Nhiếp Luận
HT. Thích Trí Quang dịch giải
3
Mục 1: Tổng Quát
Nêu Lên
Chính Văn.-
Đã nói căn cứ của các pháp sở
tri rồi, còn sắc thái của các pháp sở tri thì nên nhìn thấy như thế nào?
Các pháp sở tri đại khái có 3 thứ: một là y tha khởi tướng, hai là biến
kế chấp tướng, ba là viên thành thật tướng (60) .
Mục 2: Lược Giải
Y Tha
Chính Văn.-
Trong đây, y tha khởi tướng là
gì? Là các thức do a lại da làm chủng tử và thuộc về phân biệt hư vọng
(61) . Các thức ấy là gì? Là thức thân, thức chủ thể của thân, thức
chủ thể của sự tiếp nhận, thức được tiếp nhận, thức tiếp nhận,
thức thì gian, thức số mục, thức thế giới cư trú, thức nói năng, thức
mình người, thức đường lành đường dữ (62) . Tựu trung, thức thân cho
đến thức nói năng là do chủng tử của danh ngôn huân tập, thức mình người
là do chủng tử của ngã kiến huân tập, và thức đường lành đường dữ
là do chủng tử của hữu chi huân tập. Các thức như vậy là cái y tha khởi
tướng thống thuộc 3 cõi 5 đường và 3 tạp nhiễm, là được biểu hiện
bởi phân biệt hư vọng. Như vậy, các thức này thống thuộc phân biệt hư
vọng, đặc tính là duy thức, làm căn cứ cho sự biểu hiện không có và
không thực. Như thế đó gọi là y tha khởi tướng.
Lược Giải.-
Nói tổng quát, y tha khởi tướng là
do chủng tử a lại da phát sinh, là biểu hiện của phân biệt hư vọng, là
căn cứ của sự không thực.
Mục 3: Lược Giải
Biến Kế
Chính Văn.-
Trong đây, biến kế chấp tướng là
gì? Là nơi sự không thật, duy thức, mà biểu hiện như là thật có.
Lược Giải.-
Biến kế là nơi y tha (nơi sự không
thật, duy thức) mà chấp ngã pháp thật có (biểu hiện như là thật có).
Mục 4: Lược Giải
Viên Thành
Chính Văn.-
Trong đây, viên thành thật tướng
là gì? Là chính nơi y tha khởi mà cái ấn tượng như là thật có vĩnh viễn
không còn.
Lược Giải.-
Viên thành là nơi y tha mà không
còn biến kế ngã pháp (ấn tượng như là thật có vĩnh viễn không còn).
Sự lược giải 3 tướng ở đây,
cho thấy y tha là chính. Y tha là các pháp do nhân duyên (do a lại da) mà có,
dầu là có một cách tương đối. Nơi y tha mà thấy ngã thấy pháp thì đó
là biến kế, có mà chỉ có với vọng chấp, gọi là tình có lý không. Nơi
y tha mà ngã pháp biến kế không còn là viên thành, có mà là có với tuệ
giác, gọi là tình không lý có. Tuy nhiên, đặc biệt về viên thành, phải
nói rõ là nhị không sở hiển (cái được lộ ra khi ngã và pháp đã
không).
Đoạn 1: Lặp Lại
11 Thức Để Thống Nhiếp Các Pháp
Chính Văn.-
Trong 11 thức, thức thân, thức chủ
thể của thân, và thức chủ thể của sự tiếp nhận, nên biết rằng đó
là 6 giác quan ở trong, tức nhãn căn, nhĩ căn, v/v; thức được tiếp nhận,
nên biết rằng đó là 6 đối cảnh ở ngoài, tức sắc cảnh, thanh cảnh,
v/v; thức tiếp nhận, nên biết rằng đó là 6 nhận thức, tức là nhãn thức,
nhĩ thức, v/v. Ngoài ra, các thức khác, nên biết rằng đó là sự sai biệt
của các thức trên đây.
Lược Giải.-
Thống nhiếp các pháp vào 11 thức
như sau. Một, 3 thức đầu là 6 căn, thức thứ 4 là 6 cảnh, thức thứ 5
là 6 thức. Hai, 6 thức còn lại là chi tiết của 6 căn 6 cảnh và 6 thức.
Thống nhiếp như vậy thì chữ các thức chính là chữ các pháp.
Thứ 1: Biểu Thị
Bằng Ví Dụ
Chính Văn.-
Các thức như vậy toàn là duy thức,
không thật. Sự thể này lấy gì ví dụ để biểu thị? Nên biết rằng lấy
chiêm bao v/v làm ví dụ để biểu thị. Là như trong chiêm bao hoàn toàn
không thật, chỉ độc có thức. Dầu có đủ thứ sắc thanh hương vị xúc,
nhà rừng đất núi, biểu hiện như thật, nhưng tựu trung hoàn toàn không
thật. Do sự ví dụ này biểu thị, theo đó nên nhận thức rằng lúc nào
chỗ nào cũng toàn là thức. Chữ v/v, nên biết còn có những ví dụ như
ảo thuật lừa dối, như hươu nai khao khát, như mắt bịnh hoa nhòe, v/v.
Khi thức tỉnh thì lúc nào chỗ
nào cũng thấy như chiêm bao, cũng thấy duy thức, như chiêm bao thức tỉnh
rồi biết trong chiêm bao toàn là thức cả, thế thì bây giờ chúng ta đang
thức tỉnh đây, sao không thấy biết như vậy? Khi chân trí thức tỉnh mới
thấy biết như vậy. Như trong chiêm bao sự thấy biết như vậy không có,
nhưng chiêm bao thức tỉnh rồi sự thấy biết như vậy mới có. Khi chưa
được chân trí thức tỉnh sự thấy biết như vậy không có, được chân
trí thức tỉnh rồi sự thấy biết như vậy mới có.
Thứ 2: Tỷ Tri Bằng
Giáo Lý
Chính Văn.-
Ai chưa được chân trí thức tỉnh
thì đối với đạo lý duy thức làm sao đối chiếu biết được? Là do
giáo và lý mà đối chiếu để biết.
Giáo ở đây là trong kinh Thập địa,
đức Thế tôn đã nói 3 cõi như vầy toàn là duy tâm. Lại như trong kinh Giải
thâm mật, đức Thế tôn cũng đã nói như vậy. Trong kinh ấy, bồ tát Từ
thị hỏi đức Thế tôn, ấn tượng được thấy trong định, cùng với
tâm trong định, nên nói khác nhau hay nên nói không khác? Đức Thế tôn bảo
bồ tát Từ thị, nên nói không khác. Tại sao, vì ấn tượng ấy chỉ là
thức. Như lai nói cái thức biết chỉ do thức hiện. Bạch đức Thế tôn,
nếu ấn tượng trong định không khác với tâm trong định, thì tại sao
tâm ấy trở lại biết lấy tâm ấy? Từ thị, không có chút pháp nào lấy
được chút pháp nào, nhưng chính tâm ấy khi phát sinh như vậy thì có ấn
tượng như vậy biểu hiện. Tựa như chính bản chất làm duyên tố mà thấy
bản chất ấy, nhưng nói rằng tôi thấy ảnh tượng, lại cho ngoài bản
chất có cái ảnh tượng thấy riêng. Tâm ở đây cũng vậy; tâm ấy khi
phát sinh như vậy thì tựa như có ấn tượng như vậy biểu hiện được
thấy riêng ra.
Do cái giáo trên đây mà cái lý cũng
hiển lộ. Tại sao, vì trong tâm của định quán thấy những ấn tượng
như thây chết xanh ứ v/v, thì không có cái xanh ứ v/v nào khác, mà chỉ
là thấy lấy tâm mình. Do đạo lý này, đối với các thức, bồ tát nên
đối chiếu mà biết toàn là duy thức, không phải là đối cảnh thật có.
Cái ấn tượng xanh ứ v/v cũng không phải là đối cảnh do cái thức nhớ
thấy ra, vì là ấn tượng hiện hữu: 2 cái thức nhớ về nghe và nghĩ
cũng lấy ấn tượng quá khứ làm đối cảnh, nên ấn tượng ấy cũng là
duy thức. Do sự tỷ lượng như vậy, bồ tát tuy chưa được chân trí thức
tỉnh, cũng có thể đối chiếu mà biết về đạo lý duy thức.
Số 1: Nghi Về Sắc
Thì Không Phải Duy Thức
Chính Văn.-
Như vậy là đã nói các thức như
những ví dụ chiêm bao v/v. Chính trong sự ví dụ ấy mà thấy nhãn thức
v/v là duy thức. Thế nhưng nhãn thức v/v có sắc cảnh v/v, thì làm sao thấy
được sắc cảnh v/v cũng là duy thức? Hỏi như vậy thì cũng do giáo và
lý vừa nói ở trước mà thấy được.
