này là rất bình đẳng. Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Vì nguyên
nhân, vì thân thể, vì chức nghiệp, vì khuynh hướng, vì hoạt động, vì
5 sự này riêng biệt nên việc làm khác nhau. Thế nhân vì 5 sự này mà việc
làm khác nhau, chư Phật không có 5 sự này nên không phải việc làm của
chư Phật khác nhau.
Tiết 1: Về Nhất
Thừa
Chính Văn.-
Nếu pháp thân, cái thân thích ứng
đầy đủ với công đức, của chư Phật không phải chung có với thanh văn
và duyên giác, thì vì ý gì Phật nói về nhất thừa? Ở đây có 2 bài chỉnh
cú: 1. Vì dẫn dắt cho một loại thanh văn và giữ gìn cho một số bồ
tát, nghĩa là do những người không cố định mà Phật nói về nhất thừa
(188) . 2. Vì pháp tánh, vô ngã và giải thoát thì đồng đẳng, vì những
người thuộc loại không cố định, vì thủ đắc 2 ý lạc, vì thanh văn và
duyên giác có một số chỉ là hóa thân, vì sự rốt ráo, vì 8 lý do này
mà Phật nói nhất thừa (189).
Tiết 2: Về Đồng
Thời Có Nhiều Phật
Chính Văn.-
Như vậy là chư Phật đồng nhất
pháp thân, thế nhưng Phật lại có nhiều vị, lý do có thể thấy được
là vì sao? Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Trong một thế giới không thể có 2
đức Phật, (nói như vậy vô lý), vì đồng thời có vô lượng người viên
thành quả vị Phật đà. Nếu nói vô lượng người ấy tuần tự kế nhau
thành Phật thì vô lý, nên đồng thời thành ra có nhiều Phật.
Tiết 3: Về Niết
Bàn Không Niết Bàn
Chính Văn.-
Làm sao biết, trong pháp thân, Phật
không rốt ráo có nhập niết bàn, cũng không rốt ráo không nhập niết
bàn? Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Vì tất cả chướng ngại đều đã giải
thoát, nên Phật rốt ráo có nhập niết bàn; nhưng việc làm của Phật
thì không bao giờ kết thúc, nên Phật rốt ráo không nhập niết bàn.
Tiết 4: Về Thọ Dụng
Thân Không Phải Tự Tánh Thân
Chính Văn.-
Tại sao thọ dụng thân không phải
chính là tự tánh thân? Vì 6 lý do. Một, vì thọ dụng thân là sắc thân
có thể thấy được. Hai, vì thọ dụng thân thì ở trong vô số chúng hội
của chư Phật khác nhau có thể thấy được. Ba, vì thọ dụng thân tùy sự
thấy của thắng giải mà tự tánh không cố định có thể thấy được.
Bốn, vì thọ dụng thân thì mỗi cái thấy khác nhau, tự tánh biến đổi
có thể thấy được. Năm, vì thọ dụng thân thì bồ tát thanh văn, cùng với
chư thiên v/v, mỗi chúng hội xen lẫn với nhau có thể thấy được. Sáu,
vì a lại da với các chuyển thức chuyển y không khác nhau, sự phi lý ấy
có thể thấy được. Nên nói thọ dụng thân của Phật chính là tự tánh
thân của Phật là không đúng lý (190) .
Tiết 5: Về Biến
Hóa Thân Không Phải Tự Tánh Thân
Chính Văn.-
Tại sao biến hóa thân không phải
chính là tự tánh thân? Vì 8 lý do. (Một và Hai), vì các vị bồ tát từ
lâu xa đến nay đã được định bất thoái, vậy sinh trong Đâu suất và
sinh trong nhân loại thì không đúng lý. (Ba), vì các vị bồ tát từ lâu xa
đến nay thường nhớ đời trước, vậy không biết chính xác về văn học
toán học, các kyՠnghệ gồm có kyՠnghệ ấn loát, về hưởng thụ trần dục,
thì không đúng lý. (Bốn), vì các vị bồ tát từ lâu xa đến nay đã biết
giáo pháp ác thuyết và giáo pháp thiện thuyết, vậy đến hỏi ngoại đạo
thì không đúng lý. (Năm), vì các vị bồ tát từ lâu xa đến nay đã khéo
biết chánh pháp tam thừa, vậy tu khổ hạnh của tà kiến thì không đúng
lý. (Sáu), vì các vị bồ tát bỏ cả vạn ức đại lục Thiệm bộ, chỉ
thành đẳng chánh giác và chuyển chánh pháp luân nơi một chỗ thì không
đúng lý. (Bảy), nếu nói không cần thị hiện thành đẳng chánh giác, chỉ
đem hóa thân mà làm việc Phật ở mọi nơi khác, vậy thì đáng lẽ chỉ
thành đẳng chánh giác ở Đâu suất, và tại sao không qui định trong tất
cả mọi đại lục Thiệm bộ cùng lúc đều có Phật xuất hiện; đã
không qui định như vậy thì không giáo cũng không lý. Dầu có nhiều hóa
thân cũng không trái gì với lời nói không có 2 đức Như lai cùng xuất hiện
(trong một thế giới), như 2 vị luân vương không cùng xuất hiện (một
lúc một chỗ), vì lẽ một 4 đại lục cũng nói là một thế giới. Ở đây
có 1 bài chỉnh cú: Hóa thân của Phật, (và những hóa thân khác) (190B) ,
nhiều chỗ nhập thai cùng lúc, vì để biểu thị đây là đấng Nhất thế
chủng trí thành đẳng chánh giác. (Tám), vì lợi lạc cho hết thảy chúng
sinh mà phát nguyện tu hành, chứng đại bồ đề, vậy rốt ráo niết bàn
thì không đúng lý, vì hạnh nguyện không hiệu quả thì thành ra có lỗi
(191) .
