Lược Giải
Kinh Dược Sư
- Mục Lục
- I. Tài Liệu
- II. Dịch Giả
- III. Mệnh Đề
- IV. Cương Yếu
- V. Lược Giải Kinh Dược Sư
- A1. Mở Đầu
- A2. Nội Dung
- B1. Danh Hiệu
- B2. Bản Nguyện
- B3. Công Đức
- C1. Nói Về Y Chánh Trang Nghiêm
- C2. Nói Về Đại Dụng Của Danh Hiệu
- D1. Diệt Sự Tham Lẫn Mà Được Sự Bố Thí
- D2. Diệt Sự Phạm Tội Mà Được Sự Giữ Giớ
i
- D3. Diệt Sự Ganh Ghét Mà Được Sự Giải Thoát
- D4. Diệt Sự Hại Nhau Mà Được Sự Thương Nhau
- D5. Được Sinh Cực Lạc Hay Các Sự Chuyển Sinh
Khác
- C3. Nói Về Đại Dụng Của Chú
- C4. Nói Về Đại Dụng Của Sự Phụng Trì
- D1. Phật Dạy Tổng Quát Và Ngài Văn Thù Phát
Nguyện
- D2. Phật Chỉ Cách Thức Và Nói Ích Lợi
- D3. Phật Nói Ích Lợi Trong Sự Khỏi Nạn
- C5. Nói Là Chỗ Hiểu Biết Xâu Xa Của Phật
- C6. Nói Cách Tiêu Tai Diên Thọ
- D1. Chỉ Cách Tiêu Tai Diên Thọ
- D2. Chỉ Thêm Cách Tiêu Tai Diên Thọ, Đặc Biệt
Tiêu Bịnh Khổ
- D3. Lại Còn Tiêu Quốc Nạn
- D4. Tiêu Bất Định Nghiệp
- D5. Tiêu Cả Định Nghiệp
- C7. Nói Sự Hộ Vệ Của Dạ Xoa
- A3. Kết Thúc
- B1. Nói Tên Kinh
- B2. Chúng Hội Phụng Hành
Tài Liệu
Tài liệu dùng để dịch giải kinh
này gồm có:
- 1. Phật thuyết quán đảnh bạt trừ quá tội
sanh tử đắc độ kinh quyển đệ thập nhị (Chính 21/532-536);
- 2. Phật thuyết Dược sư như lai bản nguyện kinh
(Chính 14/401-404);
- 3. Dược sư lưu ly quang như lai bản nguyện công
đức kinh (Chính 14/404-408);
- 4. Dược sư lưu ly quang thất Phật bản nguyện công
đức kinh (Chính 14/409-418);
- 5. Dược sư kinh cổ tích (Vạn 35/172-178);
- 6. Dược sư kinh trực giải (Vạn 35/179-196);
- 7. Dược sư lưu ly quang như lai bản nguyện công
đức kinh giảng ký (TH 28/2229-2408);
- 8. Dược sư lưu ly quang như lai bản nguyện công
đức kinh (bản in riêng, của cơ quan Lưu thông sách Phật ở Hương cảng);
- 9. Dược sư lưu ly quang như lai bản nguyện công
đức kinh (Trung Anh hợp san, của cơ quan Lưu thông sách Phật ở Hương cảng).
Ngoài 9 tài liệu trên đây, còn có
Dược sư đăng diệm (Vạn 59/145-146) và 10 bản Nghi quyՠ(Chính 19/20 - 67).
Điều đáng nói và đáng tiếc là, theo Pđ 2838d, còn có tài liệu gọi là
Dược sư kinh sớ của ngài Khuy cơ (đệ tử ngài Huyền tráng). Tài liệu
này, nếu có, tất nhiên quan trọng bậc nhất. Nhưng hiện trong Đại tạng
kinh bản Đại chính tân tu và Tục tạng kinh bản chữ Vạn đều không
có.