Số 2: Nghi Về Sắc
Kiên Trú Liên Tục
Chính Văn.-
Nếu các thức như trên bản thể cũng
là thức, thì tại sao biểu hiện ra sắc chất trước sau như một, tồn tại
lâu dài, và liên tục không cách hở? Vì cùng với các pháp tạp nhiễm
thác loạn làm chỗ dựa. Nếu không phải như vậy thì sự thác loạn cho
là thật cái không thật đáng lẽ không có. Nếu không phải như vậy thì
2 chướng ngại phiền não và sở tri đáng lẽ không có. Và nếu không phải
như vậy thì các pháp thanh tịnh cũng đáng lẽ không có. Do đó (mà biết)
các thức chuyển hiện như vậy. Trong đây có 1 bài chỉnh cú: Hiện tượng
thác loạn và bản thể thác loạn nên cho là sắc thức và phi sắc thức
(63) , sự thể này không có thì mọi sự khác cũng không có.
Số 3: Nghi Về Sự
Hóa Hợp Của Các Thức
Chính Văn.-
Tại sao thức thân, thức chủ thể
của thân, thức chủ thể của sự tiếp nhận, thức được tiếp nhận,
thức tiếp nhận, 5 thức này cùng câu hữu và hóa hợp trong tất cả các
thân? Vì có thế mới viên mãn sự thọ dụng của đời sống.
Số 4: Nghi Về Sự
Biểu Hiện Sai Biệt
Chính Văn.-
Tại sao nói thức thì gian v/v chuyển
hiện sai biệt? Bởi vì vô thỉ đến giờ sự lưu chuyển của sinh tử không
có đứt mất (nên gọi là thức thì gian), vì cái thế giới chúng sinh
không có số lượng (nên gọi là thức số mục), vì cái thế giới thế
giới không có số lượng (nên gọi là thức thế giới cư trú), vì ngôn
ngữ được nói về sự việc được làm không có số lượng (nên gọi
là thức nói năng), vì căn thân được nắm giữ và hưởng thụ khác nhau
không có số lượng (nên gọi là thức mình người), vì những quả báo đáng
ưa và đáng ghét hưởng chịu khác nhau không có số lượng, và vì sự sống
chết khác nhau cũng không có số lượng (nên gọi là thức đường lành
đường dữ).
Thứ 1: Đa Thức Luận
Chính Văn.-
Làm sao xác lập các thức (64) như
vậy thành duy thức? Đại khái có 3 cách, một là do duy thức, vì không
cái gì thật cả; hai là do 2 phần, vì có tướng phần có kiến phần 2 thức
khác nhau; ba là do nhiều thứ, vì có nhiều thứ hành tướng sinh khởi. Tại
sao có 3 cách như vậy, bởi vì tất cả các thức không thật, nên có thể
xác lập duy thức; bởi vì có tướng phần và có kiến phần nên thành ra
2 mặt; bởi vì nhãn thức thì lấy sắc thức làm tướng phần, lấy thức
của nhãn thức làm kiến phần, cho đến thân thức thì lấy xúc thức làm
tướng phần, lấy thức của thân thức làm kiến phần, đến như ý thức
thì lấy các thức làm tướng phần, lấy thức của ý thức làm kiến phần
(65) - trong tướng phần ấy sắc thức làm tối sơ, pháp thức làm tối hậu,
vì ý thức là chủ thể phân biệt, sinh khởi tương tự tất cả các thức.
Trong đây có 1 bài chỉnh cú: Duy thức, 2 phần, nhiều thứ, hành giả quán
sát như vậy thì ý thức có thể ngộ nhập duy thức, rồi cái ý thức đó
cũng bị chế ngự và siêu thoát.
Lược Giải.-
Đa thức luận là căn cứ chuyển
thức mà xác lập duy thức, bằng 3 dạng. Dạng một "không thật",
là các pháp không có gì thật cả, nên toàn là duy thức. Dạng hai "2
phần", thì kiến phần là đối tượng hóa nhận thức, tướng phần là
nhận thức hóa đối tượng, nên là duy thức. Dạng ba "đa dạng"
(nhiều thứ) là 11 thức (tất cả các pháp) toàn liên hệ với thức, nên
đều duy thức.
Sau đa thức luận, sự xác lập duy
thức còn căn cứ ý thức luận, nhất là còn căn cứ bản thức (a lại
da). Cả 2 sự căn cứ này nên nói trước ở đây cho dễ hiểu. Căn cứ ý
thức luận mà xác lập duy thức là quy nạp chuyển thức lại nơi ý thức,
ý thức chủ phát mọi phân biệt và ấn tượng, nên đều là duy thức. Căn
cứ bản thức mà xác lập duy thức thì các pháp (11 thức) là tướng phần,
chuyển thức (ý thức và mọi thức nó dựa vào) là kiến phần, chủ thể
của tất cả 2 phần này là bản thức, nên toàn bộ là duy thức.
Số 1: Lấy Một Ý
Thức Mà Xác Lập Duy Thức
Chính Văn.-
Ở đây có một số vị nói chỉ
có một ý thức; một ý thức này phát sinh theo cái gì thì được tên cái
ấy, như tư nghiệp của ý mà gọi là thân nghiệp khẩu nghiệp. Thêm nữa,
khi ý thức phát sinh theo mọi cái sở y thì sinh ra nhiều thứ ấn tượng mà
qui nạp lại là 2 thứ ấn tượng: có thật và phân biệt (65B) . Và thêm nữa,
mọi chỗ, ý thức cũng phát sinh theo ấn tượng nó tiếp xúc, vì trong thế
giới có hình sắc thì chính ý thức dựa vào cái thân, như những sắc
căn đều dựa vào cái thân ấy.
Số 2: Dẫn Kinh
Làm Chứng Cho Sự Xác Lập Ấy
Chính Văn.-
Trong đây có 1 bài chỉnh cú: Đi xa
xôi, và đi một mình, không thân thể, và ngủ trong hang, ai điều phục
được cái tâm khó điều phục ấy, thì Như lai gọi là phạn chí chân thật.
Lại như trong kinh nói lĩnh vực mà 5 căn đi thì ý thức tiếp nhận được
hết, vì nó là chỗ dựa cho 5 căn. Thêm nữa, trong 12 xứ thường nói thì
6 thức gọi là ý xứ.
Đoạn 2: Căn Cứ
Tướng Kiến Của Bản Thức Mà Xác Lập Duy Thức
Chính Văn.-
Nếu chỗ nào qui định a lai da là
thức thật, thì ở đó tất cả 11 thức khác là tướng phần, ý thức
trong đó và mọi thức nó dựa vào là kiến phần. Do tướng phần vừa nói
là duyên tố phát sinh kiến phần vừa nói, nên khi sự tựa như thật có
biểu hiện, thì làm chỗ dựa cho kiến phần phát khởi. Như thế đó gọi
là xác lập các thức (các pháp) là duy thức.
Mục 3: Nói 4 Trí
Mà Xác Lập Duy Thức
Chính Văn.-
Mọi sự hiện tiền rõ ràng mà
không phải thật có, sự đó làm sao thấy được? Như đức Thế tôn đã
dạy, nếu bồ tát thành tựu 4 trí, thì có thể ngộ nhập duy thức chứ
không phải thực có. Một là cái trí biết sự mâu thuẫn, là biết như ngạ
quỉ, bàng sinh, cùng với chư thiên, nhân loại, cùng nơi một sự mà sự
thấy biết khác nhau. Hai là cái trí biết không có đối cảnh mà thức vẫn
có, là biết như quá khứ, vị lai, và những mộng ảnh mà vẫn có cái biết
biết chúng. Ba là cái trí biết đáng lẽ không dụng công mà vẫn không
thác loạn, là biết như cái biết biết đối cảnh hiện thời đáng lẽ
không thác loạn gì, không do dụng công mà vẫn biết đúng sự thật. Bốn
là được 3 cái trí tùy chuyển: thứ nhất là được cái trí tùy thắng
giải lực của định tự tại mà đối cảnh biểu hiện; thứ hai là được
cái trí tùy tác ý lực của tu pháp quán mà đối cảnh biểu hiện; thứ
ba là được cái trí tùy trí vô phân biệt mà thấy đối cảnh biểu hiện
không có gì là thật cả (66) . Do 3 cái trí ở đây với 3 cái biết ở
trên mà đạo lý đối cảnh không thật được xác lập.
Lược Giải.-
Đoạn này lấy mặt trái mặt phải,
mặt có mặt không, đặc biệt mặt biết và mặt được biết, chứng minh
các pháp không thật: không thật là duy thức.