Lược Giải.-
Đoạn này chống lại lý thuyết tiểu
thừa nói hóa thân đã là pháp thân. Đức Phật mà nay gọi là đức Phật
trong lịch sử, đại thừa nói là hóa thân, chưa phải pháp thân.
Tiết 6: Về 2 Thân
Là Thường
Chính Văn.-
Thọ dụng thân và biến hóa thân của
Phật đã là vô thường, thì tại sao trong kinh nói thân Phật là thường?
Vì 2 thân nương dựa pháp thân, mà pháp thân là thường. Thêm nữa, vì thọ
dụng thân thì thường hằng thọ dụng đại thừa pháp lạc, không có ngừng
nghỉ, nhưng, như nói thường hưởng vui vẻ (mà thật không phải hưởng
luôn); vì biến hóa thân thì luôn luôn hóa hiện lợi ích chúng sinh, không
có vĩnh tuyệt, nhưng, như nói thường cho người ăn (mà thật không phải
cho luôn), sự thường của thân Phật nên biết cũng là như vậy.
Tiết 7: Về Biến
Hóa Thân Không Thường Trú
Chính Văn.-
Do 6 lý do mà biến hóa thân của chư
Phật thị hiện không thường còn. Một là việc làm đã hoàn tất, chúng
sinh thành thục đã giải thoát cả. Hai là muốn làm cho người bỏ cái
tâm lý không ưa niết bàn, thường cầu cái thân thường trú của Phật.
Ba là muốn làm cho người bỏ cái tâm lý khinh thường đức Phật, ý thức
chánh pháp sâu xa. Bốn là muốn làm cho người khát ngưỡng đức Phật một
cách sâu xa, nếu để họ thấy luôn thì sinh ra nhàm chán. Năm là muốn
làm cho người bản thân tinh tiến, biết đấng nói chánh pháp thì khó mà
gặp được. Sáu là muốn làm cho người cấp tốc thành thục, bản thân
tinh tiến, không cởi bỏ cái ách chánh pháp. Ở đây có 2 bài chỉnh cú:
1. và 2. Vì việc làm đã xong xuôi, vì để cho người bỏ cái tâm lý
không ưa niết bàn, bỏ cái tâm lý khinh thường đức Phật, mà khát ngưỡng
đức Phật một cách sâu xa, mà trong tâm tự sinh tinh tiến, vì làm cho người
cấp tốc thành thục, vì những lý do ấy mà chủ trương biến hóa thân của
Phật không rốt ráo thường trú.
Tiết 8: Về Thành
Phật Là Phải Có Dụng Công
Chính Văn.-
Pháp thân chư Phật vô thỉ đến
giờ phi diể biệt, phi số lượng, như vậy không cần vì chứng đắc pháp
thân ấy mà chúng sinh phải dụng công!? Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Phật
chứng đắc pháp thân phi dị biệt, phi số lượng, sự chứng đắc ấy là
nhân tố cho chúng sinh. Nếu chúng sinh loại bỏ sự tinh tiến dụng công,
thì sự chứng đắc ấy chẳng bao giờ thành nhân tố gì cả. Do đó, loại
bỏ nhân tố tinh tiến dụng công thì không đúng lý.
*
Chính Văn.-
Nhiếp đại thừa, một phẩm trong
kinh Đại thừa a tì đạt ma, tôi là Vô trước, đã lược giải hoàn tất.