Sau đây là những điều cần biết:
A. Kinh này trước sau có 5 bản dịch:
bản dịch 1 là tài liệu 1, dịch giả Cát hữu, dịch quãng 317; bản dịch
2 là Dược sư lưu ly quang kinh, dịch giả Tuệ giản, dịch quãng 457, bản
này thất lạc; bản dịch 3 là tài liệu 2, dịch giả Pháp hạnh, dịch năm
615; bản dịch 4 là tài liệu 3, dịch giả Huyền tráng, dịch năm 650; bản
dịch 5 là tài liệu 4, dịch giả Nghĩa tịnh, dịch năm 707.
B. Đối chiếu đại khái về 4 bản
dịch hiện còn trên đây thì cần ghi ngay ở đây là 2 chỗ: (1) tên 8 vị
bồ tát là trích tài liệu 1 (Chính 21/533d); (2) chú là trích tài liệu 4
(Chính 14/414). Đối chiếu này còn phải nói rõ hơn nơi mục dịch giả dưới
đây.
C. Bản văn tôi dịch là tài liệu
8, đối chiếu với bản chính là tài liệu 3 (bản dịch 4) và các tài liệu
đã kê. Sự đối chiếu này sẽ nói rõ trong lược giải. Sở dĩ tôi chọn
tài liệu 8 là vì bản này mới thường trì tụng.
Dịch Giả
Thời đại nhà Đường, Tam tạng
pháp sư Huyền tráng dịch.
Niên đại của ngài Huyền tráng
là 569-664. Kinh này dịch vào lúc ngài 55 tuổi, năm 650. Trên đây là tham khảo
PHNC bài 18 trang 59-81. Bài này là bản niên phổ quí nhất của ngài Huyền
tráng.
Nhưng, bản tài liệu 8 mà tôi căn
cứ để dịch giải, đúng ra còn phải kê thêm các dịch giả Cát hữu và
Nghĩa tịnh. Vì lẽ, như khoản B cần biết ở mục tài liệu trên đã
nói, bản này có bổ túc 2 chỗ là tên 8 vị bồ tát và chú. Việc bổ
túc ấy do ai thì tìm chưa thấy, nhưng chú thích số 11 và số 13 của
Chính 14/406 (tài liệu 3, bản chính) cho biết có bản bổ túc như vậy. Sự
bổ túc này đã lưu hành xưa nay.
Điều phải nói hơn nữa, là cả 2
chỗ bổ túc, trong tài liệu 1 đã có. Riêng về chú, tài liệu 1 không những
có (Chính 21/536t) mà nói có lý hơn cả tài liệu 4 (là nơi trích chú). Tài
liệu 1 lại có trước nhất và sớm nhất, vào đầu thế kỷ 4 (317), còn
tài liệu 4 có gần 4 thế kỷ sau (707). Vậy, trích 2 chỗ nói trên mà bổ
túc cho tài liệu chính (tài liệu 3, có năm 650) là rất phải.
- Mệnh Đề
- Kinh Bản nguyện công đức của
đức Dược sư lưu ly quang như lai.
Mệnh đề này có nghĩa là bản
kinh nói về bản nguyện và công đức của đức Dược sư.
Bản nguyện, bản, nghĩa đen là gốc,
trước, của mình. Nguyện là thề nguyền, chí nguyện. Cái nguyện gốc, trước
và của mình (đức Dược sư), gọi là bản nguyện.
Công đức, ở đây, nghĩa giản dị
nhất, công là công tu, đức là được: hiệu quả đạt được bởi công
năng tu tập, gọi là công đức. Công đức ấy của đức Dược sư gồm có:
- Chánh báo y báo trang nghiêm, tức
thân thể và vũ trụ trang nghiêm của ngài;
- Danh hiệu của ngài.
- Những ích lợi (diệu dụng hay thần
lực) mà ngài ban cho chúng sanh, trong đó có sự tiêu tai diên thọ.