Tiết 1: Giải
Thích 3 Tướng
Chính Văn.-
Nếu y tha là duy thức, làm chỗ dựa
cho đối cảnh không thật được biểu hiện ra, thì sao thành y tha? tại
sao gọi là y tha? Từ chủng tử huân tập mà phát sinh, do duyên tố khác như
vậy nên gọi là y tha; một sát na sau khi sinh ra, không có năng lực gì, (chỉ
dựa vào sự tương quan) mà vẫn tồn tại, nên gọi là y tha. Biến kế
thì dựa vào y tha, thật không có mà biểu hiện như có, thì sao thành biến
kế? tại sao gọi là biến kế? Vô số cái biết toàn là cái biết thác loạn
của ý thức biến kế, nên gọi là biến kế, bản thân thật không có, chỉ
có cái mà biến kế chấp, nên gọi là biến kế. Còn viên thành là biến
kế vĩnh viễn không còn, thì sao thành viên thành? tại sao gọi là viên
thành? Viên thành nghĩa là tánh không biến đổi, lại là đối tượng của
tuệ giác thanh tịnh, là tối thắng của tất cả thiện pháp: vì cái nghĩa
tối thắng này mà gọi là viên thành.
Tiết 2: Giải
Thích Riêng Biến Kế
Chính Văn.-
Có năng biến kế, có sở biến kế,
biến kế mới thành. Vậy ở đây năng biến kế là gì? sở biến kế là
gì? cái gì là tự tánh của biến kế? Nên nhận thức rằng ý thức (67)
là năng biến kế, vì nó là chủ thể phân biệt - Tại sao, vì nó lấy sự
danh ngôn huân tập của bản thân nó mà làm chủng tử, lại lấy sự danh
ngôn huân tập của tất cả 11 thức khác mà làm chủng tử, nên ý thức
có vô số cái biết và vô số sự phân biệt sinh ra, nó phân biệt kế đạt
khắp cả toàn thể, nên gọi là biến kế. Còn y tha là sở biến kế. Lại
biến kế làm cho y tha thành cái sở biến kế, nên biến kế được gọi là
biến kế chấp (68) . Biến kế chấp là nghĩa như vậy.
Thêm nữa, biến kế tại sao có thể
kế đạt khắp cả? Nó vin đối cảnh nào? Nó lấy đối tượng nào? Nó
do cái gì mà chấp trước? Nó lấy gì khởi lên ngôn ngữ ? Nó lấy gì
nói năng? Nó thêm lên cái gì? Nó vin tên gọi mà làm đối cảnh. Nó lấy
y tha mà làm đối tượng. Nó do vọng kiến mà chấp trước. Nó do sự tầm
cầu mà khởi lên ngôn ngữ. Nó do thấy nghe hay biết, 4 thứ nói ấy mà
nói năng. Nó thêm sự có nơi đối cảnh không thật có. Do tất cả những
điều trên đây mà nó có thể kế đạt khắp cả.
Chương 3: Nói Về
Sự Đồng Dị Của 3 Tướng
Chính Văn.-
Ba tánh khác nhau hay không khác? Nên
nói không phải khác nhau, hay không phải không khác. Bởi vì y tha do mặt
khác mà chính y tha ấy thành y tha, do mặt khác mà chính y tha ấy thành biến
kế, do mặt khác mà chính y tha ấy thành viên thành. Do mặt nào mà chính y
tha thành y tha? Là do chủng tử đã huân tập mà khởi ra. Do mặt nào mà
chính y tha ấy thành biến kế? Vì là đối tượng của biến kế, là sở
chấp của biến kế. Do mặt nào mà chính y tha là viên thành? Là tuyệt đối
không như cái có của đối tượng biến kế.
Tiết 1: Nói Chung
Phẩm Loại Của 3 Tướng
Chính Văn.-
Ba tánh, mỗi tánh có mấy thứ? Y
tha đại khái có 2 thứ: một là do chủng tử huân tập mà sinh ra, hai là
không cố định nhiễm hay tịnh. Do 2 thứ y tha như vậy nên gọi là y tha.
Biến kế cũng có 2 thứ: một là biến kế về tự tánh, hai là biến kế
về sai biệt (69) . Do 2 thứ biến kế như vậy nên gọi là biến kế. Viên
thành cũng có 2 thứ: một là tự tánh viên thành, hai là thanh tịnh viên
thành (70) . Do 2 thứ viên thành như vậy nên gọi là viên thành.
Tiết 2: Nói Riêng
Phẩm Loại Của Biến Kế
Chính Văn.-
Biến kế lại có 4 thứ: một là
biến kế về tự tánh, hai là biến kế về sai biệt, ba là biến kế rất
rành, bốn là biến kế không rành. Rất rành là biết rành danh từ, không
rành là không rành danh từ. Do vậy mà biến kế còn có 5 thứ nữa: một
là theo tên biến kế nghĩa, rằng cái tên như vậy thì có cái nghĩa như vậy;
hai là theo nghĩa biến kế tên, rằng cái nghĩa như vậy thì có cái tên như
vậy; ba là theo tên biến kế tên, tức biến kế những cái tên khác của
cái tên mà mình chưa biết nghĩa; bốn là theo nghĩa biến kế nghĩa, tức
biến kế những cái nghĩa khác của cái nghĩa mà mình chưa biết tên ; năm
là theo tên và nghĩa mà biến kế tên và nghĩa, tức biến kế danh như vậy
và nghĩa như vậy thì thể tánh là như vậy.
Tiết 3: Lược Nói
10 Thứ Phân Biệt
Chính Văn.-
Thống nhiếp tất cả phân biệt
thì đại lược có 10 thứ. Một là phân biệt căn bản, là a lại da. Hai
là phân biệt đối cảnh, là sắc thức v/v. Ba là phân biệt biểu hiện,
là nhãn thức và thức của nhãn thức v/v. Bốn là phân biệt đối cảnh
biến đổi, là biến đổi vì già v/v, vì cảm giác vui v/v, vì tham v/v, vì
thời tiết làm cho tàn tạ v/v, vì những nẻo đường dữ như nại la ca
v/v, vì những cõi như cõi Dục v/v. Năm là phân biệt biểu hiện biến đổi,
tức những sự biến đổi của những sự biến đổi kể trên. Sáu là
phân biệt người khác dẫn ra, tức nghe tà pháp với nghe chánh pháp khác
nhau. Bảy là phân biệt không đúng lý, là sự phân biệt của ngoại đạo
nghe tà pháp. Tám là phân biệt đúng lý, là sự phân biệt của những người
ở trong chánh pháp nghe chánh pháp. Chín là phân biệt chấp trước, là những
sự phân biệt thuộc loại tác ý không đúng lý, thích ứng với 62 tà kiến
lấy ngã kiến làm gốc. Mười là phân biệt tán động, là 10 thứ phân biệt
của bồ tát : thứ 1 là tán động không tướng, thứ 2 là tán động có tướng,
thứ 3 là tán động thêm lên, thứ 4 là tán động bớt đi, thứ 5 là tán
động đồng nhất, thứ 6 là tán động biệt lập, thứ 7 là tán động tự
tánh, thứ 8 là tán động sai biệt, thứ 9 là tán động lấy nghĩa theo tên,
thứ 10 là tán động lấy tên theo nghĩa. Để đối trị 10 thứ tán động
như vậy, các kinh của Bát nhã ba la mật đa đều nói đến trí vô phân biệt.
Như vậy, cả 2 phần sở trị và năng trị đều thâu nhiếp đủ cả các
nghĩa của Bát nhã ba la mật đa.
Tiết 1: Mặt Khác
Không Khác
Chính Văn.-
Nếu do những mặt khác nhau mà y
tha có 3 tánh, thì vì sao 3 tánh ấy không thành ra không khác gì nhau? Vì nếu
do mặt khác mà y tha thành y tha, thì không do chính mặt ấy mà y tha thành
biến kế và viên thành; nếu do mặt khác mà y tha thành biến kế, thì
không do chính mặt ấy mà y tha thành y tha và viên thành; nếu do mặt khác
mà y tha thành viên thành, thì không do chính mặt ấy mà y tha thành y tha và
biến kế.
Tiết 2: Tên Không
Xứng Thể
Chính Văn.-
Vì sao biết được, như y tha, biến
kế biểu hiện mà không xứng thể? Vì trước khi có cái tên thì cái biết
không có, vậy nói xứng thể là mâu thuẫn (với hiện thực); vì cái tên
có nhiều thứ, vậy nói nhiều thể là mâu thuẫn (với hiện thực); vì
cái tên không cố định, vậy nói tạp thể là mâu thuẫn (với hiện thực).
Trong đây có 2 bài chỉnh cú: 1. Vì trước khi có tên thì cái biết không
có, vì tên có nhiều thứ, vì tên không cố định, vậy nói xứng thể,
nhiều thể và tạp thể là mâu thuẫn (với hiện thực) 2. Biến kế không
mà thấy có, thì nên biết như ảo thuật; viên thành không ô nhiễm mà có
tịnh trừ thì cũng như hư không (71) .
Lược Giải.-
Chủ ý của đoạn này nói cái danh
đối với cái tướng của biến kế là không chính xác.
Tiết 3: Y Tha Toàn
Không
Chính Văn.-
Vì sao sự biểu hiện thật không
có, mà y tha không phải ở đâu và lúc nào cũng không có? Vì nếu y tha
không có thì viên thành cũng không có; y tha mà không có thì không có gì nữa.
Y tha với viên thành không có thì thành ra cái lỗi không có nhiễm với tịnh.
Nhưng nhiễm với tịnh là hiện có, thế nên không nên nói tất cả toàn
không. Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Y tha mà không thì không viên thành; tất
cả toàn không thì luôn luôn không có nhiễm tịnh.
Đoạn 1: Giải Thích
3 Tướng
Chính Văn.-
Chư vị Thế tôn đã nói giáo lý
cao rộng trong đại thừa. Giáo lý ấy nói nên nhận thức biến kế như thế
nào? Nên nhận thức rằng nếu dùng mặt khác thì nói là không thật có.
Nên nhận thức y tha như thế nào? Nên nhận thức ví như ảo thuật, sóng
nắng, chiêm bao, ảnh tượng, bóng sáng, tiếng dội, trăng nước, biến hóa.
Nên nhận thức viên thành như thế nào? Nên nhận thức là 4 pháp thanh tịnh.
Bốn pháp thanh tịnh là gì? Một là tự tánh thanh tịnh, tức là chân như,
không, thật tế, vô tướng, thắng nghĩa, pháp giới. Hai là ly cấu thanh tịnh,
là chính tự tánh thanh tịnh đã thoát ly tất cả chướng ngại dơ bẩn.
Ba là đắc thử thanh tịnh, là tất cả bồ đề phần pháp, ba la mật đa,
v/v. Bốn là sinh thử thanh tịnh, là pháp giáo đại thừa, vi diệu, chân
chánh - Pháp giáo này là cái mà tuệ giác thanh tịnh biết đến nên không
phải là biến kế, là cái từ pháp giới tối thanh tịnh đẳng lưu ra nên
không phải y tha. Bốn pháp như vậy thống nhiếp hết tất cả các pháp
thanh tịnh. Ở đây có 2 bài chỉnh cú: 1 và 2. Như ảo thuật v/v là nói về
(y tha) cái được sinh ra. Nói không thật là nói về (biến kế) sự được
kế chấp. Nói 4 thanh tịnh là nói về viên thành: tự tánh, ly cấu (72)
..., là cái mà tuệ giác thanh tịnh biết đến, và tất cả các pháp thanh
thịnh đều thống nhiếp trong 4 pháp thanh tịnh này.
Đoạn 2: Nói 8 Dụ
Y Tha
Chính Văn.-
Lại nữa, vì lý do gì mà trong kinh
nói những ví dụ y tha như ảo thuật v/v? Vì để loại bỏ những mối
nghi ngờ không đúng đối với y tha. Những mối nghi ngờ không đúng đối
với y tha là thế nào? Là họ nghi ngờ như vầy đối với y tha: (Một), tại
sao không thật mà lại thành ra đối tượng được biết? Vì loại bỏ
nghi ngờ này nên nói sự ví dụ ảo thuật. (Hai), tại sao không thật mà
có tâm và tâm sở sinh ra? Vì loại bỏ nghi ngờ này nên sự ví dụ sóng nắng.
(Ba), tại sao không thật mà có những sự hưởng chịu đáng ưa đáng ghét
khác nhau? Vì loại bỏ nghi ngờ này nên nói sự ví dụ chiêm bao. (Bốn), tại
sao không thật mà có những quả báo đáng ưa đáng ghét của thiện nghiệp
và ác nghiệp khác nhau? Vì loại bỏ nghi ngờ này nên nói sự ví dụ ảnh
tượng. (Năm), tại sao không thật mà có các thức phát sinh? Vì loại bỏ
nghi ngờ này nên nói sự ví dụ bóng sáng. (Sáu), tại sao không thật mà lại
có những ngôn ngữ phát sinh? Vì loại bỏ nghi ngờ này nên nói sự ví dụ
tiếng dội. (Bảy), tại sao không thật mà có đối tượng của các định
biết thật? Vì loại bỏ nghi ngờ này nên nói sự ví dụ trăng nước. (Tám),
tại sao không thật mà các vị bồ tát đem tâm trí không thác loạn cố ý
thọ sinh (trong sinh tử) để làm những sự lợi ích chúng sinh ? Vì loại bỏ
nghi ngờ này nên nói sự ví dụ biến hóa (73) .
Mục 2: Thông Thích
Kinh Phạn Vấn
Chính văn.-
Vì sao đức Thế tôn đã mật ý
nói như sau, trong kinh Phạn vấn: Như lai không sinh tử, không niết bàn? Ấy
là Ngài nói theo cái mật ý: nơi y tha, biến kế với viên thành, tức sinh
tử với niết bàn, không có sai khác. Tại sao, vì chính nơi y tha, do mặt
biến kế mà thành sinh tử, do mặt viên thành mà thành niết bàn.
Mục 3: Thông Thích
Kinh Đại Thừa A Tì Đạt Ma
Chính Văn.-
Trong kinh Đại thừa a tì đạt ma,
đức Thế tôn nói pháp có 3 thứ: một là tạp nhiễm, hai là thanh tịnh,
ba là hai phần ấy. Ngài đã căn cứ mật ý nào mà nói như vậy? Nơi y
tha, biến kế là tạp nhiễm, viên thành là thanh tịnh, và y tha khởi lên 2
phần ấy: đức Thế tôn đã căn cứ mật ý này mà nói như trên. Nghĩa này
có thể biểu thị bằng ví dụ nào? Có thể biểu thị bằng ví dụ khối
vàng đất. Như trong khối vàng đất có 3 thứ thấy được: một là địa
giới (74) , hai là đất, ba là vàng. Trong địa giới, đất không thật mà
hiện thấy có, còn vàng là thật thì không thấy; khi luyện bằng lửa thì
đất không còn mà vàng hiện ra. Thêm nữa, nơi địa giới, khi đất hiện
ra là hư vọng biểu hiện, khi vàng hiện ra là chân thật biểu hiện, nên
địa giới là cả 2 phần ấy; thức cũng vậy, khi lửa trí vô phân biệt
chưa đốt cháy nung luyện thì nơi thức ấy biến kế biểu hiện mà viên
thành không biểu hiện, khi thức ấy được lửa trí vô phân biệt đốt
cháy nung luyện thì nơi thức ấy viên thành biểu hiện mà biến kế không
biểu hiện. Do vậy, nơi y tha là cái thức phân biệt có cả 2 phần, như
trong khối vàng đất có cả 2 thứ vàng và đất.
Đoạn 1: Trường Hàng
Chính Văn.-
Đức Thế tôn có chỗ nói các
pháp thường, có chỗ nói các pháp vô thường, có chỗ nói các pháp không
phải thường không phải vô thường. Ngài đã dựa vào mật ý nào mà nói
như vậy? Nơi y tha, do viên thành nên thường, do biến kế nên vô thường,
do đủ cả 2 phần nên không phải thường không phải vô thường: đức Thế
tôn đã căn cứ mật ý này mà nói như vậy. Như thường, vô thường và
không phải cả hai, thì khổ, vui và không phải cả hai, tịnh, bất tịnh
và không phải cả hai, không, bất không và không phải cả hai, ngã, vô
ngã và không phải cả hai, tịch tịnh, không tịch tịnh và không phải cả
hai, có tự tánh, không tự tánh và không phải cả hai, sinh, bất sinh và
không phải cả hai, diệt, bất diệt và không phải cả hai, bản lai tịch
tịnh, không phải bản lai tịch tịnh và không phải cả hai, tự tánh niết
bàn, không phải tự tánh niết bàn và không phải cả hai, sinh tử, niết
bàn và không phải cả hai, cũng là như vậy. Đại loại như vậy, những sự
sai biệt mà toàn là ngôn ngữ mật ý của đức Thế tôn, hãy do 3 tánh mà
quyết liễu cho thích hợp, như trên đã nói tiết mục thường, vô thường.