Trong 3 loại công đức trên đây,
danh hiệu có khi được tách ra mà nói danh hiệu, bản nguyện và công đức.
Dược sư lưu ly quang như lai là
danh hiệu đầy đủ của đức Dược sư. Dược sư, Phạn tự là Bệ sát
xã lũ rô (Bhaishajyaguru), nghĩa đen: thầy thuốc chữa bịnh. Lưu ly quang là
dịch âm (lưu ly) và dịch nghĩa (quang) Phạn tự Bệ lưu ly bát lạt bà -
hát ra xà dã (Vaiduryaprabha-rajaya), nghĩa đen: ánh sáng lưu ly. Lưu ly là dịch
âm và gọi tắt tên một thứ ngọc đá. Ngọc này trong ngoài trong suốt,
màu xanh, vật gì gần nó cũng thành một màu ấy. Dược sư lưu ly quang
như lai: một đức Như lai có danh hiệu là Thầy thuốc chữa bịnh, ánh
sáng như ngọc lưu ly.
Cương Yếu
Kinh này nội dung có 2 phần, là
nói về bản nguyện và công đức của đức Dược sư. Phần danh hiệu chỉ
là phần công đức tách ra.
Nhưng, nói về một đức Phật thì
không phải chỉ có bản nguyện và công đức. Chỉ nói bản nguyện và
công đức, vì đó là 2 phần nhân và quả của một đức Phật. Nhưng, nhân
và quả của một đức Phật cũng không phải chỉ có bản nguyện và công
đức. Chỉ nói bản nguyện và công đức là vì nhiều lý do, mà lý do quan
trọng nhất là đề cao tha lực. Kinh này nói tự lực (sự hành trì của
ta) thì ít, nói tha lực (sự gia hộ của Phật) mới nhiều. Mà nhân và quả
của một đức Phật thì bản nguyện và công đức là 2 phần vì chúng
sanh và cho chúng sanh, nên đặc biệt nêu lên.
Điều phải chú ý hơn hết là, như
vừa nói, kinh này đề cao tha lực. Thật vậy, kinh này đề cao tha lực đến
nỗi C5 trong B3 cho biết, sự gia hộ của Phật là điều thuộc "thậm
thâm hành xứ" của Phật, điều của Phật làm và của Phật biết, chỉ
"nhất sanh bồ tát" là bồ tát chỉ một đời nữa làm Phật mới
tin và hiểu đúng như sự thực. Còn ngài A nan đi nữa mà tiếp nhận được
là do uy lực của Phật, huống chi phàm phu chúng ta.
Lược Giải
Kinh Dược Sư
Như thường lệ, kinh này vẫn có 3
A: mở đầu, nội dung và kết thúc.
Mở Đầu
Tôi nghe như vầy.
Một thời, đức Thế tôn du hóa
các nước, đến thành Quảng nghiêm, dừng ở dưới cây Tiếng nhạc. Tám
ngàn vị đại tỷ kheo, ba vạn sáu ngàn vị đại bồ tát, và các quốc vương,
đại thần, đạo sĩ, cư sĩ, tám bộ thiên long, loài người và loài không
phải người, đại chúng vô lượng như vậy, cung kính vây quanh đức Thế
tôn để được ngài thuyết pháp cho.
Tôi nghe như vầy (như thị ngã văn)
nghĩa là "toàn bộ pháp thoại như thế này là do tôi nghe". Câu
này cũng có thể dịch tôi nghe như thế này, như vầy tôi nghe. Nhưng, như
vầy là tiếng thổ ngữ, bất đắc dĩ mới dùng.