Đoạn 2: Chỉnh Cú
Chính Văn.-
Ở đây có 5 bài chỉnh cú: 1. Như
các pháp thì thật không có, nhưng như các pháp biểu hiện thì không phải
một thứ: không phải pháp và không phải phi pháp như vậy, nên nói đến
cái nghĩa không hai. 2. Căn cứ một mặt nhiễm hay một mặt tịnh mà nói
thì hoặc có hoặc không phải có, nhưng căn cứ cả 2 mặt mà nói thì
không phải có không phải không có. 3. Như sự biểu hiện (của biến kế
thì) không phải có, nên nói là không; nhưng cũng do sự biểu hiện như vậy
nên nói là có. 4. (Vị lai thì sinh ra) không phải tự nhiên, (quá khứ qua rồi
thì) tự thể đã không, (còn hiện tại tuy có mà) tự tánh không cố định,
như sự chấp thủ (của biến kế) thì không có, (do 4 sự như vậy) nên chủ
trương rằng (các pháp) không có tự tánh. 5. Do sự không có tự tánh mà
làm căn cứ cho những kết luận sau đây : bất sinh bất diệt, bản lai tịch
tịnh, tự tánh niết bàn.
Tiết 2: Căn Cứ 4
Ý Thú Và Bí Mật Mà Lý Giải Mọi Phật Ngôn
Chính Văn.-
Lại có 4 thứ ý thú và 4 thứ bí
mật, đối với Phật ngôn, hãy tùy đó mà quyết liễu. Bốn ý thú, một
là ý thú bình đẳng, là như nói Như lai xưa kia, vào lúc ấy, chỗ ấy,
có danh hiệu là đấng chánh biến giác Thắng quán; hai là ý thú khác thì,
là như nói ai niệm danh hiệu đức Đa bảo như lai thì thế là đối với
tuệ giác vô thượng đã được quyết định, lại như nói chỉ cần phát
nguyện thì thế là vãng sinh thế giới Cực lạc; ba là ý thú khác nghĩa,
là như nói nếu đã gặp gỡ và phụng sự hằng sa chư Phật thì đối với
đại thừa mới lý giải được ; bốn là ý thú do người, là như vì một
người mà trước khen bố thí sau chê bố thí, như đối với sự bố thí
thì đối với sự giữ giới và một phần thiền định thế gian cũng vậy.
Như vậy gọi là 4 thứ ý thú (75) .
Còn 4 thứ bí mật, một là bí mật
dẫn vào, là trong thanh văn thừa hay trong đại thừa, y theo thế tục đế
mà nói có ngã, lại nói có pháp; hai là bí mật về tướng, là ở đây
nói các pháp tướng bằng cách nói 3 tự tánh; ba là bí mật đối trị, là
ở đây nói hành tướng đối trị có đến 84 ngàn; bốn là bí mật chuyển
biến, là ở đây đem lời chữ khác mà biểu thị ý nghĩa khác, như có
bài chỉnh cú nói: Biết sự không kiên cố là kiên cố, khéo sống trong sự
đảo ngược, thì cùng cực sự não loạn của phiền não mà được tuệ
giác tối thượng (76) .
Mục 1: Do Nói Về
Duyên Khởi
Chính Văn.-
Có ai muốn làm sự giải thích về
pháp đại thừa, thì đại khái nên do 3 tiết mục mà làm sự giải thích
ấy: một là do nói về duyên khởi, hai là do nói về pháp tướng được
duyên sinh, ba là do nói về ngữ nghĩa (77) . Trong đây nói về duyên khởi
là như có bài chỉnh cú nói: Do danh ngôn huân tập mà sinh ra các pháp, rồi
cái này lại từ cái kia, nên dị thục với chuyển thức làm nhân duyên
cho nhau (78) .
Lược Giải.-
Duyên khởi là chủng tử sinh hiện
hành và hiện hành sinh chủng tử. Nhưng ở đây nói duyên khởi là gồm cả
2 loại duyên khởi.
Mục 2: Do Nói Về
Duyên Sinh
Chính Văn.-
Chuyển thức có tướng có kiến,
và tự tánh là thức (79) . Chuyển thức lại lấy chỗ dựa làm sắc thái,
lấy sở chấp làm sắc thái, lấy pháp tánh làm sắc thái (80) , do vậy mà
biểu thị 3 tánh tướng, như có chỉnh cú nói: Từ chuyển thức có tướng
có kiến mà nhận thức về 3 tướng. Giải thích (để nhận thức) về 3
tướng như thế nào? Nơi y tha, biến kế thì không, viên thành thì có; do 2
sự không với có này mà, khi chưa thấy chân lý và khi đã thấy chân lý,
đều cùng lúc không được và được: nơi y tha vì không biến kế và vì
có viên thành, nên khi chuyển theo nhiễm tịnh, thì phàm phu được biến kế
là không được viên thành, thánh giả được viên thành là không được
biến kế. Như có bài chỉnh cú nói: Nơi y tha, biến kế thì không mà viên
thành thì có, nên được với không được đều như nhau (81) .
Lược Giải.-
Pháp duyên sinh chính là y tha, được
phát sinh từ chủng tử nơi a lại da. Nhưng nói y tha là nói đủ cả 3 tướng,
lúc mê cũng như lúc ngộ. Lúc mê thì nơi y tha chỉ thấy biến kế (ngã
pháp) mà không thấy viên thành (chân như), lúc ngộ thì trái lại.
Mục 3: Do Nói Về
Ngữ Nghĩa
Chính Văn.-
Nói về ngữ nghĩa là trước nói
câu đầu, sau đem những câu khác mà phân tách biểu thị. Làm như vậy là
hoặc do đức, hoặc do nghĩa. Do đức là như nói về công đức (82) của
Phật: Tuệ giác cực kỳ trong sạch vì (1) hiện hành bất nhị, (2) đạt
đến vô tướng, (3) đứng vào chỗ đứng của các đức Thế tôn, (4) thể
hiện tính bình đẳng của các Ngài, (5) đến chỗ không còn chướng ngại,
(6) giáo pháp không thể khuynh đảo, (7) tâm thức không bị cản trở, (8)
cái được thiết lập không thể nghĩ bàn, (9) biết rõ như nhau đối với
mọi việc quá khứ hiện tại và vị lại, (10) thân hình bủa ra khắp các
thế giới, (11) các pháp thì thông suốt, (12) các hạnh thì toàn hảo, (13)
trí biết không còn nghi hoặc, (14) thân hiện không có phân biệt, (15) là
tuệ giác mà tất cả bồ tát cầu mong, (16) chứng được cái thân đồng
nhất của chư Phật mà đứng ở bờ bến tối thượng bên kia, (17) thực
hiện một cách không còn hỗn tạp về giải thoát và diệu trí của các
đức Thế tôn, (18) toàn chứng cảnh Phật không có chính giữa cũng không
có bên cạnh, (19) cùng tận pháp giới, (20) khắp không gian, (21) và suốt
thì gian (83) . Tuệ giác cực kỳ trong sạch, nên biết câu này do 21 câu tiếp
theo phân tích biểu thị, như vậy mới là khéo thuyết pháp. Tuệ giác cực
kỳ trong sạch là tuệ giác cực kỳ trong sạch của đức Thế tôn, nên biết
tuệ giác ấy thống nhiếp 21 công đức của Ngài: (1) triệt để không
còn bị chướng ngại đối với các pháp sở tri, (2) nhập vào một cách tối
thắng, thanh tịnh, đối với chân như có không bất nhị, (3) ở trong trạng
thái không ngừng nghỉ của việc Phật không còn dụng công, (4) trong pháp
thân, ý lạc và việc làm không có dị biệt, (5) tu luyện sự đối trị hết
thảy chướng ngại, (6) chiến thắng hết thảy ngoại đạo, (7) sống trong
đời mà không bị đời gây trở ngại, (8) thiết lập chánh pháp, (9) thọ
ký, (10) thị hiện thân biến hóa và thân thọ dụng trong tất cả thế giới,
(11) loại trừ hoài nghi, (12) làm cho nhập vào các diệu hạnh, (13) phát
sinh diệu trí đối với các pháp đương lai, (14) thị hiện đúng như thắng
giải của mọi người, (15) làm căn cứ cho vô số sự nỗ lực điều phục
chúng sinh, (16) thành mãn các pháp ba la mật của pháp thân bình đẳng, (17)
tùy theo thắng giải mà thị hiện Phật độ khác nhau, (18) ba loại thân Phật
không có giới hạn về phương hướng và nơi chỗ, (19) cùng tận biên cương
của sự sinh tử, thường thị hiện lợi ích yên vui cho tất cả chúng
sinh, (20) vô giới hạn, [(21) rất cứu cánh].
Chính Văn.-
Do nghĩa là như nói nếu bồ tát
thành tựu 32 pháp mới gọi là bồ tát (84) . Ấy là có cái ý lạc tăng
thượng làm lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh: (1) làm cho chúng sinh nhập
vào trí Nhất thế trí, (2) tự biết nay tôi cần gì cái trí giả hiệu
(85) , (3) xô dẹp sự ngạo mạn, (4) ý lạc chắc chắn siêu việt, (5)
không phải thương xót giả hiệu (86) , (5b) bình đẳng đối với người
thân kẻ thù, (5c) vĩnh viễn làm thiện hữu cho đến lúc họ được niết
bàn mới là giới hạn sau cùng, (6) nói đúng hạn lượng, (6b) mỉm cười
chào hỏi trước, (7) đại bi vô hạn, (8) không từ thoái hay khiếp nhược
đối với việc phải chịu đựng, (9) không có ý gì chán và mệt, (10)
nghe nghĩa lý không chán, (11) thấy rất sâu cái lỗi của tội mình làm,
(11b) đối với tội người làm thì dạy bảo mà không giận, (12) luôn
luôn tu luyện bồ đề tâm trong mọi cử động, (13) bố thí mà không cầu
quả báo, (14) thọ giới giữ giới mà không hướng về các nẻo đường còn
có sinh tử, (15) nhẫn nhục mà không giận dữ đối với chúng sinh, (16)
tinh tiến mà thâu nhiếp hết thảy thiện pháp, (17) thiền định mà bỏ
cõi Vô sắc, (18) bát nhã thích ứng với mọi phương tiện, (19) lấy 4 nhiếp
pháp mà thống nhiếp mọi phương tiện, (20) coi người giữ giới với người
phá giới cùng là thiện hữu, (21) đem lòng tha thiết mà nghe chánh pháp,
(22) đem lòng tha thiết mà ở nơi thanh vắng, (23) không thích việc tạp ở
đời, (24) không bao giờ thích cỗ xe thấp kém, (24b) thấy rất sâu công đức
của đại thừa, (25) xa bạn ác, (25b) gần thiện hữu, (26) luôn luôn tu tập
4 thứ phạn trú, (27) thường vận dụng 5 thứ thần thông, (28) nương tựa
và đi mau đến tuệ giác, (29) không bỏ chúng sinh nào dầu họ sống theo
chánh hạnh hay không sống theo chánh hạnh, (30) nói chắc chắn, (31) trọng
chắc thật, (32) tâm đại bồ đề luôn luôn dẫn đầu. Ba mươi hai câu như
vậy là chi tiết của câu đầu, ấy là câu có cái ý lạc tăng thượng làm
lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh. Câu ý lạc tăng thượng làm lợi
ích yên vui này có 16 nghiệp khác nhau, nên biêắt như vậy. Ở đây 16 nghiệp
là 1. lần lượt nỗ lực (câu 1), 2. không thác loạn (câu 2), 3. tự nhiên
nỗ lực mà không đợi người mời (câu 3), 4. không dao động hư rã (câu
4), 5. không cầu không nhiễm, nghiệp này có 3 câu khác nhau, nên biết như
vậy, đó là không nhiễm không hệ lụy (câu 5), không thương ghét người
ơn kẻ thù (câu 5b), đời đời thường theo họ (5c), 6. miệng và thân đều
xứng đáng, nghiệp này có 2 câu khác nhau, nên biết như vậy, (đó là các
câu 6 và 6b), 7. bình đẳng bất nhị đối với vui và khổ (câu 7), 8.
không thấp kém (câu 8), 9. không thoái chuyển (câu 9), 10. thâu thập phương
tiện (câu 10), 11. chán và ghét cái bị đối trị, nghiệp này có 2 câu
khác nhau, nên biết như vậy, (đó là các câu 11 và 11b), 12. tác ý không
gián đoạn (câu 12), 13. tu hành thắng tiến, nghiệp này có 7 câu khác nhau,
nên biết như vậy, đó là sự nỗ lực chính yếu về 6 ba la mật (các
câu 13 đến 18) và sự nỗ lực chính yếu về 4 nhiếp pháp (câu 19), 14. nỗ
lực thành mãn, nghiệp này có 6 câu khác nhau, nên biết như vậy, đó là gần
gũi người hiền (câu 20), lắng nghe chánh pháp (câu 21), ở nơi thanh vắng
(câu 22), bỏ suy nghĩ ác (câu 23), công đức tác ý, câu này lại có 2 câu
khác nhau, nên biết như vậy, (đó là các câu 24 và 24b), công đức và bạn
hữu, câu này lại có 2 câu khác nhau, nên biết như vậy (đó là các câu
25 và 25b), 15. thành tựu viên mãn, nghiệp này có 3 câu khác nhau, nên biết
như vậy, đó là thanh tịnh vô lượng (câu 26), được đại thế lực (câu
27), công đức chứng đắc (câu 28), 16. xây dựng cho người, nghiệp này
có 4 câu khác nhau, nên biết như vậy, đó là chế ngự cho họ (câu 29) chỉ
dạy chắc chắn (câu 30) tài pháp hợp nhất (câu 31) không tâm tạp nhiễm
(câu 32). Tất cả (32 câu bao gồm trong 16 nghiệp) như vậy, nên biết toàn
là chi tiết của câu đầu. Như có bài chỉnh cú nói: Do câu đầu mà có
những câu chi tiết, nói về đức; do câu đầu mà có những câu chi tiết,
nói về nghĩa.
Lược Giải.-
Trong ghi chú 77 đã nói mục ngữ
nghĩa là nói về hành (phương pháp luận) và quả (mục đích luận). Chính
văn đoạn trên và đoạn này cho thấy đoạn này (nói về nghĩa) là nói về
hành của Bồ tát, đoạn trên (nói về đức) là nói về quả của Phật
đà. Nhưng, cùng với mục 1 nói về duyên khởi và mục 2 nói về duyên
sinh, và mục 3 nói về ngữ nghĩa này, cốt cho thấy do 3 tướng mà giải
thích đại thừa là giải thích như thế nào.
Tiết 1: Chủ Yếu
Ngộ Nhập
Chính Văn.-
Như vậy là đã nói sắc thái của
các pháp sở tri rồi, còn sự ngộ nhập các pháp sở tri thì nên nhận thấy
như thế nào? (Chủ yếu của sự ngộ nhập là) cái ý thức (87) được
đa văn huân tập, sự huân tập không thuộc về a lại da mà vẫn như a lại
da huân tập thành chủng tử; (cái ý thức ấy) thuộc về sự tác ý đúng
lý, tạo ra nơi kiến phần của ý thức cái ấn tượng tương tự với pháp
và nghĩa (của đại thừa).
Lược Giải.-
Chủ yếu của sự ngộ nhập các
pháp sở tri chính là ý thức. Ý thức ấy phải có cái căn bản là, đối
với đại thừa, phải học và nghĩ (đa văn huân tập và tác ý đúng lý).
Tiết 2: Tư Cách Ngộ
Nhập
Chính Văn.-
Nhưng ở đây ai là người có thể
ngộ nhập các pháp sở tri? Là vị bồ tát có sự huân tập liên tục của
sự đa văn pháp nghĩa đại thừa, đã được gặp và phụng sự vô lượng
chư Phật xuất hiện thế gian, đã được cái thắng giải (88) một chiều
chắc chắn, đã khéo dồn chứa các thiện căn, tức là khéo cụ bị 2 thứ
tư lương phước và trí.
Lược Gải.-
Tư cách để ngộ nhập là phải
có 4 lực: lực chính nhân, là có sự huân tập của đa văn đại thừa; lực
thiện hữu, là được thân cận chư Phật; lực tác ý, là thắng giải chắc
chắn; lực nhiệm trì, là có sức tích tập 2 loại tư lương phước và
trí.
Tiết 3: Địa Vị
Ngộ Nhập
Chính Văn.-
Vị trí nào ngộ nhập được? Là
chính cái ý thức mà kiến phần có cái ấn tượng tương tự pháp và nghĩa
của đại thừa, do pháp và nghĩa của đại thừa đẳng lưu sinh ra, (cái
ý thức ấy) trải qua địa vị giải hành, điểa vị kiến đạo, địa vị
tu đạo và địa vị cứu cánh, đối với đạo lý các pháp duy thức nó
thắng giải theo đa văn, thông suốt rất đúng lý, đối trị các chướng
ngại, thoát ly các chướng ngại.