Đạo sĩ (Bà la môn), Bà la môn đúng
là giai cấp đạo sĩ, cũng như Sát đế lợi đúng là giai cấp võ sĩ. Tám
bộ thiên long (thiên long bát bộ). Tám bộ là 8 loài : thiên, long, dạ xoa,
càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà (Phạn tự : deva,
naga, yaksha, gandharva, asura, garuda, kimnara, mahoraga). Tám bộ này, thiên và
long là 2 loại mà đứng đầu, nên hay nói "thiên long bát bộ". Nếu
chép "thiên long dược xoa" thì cũng nói 8 bộ mà chỉ kê ra 3 loại
đầu. Riêng kinh này, nếu chép "thiên long dược xoa" cũng có lý,
vì C7 của B3, loại dạ xoa liên hệ nhiều đến kinh này.
Lúc ấy, Mạn thù pháp vương tử vâng
theo uy thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai áo bên trái, gối
bên phải quì xuống sát đất, hướng về đức Phật, cong mình, chắp tay
mà thưa, bạch đức Thế tôn, con xin ngài nói về tướng loại như thế này,
đó là danh hiệu, bản nguyện vĩ đại và công đức thù thắng của chư
Phật, làm cho người nghe tiêu trừ những sự chướng ngại do nghiệp lực
tạo ra. Là vì con muốn lợi lạc cho mọi người trong thời kỳ Phật pháp
tương tự xuất hiện. Đức Thế tôn tán dương Mạn thù đồng tử, lành
thay Mạn thù, lành thay, ông đem lòng thương rộng lớn thỉnh cầu Như lai
nói về danh hiệu, bản nguyện và công đức của chư Phật để cứu vớt
những kẻ bị nghiệp chướng buộc thắt, lợi lạc mọi người trong thời
kỳ Phật pháp tương tự. Ông hãy nghe kyլ suy nghĩ rất khéo, Như lai sẽ nói
cho. Mạn thù bạch Phật, dạ, xin Phật chỉ dạy, chúng con thích thú mà
nghe.
Mạn thù = Mạn thù thất lợi, Văn
thù sư lợi, Văn thù: Manjushri. Pháp vương tử: thái tử của đấng Pháp vương.
Chỉ ngài Mạn thù mới hay được gọi như vậy. Kinh này được hỏi bởi
ngài Mạn thù, còn kinh Di đà do Phật tự nói chứ không ai hỏi được : hãy
so sánh giữa 2 kinh, rồi so sánh giữa 2 kinh với các kinh, về sự mở đầu
này mà thôi, cũng thấy được giá trị kinh này.
Tướng loại : sắc thái và bộ
môn, tức danh hiệu, bản nguyện và công đức của chư Phật. Cũng có thể
đọc "tương loại", nghĩa là tương tự: tương tự giữa chư Phật,
về danh hiệu, bản nguyện và công đức. Bản nguyện vĩ đại (bản đại
nguyện) đúng ra phải dịch là đại nguyện gốc, trước. Thời kỳ Phật
pháp tương tự (tượng pháp) Phật pháp có 3 thời kỳ. Trước thời kỳ này
là thời kỳ Phật pháp nguyên chất (chánh pháp) và sau thời kỳ này là thời
kỳ Phật pháp cuối cùng (mạt pháp). Nhưng tôi không tin kinh này chỉ nói
cho người thuộc thời kỳ Phật pháp tương tự. Nói người thuộc thời kỳ
này mới đa số tin và làm theo kinh này thì có lý hơn. Đoạn văn trên có
2 chỗ dùng chữ tượng pháp (thời kỳ Phật pháp tương tự) là chỗ ngài
Văn thù thỉnh và chỗ Phật khen. Chỗ trước, bản dịch 1 cũng dùng chữ
tượng pháp (Chính 21/532g), bản dịch 3 dùng chữ lai thế chánh pháp hoại
thời (Chính 14/401g), bản dịch 5 cũng dùng chữ tượng pháp (Chính 14/409t).
Nhưng chỗ sau, bản dịch 1 chỉ dùng chữ nhất thế vô lượng chúng sanh
(Chính 21/532g), bản dịch 3 chỉ dùng chữ chư thiên nhân (Chính 14/401g), bản
dịch 5 chỉ dùng chữ vô lượng nghiệp chướng hữu tình (Chính 14/409g). Rất
nên đối chiếu như vậy để thấy người mạt pháp không phải vô phần
đối với kinh này.