Lược Giải.-
Nhiếp luận tổng quát các bồ tát
vị lai thành 4 vị. Một là giải hành vị, gọi đủ là thắng giải hành
vị, gồm cả tư lương vị và da hành viể của Duy thức luận; giải hành
vị có 10 tín, 10 hành, 10 hướng và 4 da hành. Hai là kiến đạo vị, Duy thức
luận gọi là thông đạt vị, chỉ cho nhập tâm của Sơ địa. Ba là tu đạo
vị, Duy thức luận gọi là tu tập vị, gồm có trú tâm của sơ địa cho
đến xuất tâm của thập địa. Bốn là cứu cánh vị, Duy thức luận cũng
gọi là cứu cánh vị, và chỉ cho Phật địa. Đoạn này có 4 điểa vị
ngộ nhập duy thức, tức ngộ nhập các pháp sở tri. Ngộ nhập đại khái
như sau: giải hành vị thì thắng giải theo đa văn, kiến đạo vị thì
thông suốt rất đúng lý, tu đạo vị thì đối trị các chướng ngại, cứu
cánh vị thì thoát ly các chướng ngại.
Mục 1: Nói 3 Sự
Luyện Mài
Chính Văn.-
Do yếu tố nào mà ngộ nhập được?
Do sức mạnh của thiện căn nhiệm trì: do 3 sự luyện mài tâm chí và dứt
bỏ 4 sự, mà vin theo pháp và nghĩa của đại thừa, chỉ và quán thường
được thiết tha nỗ lực, không có phóng dật. Vô số người trong vô lượng
thế giới, mỗi sát na đều có người chứng được vô thượng bồ đề,
(thì ta đây cũng sẽ chứng được), đó là sự luyện mài tâm chí thứ nhất.
Do ý lạc này mà tu được lục độ; ta đã có ý lạc này thì nhờ đó ta
dụng công thêm chút nữa sẽ tu được viên mãn về lục độ, đó là sự
luyện mài tâm chí thứ hai. Những người có điều thiện còn chướng ngại,
vậy mà chết rồi vẫn được sinh ra với cái tự thể khả ái, huống chi
ta có điều thiện vi diệu, không còn chướng ngại, thì tại sao lại
không được kết quả viên mãn, đó là sự luyện mài tâm chí thứ ba. Ở
đây có 3 bài chỉnh cú: 1. Những chúng sinh thuộc nhân loại, và thế giới
của họ, đều vô lượng, trong mỗi ý nghĩ đều có người chứng được
đẳng giác, vậy ta không nên thoái lui, khuất phục. 2. Những ai có cái ý
lạc của tâm trí trong sạch, thì có năng lực thực hành lục độ, ta
cũng đã có được cái ý lạc thù thắng ấy (89) , nên ta cũng có năng lực
thực hành lục độ. 3. Người làm điều thiện kém cõi mà khi chết rồi
vẫn được mãn ý về sự vui thích, huống chi ta đây có cái điều thiện
thù thắng do vĩnh đoạn chướng ngại, thì sự viên mãn làm sao không đạt
được.
Lược Giải.-
Bồ tát trong phần đầu của giải
hành vị (tức tư lương vị) hay có 3 điều thoái khuất. Một là thoái khuất
vì tuệ giác rộng lớn, là nghe nói tuệ giác bồ đề tối thượng, rộng
lớn, sâu xa, mà sinh tâm thoái khuất. Hai là thoái khuất vì vạn hạnh khó
tu, là nghe nói vạn hạnh như bố thí rất là khó tu, mà sinh tâm thoái khuất.
Ba là thoái khuất vì chuyển y khó chứng, là nghe nói 2 diệu quả chuyển y
rất khó chứng được, mà sinh tâm thoái khuất. Đối trị 3 sự thoái khuất
này là 3 sự luyện mài tâm chí. Thứ nhất, dẫn việc người khác đã chứng
tuệ giác vô thượng mà luyện mài tâm chí. Thứ hai, ý thức về ý lạc của
mình mà luyện mài tâm chí. Thứ ba, đem điều thiện thô kém của người
so với cái nhân vi diệu của mình mà luyện mài tâm chí.
Mục 2: Nói 4 Sự
Phải Bỏ
Chính Văn.-
(Một), dứt bỏ tác ý, là tách rời
cái tác ý của thanh văn duyên giác. (Hai), vĩnh viễn dứt bỏ sự hoài nghi
của cái trí tuệ khác (90) , là tách rời mọi sự hoài nghi đối với đại
thừa. (Ba), dứt bỏ pháp chấp (91) , là tách rời ngã và ngã sở trong
giáo pháp được nghe và được nghĩ. (Bốn), dứt bỏ phân biệt, là tách
rời tác ý và phân biệt đối với mọi hiện tượng hiện tiền và xác lập
(92) . Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Thế giới hiện tiền mà ta tự nhiên sống
với, cùng với những ảnh tượng được xác lập, người có trí thì
không phân biệt, nên được tuệ giác tối thượng.
Tiết 5: Quán Trí
Ngộ Nhập
Chính Văn.-
Do cái gì và làm thế nào để được
ngộ nhập? Do cái ý thức thuộc chủng loại đa văn huân tập và thuộc về
tác ý đúng lý, mà kiến phần của nó có cái ấn tượng tương tự pháp
và nghĩa, (do cái ý thức ấy mà phân thành 4 tầm tư và 4 thật trí). Bốn
tầm tư là suy tìm chỉ là giả thiết về danh, nghĩa, tự tánh, sai biệt
(93) . Bốn thật trí là biết chắc chỉ là giả thiết về danh, nghĩa, tự
tánh, sai biệt (94) . Cả 4 tầm tư và 4 thật trí như vậy đồng là không
thể thủ đắc. Chư vị bồ tát muốn ngộ nhập duy thức một cách đúng
như sự thật, nên nỗ lực mà tu - tức là đem cái ý thức có cái ấn tượng
tương tự về danh và nghĩa mà suy tìm danh chỉ là ý thức, suy tìm nghĩa dựa
vào danh cũng chỉ là ý thức, suy tìm tự tánh và sai biệt của danh và nghĩa
cũng chỉ là giả thiết. Bao giờ chứng được chỉ là ý thức, thì bấy
giờ chứng biết danh, nghĩa, tự tánh, sai biệt, toàn là không thật, đồng
là không thể thủ đắc. Như vậy, do 4 tầm tư và do 4 thật trí mà chính
nơi cái ý thức có ấn tượng tương tự danh và nghĩa mà ngộ nhập được
đạo lý duy thức (95) .
Tiết 6: Chủ Đề
Ngộ Nhập
Chính Văn.-
Trong sự ngộ nhập duy thức nói
trên, là ngộ nhập cái gì? ngộ nhập thế nào? (Ngộ nhập cái gì là) ngộ
nhập duy thức, 2 phần và nhiều thứ (96) , nghĩa là ngộ nhập danh, tự
tánh của danh, sai biệt của danh, nghĩa, tự tánh của nghĩa, sai biệt của
nghĩa, 6 thứ như vậy toàn là không thật, toàn là năng thủ sở thủ, toàn
là nhiều thứ sự thể (97) . (Ngộ nhập như thế nào là) như trong bóng tối
thì cái giây hiện ra như con rắn, nhưng trên cái giây, con rắn là không,
vì nó hoàn toàn không có. Biết con rắn là không, cái biết con rắn tuy mất,
mà cái biết sợi giây vẫn còn. Nếu phân tích kyՠthì sợi giây cũng giả
dối, vì chỉ do sắc hương vị xúc hợp thành, biết như vậy thì cái biết
sợi giây cũng mất. Như thế đó, khi cái ý thức có cái ấn tượng 6 tướng
về danh và nghĩa nó dẹp bỏ 6 tướng không thật, thì cái biết duy thức
như cái biết sợi giây cũng sẽ loại bỏ - loại bỏ do cái biết biết về
viên thành.
Tiết 7: Ngộ Nhập
Sở Tri
Chính Văn.-
Vị bồ tát như vậy ngộ nhập cái
ấn tượng tuồng như thật có của ý thức nên ngộ nhập biến kế, ngộ
nhập duy thức nên ngộ nhập y tha, còn viên thành thì ngộ nhập thế nào?
Nếu đã loại bỏ cái ý tưởng duy thức vốn thuộc chủng loại đa văn
huân tập của ý thức, thì bấy giờ bồ tát đã loại bỏ ấn tượng thật
có, mọi ấn tượng tuồng như thật có không thể phát sinh, nên cái ý tưởng
duy thức cũng không sinh được. Vì lý do ấy mà đứng ở chỗ mọi nghĩa
đều không có danh riêng, sống thích ứng với sự hiện thấy pháp tánh. Bấy
giờ là bồ tát đã phát sinh cái trí bình đẳng, không phân biệt năng tri
sở tri, do đó mà vị bồ tát này được gọi là ngộ nhập viên thành.