Đồng tử = kumara, nghĩa đen: trẻ
thơ. Ở đây ý nghĩa là không có ý niệm dâm dục như tâm hồn trẻ thơ.
Nội Dung
Lời thỉnh của ngài Văn thù và lời
hứa của đức Thế tôn, trong văn mở đầu, đều nói danh hiệu, bản nguyện
và công đức. Vậy nội dung kinh này nên chia ra 3 B: danh hiệu, bản nguyện
và công đức của đức Dược sư.
Danh Hiệu
Phật dạy Mạn thù, phía đông,
cách thế giới hệ này bởi những thế giới hệ bằng số cát hơn mười
sông Hằng, có một thế giới hệ tên Tịnh lưu ly. Đức Phật ở đó danh
hiệu là Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh
túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu,
thiên nhân sư, phật: thế tôn.
Đoạn này vắn tắt nhưng nói được
3 điều: chánh báo trang nghiêm của đức Dược sư, danh hiệu viên mãn của
ngài, sau hết, mở đầu tổng quát cho nội dung kinh này (là nội dung nói về
đức Dược sư). Tuy nói được đến 3 điều như vậy, phần danh hiệu viên
mãn vẫn là phần chính.
Trước hết, thế giới hệ (thế
giới) là chỉ cho đại thiên thế giới, nên ngài Thái hư nói bằng với
tinh vân hệ hay tinh hải hệ của thiên văn (TH 28/2326) (40) , do đó, phải dịch
là thế giới hệ mới đúng. Còn từ ngữ thế giới hay lầm lẫn với địa
cầu. Mà địa cầu chỉ là 1 trong rất nhiều thành phần của tiểu thế
giới (41) . Ngàn tiểu thế giới là tiểu thiên thế giới. Ngàn tiểu
thiên thế giới là trung thiên thế giới. Ngàn trung thiên thế giới mới
là đại thiên thế giới, có 1 tỷ tiểu thế giới (TH 28/2326).
Bây giờ nói danh hiệu của đức
Dược sư. Danh hiệu "Dược sư lưu ly quang" đã cắt nghĩa. Nhưng,
được gọi là một đức Phật, phải là đấng có 10 công đức lớn, tiêu
biểu bởi 10 đức hiệu (dầu 10 công đức và 10 đức hiệu cũng chỉ nói
tóm lược mà thôi). Mười đức hiệu, tài liệu chính (Chính 14/405) chép:
như lai, ứng, chánh đẳng giác, minh hạnh viên mãn, thiện thệ, thế gian
giải, vô thượng trượng phu, điều ngự sĩ, thiên nhân sư, phật: bạc già
phạn. Chép như vậy thì có 3 điều cần chú ý.
Một, 10 đức hiệu, thông thường
thì nguyên Phạn tự như sau:
- 1. Tathagata,
- 2. Arhat,
- 3. Samyaksambuddha,
- 4. Vidyacarana-sampanna,
- 5. Sugata,
- 6. Lokavid,
- 7. Anuttara,
- 8. Purusa-damya-sarathi,
- 9. Sasta-deavamanusyanam,
- 10. Buddha-lokanatha.
- Dịch nghĩa và chấm câu như sau:
- 1. Như lai,
- 2. cúng,
- 3. Chánh biến tri,
- 4. Minh hạnh túc,
- 5. Thiện thệ,
- 6. Thế gian giải,
- 7. Vô thượng sĩ,
- 8. Điều ngự trượng phu,
- 9. Thiên nhân sư,
- 10. Phật - thế tôn.
Nhưng đức hiệu Thế tôn, nếu dịch
âm là Phật đà - lộ ca na tha, và nguyên Phạn tự là Buddha-lokanatha, thì
Phật - thế tôn là 1 đức hiệu; nếu dịch âm là Bạc già phạn, và
nguyên Phạn tự là Bhagavan, thì Thế tôn là đức hiệu riêng: đấng có 10
đức hiệu nên tôn xưng là Thế tôn (Pđ 252t). Ở đây, nguyên Hoa văn dịch
âm là Bạc già phạn, thì Phạn tự là Bhagavan, nên Thế tôn là đức hiệu
riêng, và phải chấm câu như đã chấm.
Hai, có mấy chỗ dịch nghĩa cần
lưu ý:
- - ứng =ứng cúng;
- - Chánh đẳng giác (chánh đẳng chánh giác) =
Chánh biến tri.
- - Minh hạnh viên mãn = Minh hạnh túc;
- - Vô thượng trượng phu = Vô thượng sĩ;
- - Điều ngự sĩ = Điều ngự trượng phu.
Ba, 10 đức hiệu này, quan trọng nhất
là như lai, ứng cúng, chánh biến tri, nên trong kinh này, và nhiều chỗ
khác, có khi chỉ nói 3 đức hiệu ấy.
Bản Nguyện
Mạn thù, đức thế tôn Dược sư
lưu ly quang như lai, xưa kia, khi làm hạnh bồ tát, đã phát ra mười hai đại
nguyện, cốt làm cho mọi người thực hiện mọi sự mong ước.
Đại nguyện thứ nhất, nguyện con
sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì bản thân ánh sáng rực rỡ,
chiếu soi vô số thế giới hệ. Thân ấy lại được trang hoàng bằng bâm
hai tướng tốt của bậc đại trượng phu, và tám mươi tướng phụ. Lại
làm cho mọi người không khác gì với con.
Đại nguyện thứ hai, nguyện con
sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì thân như ngọc lưu ly, trong
ngoài trong suốt, không chút vẩn đục, ánh sáng to lớn và chiếu tỏa xa rộng.
Công đức đồ sộ, lại khéo an trú. Những tia sáng rực rỡ, dệt nhau như
mạng lưới, và tráng lệ quá hơn nhật nguyệt. Chúng sanh tối tăm được
soi sáng cả, nên tùy ý hướng mà làm mọi sự nghiệp.
Đại nguyện thứ ba, nguyện con sau
này, khi được tuệ giác vô thượng, thì vận dụng vô lượng trí tuệ
và phương tiện, làm cho mọi người cùng được vô tận những vật hưởng
dụng, không để cho ai có sự thiếu thốn.
Đại nguyện thứ tư, nguyện con
sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì những kẻ đi theo tà đạo đều
được làm cho ở yên trong đạo giác ngộ, những người tu theo thanh văn
duyên giác đều được xây dựng bằng pháp đại thừa.
Đại nguyện thứ năm, nguyện con
sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì vô số người tu hành phạn hạnh
trong chánh pháp của con, con làm cho tất cả được giới thể không thiếu
sót, trọn vẹn giới pháp ba loại. Giả sử phá phạm đi nữa, nghe danh hiệu
con rồi là phục hồi thanh tịnh, không rơi vào đường dữ.
Đại nguyện thứ sáu, nguyện con
sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ thân hình thấp kém,
giác quan không đủ, xấu xí, u mê, mù điếc, câm ngọng, tay quắp, chân quẹo,
lưng gù, phung lác, điên cuồng, đủ thứ bịnh khổ, nhưng nghe danh hiệu
con rồi, tất cả đều đẹp đẽ, thông minh, giác quan hoàn bị, hết mọi
bịnh khổ.
Vạn 35/173a, dẫn kinh A tu la nói, Lưu
ly quang bồ tát gặp Trí thắng phật thì bắt đầu phát ra đại nguyện tổng
quát, nơi Bảo đảnh phật mới phát ra đại nguyện riêng biệt. Lại dẫn
kinh Thập phương chư Phật hiện tiền, nói, nơi Thanh long quang phật phát
ra 12 đại nguyện. Như vậy, văn từ 12 đại nguyện chữ "ngã" phải
dịch "con", vì là lời Bồ tát nguyện với Phật.