Ở đây có bài chỉnh cú: Pháp, ngã, giáo pháp, nghĩa lý, đại lược,
phong phú, căn bản, ô nhiễm, thanh tịnh, cứu cánh, đó là những danh hiệu
gọi theo hành tướng sai biệt (98) . Như vậy là bồ tát đã ngộ nhập duy
thức, nghĩa là ngộ nhập 3 tướng sở tri. Ngộ nhập như vậy là nhập
vào Cực hỷ địa, đạt được pháp tánh, sinh nhà Như lai, được tâm
bình đẳng đối với chúng sinh, tâm bình đẳng đối với bồ tát, tâm
bình đẳng đối với Phật đà. Và đó là kiến đạo vị của bồ tát.
Tiết 8: Ích Lợi
Ngộ Nhập
Chính Văn.-
Vì ích lợi chân thật nào mà ngộ
nhập duy thức? Do (a là) cái trí chỉ quán vô lậu vin theo tổng tướng của
giáo pháp đại thừa, và do (b là) cái trí hậu đắc của trí trên, cái
trí vin theo những thứ tướng thức, nên ngộ nhập duy thức để (một là)
diệt trừ chủng tử vừa là nguyên nhân vừa là sở duyên nơi a lại da,
(hai là) làm lớn lên những chủng tử chứng đắc pháp thân, (ba là) chuyển
đổi cái sở y (99) , (bốn là) chứng được toàn thể Phật pháp, (năm là)
chứng được cái trí Nhất thế trí. Thêm nữa, cái trí hậu đắc nhận
thức mọi tướng được nhận thức đều phát sinh từ a lại da là như
ảo thuật, nhận thức không thác loạn, nên, ví như nhà ảo thuận nhìn
vào những trò ảo thuật, bồ tát nhìn vào mọi tướng được nhận thức,
và trình bày đạo lý nhân quả, luôn luôn không có thác loạn.
Tiết 9: Lịch
Trình Ngộ Nhập
Chính Văn.-
Ở đây, khi ngộ nhập duy thức
thì có 4 thứ định làm chỗ dựa cho 4 thứ thuận với phần quyết trạch
(100) . Nên nhận thức thế nào? Nên nhận thức rằng: (Một là) do 4 thứ tầm
tư mà trong cái nhẫn các pháp không thật (101) thuộc bậc thấp, có cái định
được sáng, đó là chỗ dựa của Noãn thuận với phần quyết trạch.
(Hai là) trong cái nhẫn các pháp không thật thuộc bậc cao, có cái định
thêm sáng, đó là chỗ dựa của Đảnh thuận với phần quyết trạch. (Ba
là) lại do 4 thứ thật trí đã ngộ nhập duy thức, đã quyết định về
các pháp không thật (102) , có cái định nhập vào một phần chân thật
(103) , đó là chỗ dựa của Nhẫn thuận với chân thật. (Bốn là) từ đó,
một cách không cách hở mà dẹp bỏ ý tưởng duy thức, có cái định không
còn cách hở, đó là chỗ dựa của Thế đệ nhất. Nhưng phải biết các
định trên đây đang là bên cạnh hiện quán (104) .
Lược Giải.-
Lịch trình quán chứng của đoạn
này là như vầy. Một, ngộ nhập duy thức nên cảnh không thật: cảnh biến
kế là không; đó là Noãn và Đảnh (giai đoạn tầm tư), và Nhẫn (giai đoạn
ngộ nhập). Hai, ngộ nhập cảnh không nên thức không sinh: thức y tha cũng
diệt; đó là Thế đệ nhất. Ba, toàn thể bình đẳng: chứng đắc viên
thành; đó là kiến đạo.
Tiết 10: Địa Vị
Tu Đạo
Chính Văn.-
Bồ tát như vậy là đã bước vào
các địa, đã được kiến đạo vị, đã ngộ nhập duy thức; rồi trong
tu đạo vị thì phải tu hành như thế nào? Đối với giáo pháp 10 địa Phật
dạy, mà đã thống nhiếp các kinh và cùng hiện tiền cả, bồ tát do cả
2 phần căn bản và hậu đắc của cái trí chỉ quán vin theo tổng tướng
giáo pháp ấy, luôn luôn tu tập trong vô lượng kiếp nên được chuyển y,
(cùng lúc), để chứng được 3 loại thân Phật (105) nên tinh tiến tu
hành.
Tiết 11: Hiện
Quán Khác Nhau
Chính Văn.-
Hiện quán của thanh văn với hiện
quán của bồ tát có sai khác gì? Hiện quán của bồ tát khác với hiện
quán của thanh văn là do 11 thứ, nên biết như vậy. Một là do đối tượng
mà khác nhau, là lấy giáo pháp đại thừa mà làm đối tượng. Hai là do
nuôi giữ mà khác nhau, là do 2 loại tư lương đại phước và đại trí
làm yếu tố nuôi giữ. Ba là do thông suốt mà khác nhau, là thông suốt cả
nhân vô ngã và pháp vô ngã. Bốn là do niết bàn mà khác nhau, là nhiếp thọ
đại niết bàn vô trú. Năm là do địa vị mà khác nhau, là xuất ly bằng
10 địa. Sáu và Bảy là do thanh tịnh mà khác nhau, là dứt sạch tập khí
phiền não, là làm sạch cõi Phật. Tám là do bình đẳng mà khác nhau, là
được cái tâm bình đẳng đối với mình người, sự nỗ lực thành thục
chúng sinh không bao giờ ngừng nghỉ. Chín là do chỗ sinh mà khác nhau, là
sinh vào nhà Phật. Mười là do thọ sinh mà khác nhau, là thường sinh trong
các đại tập hội của chư Phật (105B) . Mười một là do kết quả mà
khác nhau, là 10 lực, 4 vô úy, 18 bất cọng, vô số phẩm chất của Phật
như vậy đều được thành mãn.
Tiết 1: Chỉnh Cú
Tự Làm
Chính Văn.-
Ở đây có 2 bài chỉnh cú: 1. Danh
với nghĩa làm khách thể của nhau, đặc tính này nên tầm tư; tự tánh
và sai biệt, 2 thứ ấy của danh và nghĩa cũng phải suy xét là duy thức
và duy giả. 2. Thật trí quán sát sự không thật, chỉ có 3 loại phân biệt
(106) : cái kia không thì cái này không (107) , thế là ngộ nhập 3 tánh.
Tiết 2: Chỉnh Cú
Dẫn Luận Phân Biệt Du Dà
Chính Văn.-
Lại có 2 bài chỉnh cú để giáo
thọ, như luận Phân biệt du dà đã nói: 1. Trong định, bồ tát quán xét
ấn tượng chỉ là tâm, đối cảnh đã không còn thì quán xét chỉ có
tâm mình. 2. Cứ như thế ấy mà trú nơi nội tâm, nên như cái sở thủ đã
không thì cái năng thủ cũng không, sau đó chạm vào sự không thủ đắc.
Tiết 3: Chỉnh Cú
Dẫn Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh
Chính Văn.-
Thêm nữa, có 5 bài chỉnh cú về
hiện quán, như luận Đại thừa trang nghiêm kinh nói: 1. Phước đức và
trí tuệ 2 thứ tư lương ấy bồ tát khéo cụ bị một cách vô giới hạn,
đối với pháp đã tư duy và khéo quyết trạch rồi thì biết ý nghĩa của
pháp ấy chỉ là danh ngôn. 2. Nếu biết mọi ý nghĩa chỉ là danh ngôn,
trú ở nơi đạo lý duy tâm, thì thế là hiện chứng pháp tánh (108) , nên
(cảnh và tâm) cả 2 phần ấy đều loại bỏ. 3. Thể hội rời tâm thì
không có cảnh riêng, do đó thể hội tâm cũng không có: người có tuệ
giác thấu suốt 2 cái đều không nên đứng nơi pháp tánh bất nhị. 4. Người
có tuệ giác do sức mạnh của trí vô phân biệt mà thường xuyên thuận
hành pháp tánh một cách cùng khắp và bình đẳng, hủy diệt cái khối lầm
lỗi vấn vít, tựa như dược phẩm rất tốt tiêu tan mọi độc chất. 5.
Diệu pháp Phật dạy rất khéo xác lập; hãy đặt tuệ giác và bắt rễ
vào trong diệu pháp ấy, thấu hiểu ý niệm và nghĩa thú chỉ là phân biệt
(109) , mạnh mẽ và mau chóng mà về bến bờ của biển cả công đức.
Lược Giải.-
Có người nói 5 bài chỉnh cú này
là nói 5 địa vị, diễn tả lịch trình ngộ nhập: một là tư lương đạo,
hai là da hành đạo, ba là thông đạt đạo, bốn là tu tập đạo, năm là
cứu cánh đạo.