Tuệ giác vô thượng, nguyên Hoa văn
ở đại nguyện 1 nói đủ là A nậu đa la tam niệu tam bồ đề (Anuttara -
samyaka - sambodhi), ở 11 đại nguyện sau nói tắt là bồ đề. Đó là tuệ
giác của Phật. Nói được tuệ giác ấy có nghĩa là nói thành Phật. Lại
khéo an trú (thân thiện an trú), chữ thân bỏ, vì nó đã là chủ từ cả
đoạn văn này. Khéo an trú : khéo ngồi yên tịnh, khéo yên tịnh. Giới
pháp ba loại (tam tụ giới) = giới pháp bồ tát, cùng lúc phải đủ nhiếp
luật nghi (đoạn ác) nhiếp thiện pháp (tu thiện) nhiêu ích hữu tình (lợi
người). Nghe danh hiệu con rồi là nói tắt. Nói đủ một chút thì "rồi,
biết nhất tâm qui y, trì niệm, thì nhờ năng lực phước đức và uy thần
của con ..."
Đại nguyện thứ bảy, nguyện con
sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ bị mọi thứ bịnh khổ
hành hạ mà không ai cứu giúp, không nơi nương tựa, không có y sĩ, không
có dược liệu, không có thân thuộc, không có nhà cửa, nghèo nàn lắm khổ,
thì danh hiệu của con, một khi đi qua thính giác của họ, là bịnh khổ
tan biến, thân tâm an lạc, nhà cửa, thân thuộc và đồ dùng, đầy đủ tất
cả, cho đến thực hiên được tuệ giác vô thượng.
Đại nguyện thứ tám, nguyện con
sau này, khi được tuệ giác vô thượng, nếu có nữ nhân nào bị hành hạ
bởi cả trăm thứ khổ sở của nữ nhân, nên cùng cực chán ngán, muốn
thoát thân ấy, thì nghe danh hiệu con rồi, tất cả đều chuyển thân nữ
nhân thành thân nam tử, đủ tướng trượng phu, cho đến thực hiện được
tuệ giác vô thượng.
Đại nguyện thứ chín, nguyện con
sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì làm cho mọi người thoát khỏi
mạng lưới của ma vương, cởi mở thắt buộc của ngoại đạo. Sa vào rừng
rậm ác kiến thì sẽ được dẫn ra, đem đặt vào chánh kiến, và dần dần
làm cho họ thực tập các hạnh bồ tát, để thực hiện một cách mau
chóng tuệ giác vô thượng.
Đại nguyện thứ mười, nguyện
con sau này, khi được tuệ giác vô thượng, thì những kẻ bị phép vua ghi
sổ, xích trói đánh khảo, giam nhốt lao ngục, sắp bị hành hình, cọng với
vô lượng tai nạn khổ nhục, bi thảm sầu muộn khác nữa, ngâm nấu bức
bách, làm cho cả cơ thể lẫn tâm trí đều chịu thống khổ, nhưng nghe
danh hiệu của con, thì vì năng lực phước đức và uy thần của con mà họ
thoát hết mọi sự lo sợ khổ sở. Đại nguyện mười một, nguyện con
sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ bị đói khát hành hạ,
vì cầu cái ăn mà làm mọi ác nghiệp, nhưng nghe được danh hiệu của
con, nhất tâm thọ trì, thì trước hết con làm cho họ no đủ cơ thể bằng
thực phẩm tuyệt diệu, sau đó con sẽ đem cái vui cứu cánh của pháp vị
mà xây dựng cho họ.
Đại nguyện mười hai, nguyện con
sau này, khi được tuệ giác vô thượng, những kẻ nghèo thiếu y phục,
ngày đêm khổ sở vì muỗi mòng lạnh nóng, nếu nghe danh hiệu của con mà
nhất tâm thọ trì, thì như sở thích của họ, họ được liền những thứ
y phục tuyệt diệu, lại được những đồ trang sức bằng vàng ngọc. Hoa
vòng, hương xoa, âm nhạc hòa tấu và mọi kyՠthuật biểu diễn, tùy ý họ
thích, con làm cho đầy đủ tất cả. Mạn thù, đó là mười hai đại nguyện
tối thượng, nhiệm mầu, của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như
lai, ứng cúng, chánh biến tri, đã lập ra khi còn làm hạnh bồ tát.
Trong đại nguyện thứ 7, nhà cửa
thân thuộc (gia thuộc tư cụ), tài liệu 9 (Anh văn, trang 4 dòng 11) dịch
là gia tộc, bạn bè. Cho đến thực hiện được tuệ giác vô thượng, câu
này, và những văn ý tương tự, có 2 điểm cần chú ý: (a) chính sự sống
và phương tiện để sống, đã được sau khi trì niệm danh hiệu Phật, cũng
là công cụ dẫn đến sự thành Phật; (b) chữ cho đến là nói tắt sự
tu dần các hạnh bồ tát. Pháp vị: mùi vị chánhpháp. Chánh pháp đem lại
hoan lạc thật, bền, và cho cả thân lẫn tâm, nên gọi là pháp vị.
Công Đức
B3 này có 7C: 1. nói về y chánh
trang nghiêm, 2. nói về đại dụng của danh hiệu, 3. nói về đại dụng của
chú, 4. nói về đại dụng của sự phụng trì, 5. nói là chỗ hiểu biết
sâu xa của Phật (42) , 6. nói cách tiêu tai diên thọ, 7. nói sự hộ vệ của
Dạ xoa. Tổng quát thì, bằng 7 cách nói, C3 này nói về y chánh, danh hiệu
và diệu dụng, là 3 đại yếu công đức của đức Dược sư. Cũng nên
nói thêm, công đức ấy là của đại nguyện, do đại nguyện thành tựu.
Nói Về Y
Chánh Trang Nghiêm
Nhưng văn này chỉ nói y báo trang
nghiêm của đức Dược sư. Mà nói rất vắn tắt. Còn chánh báo trang
nghiêm đã nói trong B1.
Mạn thù, những đại nguyện tối
thượng của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai đã lập ra khi
còn làm hạnh bồ tát, và những công đức trang nghiêm của thế giới hệ
đức Phật ấy, Như lai diễn tả trong một đại kiếp, hay hơn một đại
kiếp, cũng không thể cùng tận. Thế giới hệ của đức Phật ấy hoàn
toàn thanh tịnh, không có nữ nhân, không có ác đạo, không có cả đến cái
tiếng thống khổ. Đất làm bằng ngọc lưu ly. Đường ngăn bằng giây
vàng. Thành, cửa thành, cung điện, lầu gác, mái hiên, cửa sổ, lưới
giăng, toàn bằng bảy thứ quí báu. Y như thế giới hệ Cực lạc ở phía
tây, công đức trang nghiêm không khác gì cả.
Đại kiếp (kiếp), kiếp này là đại
kiếp (TH 28/2326). Kiếp, Phạn tự là kalpa, âm: kiếp ba, nghĩa: trường thời
(thời kỳ dài). Kiếp có tiểu, trung và đại. Sự sống con người từ 10
tuổi, cứ mỗi trăm năm tăng 1 tuổi, tăng đến 84.000 tuổi gọi là 1 tăng.
Sự sống con người từ 84.000 tuổi, cứ mỗi trăm năm giảm 1 tuổi, giảm
đến 10 tuổi gọi là 1 giảm. Mỗi 1 tăng hay mỗi 1 giảm gọi là tiểu kiếp;
mỗi 1 tăng và giảm gọi là trung kiếp (4 thời kỳ thành, trú, hoại,
không, mỗi thời kỳ có 20 trung kiếp); 4 thời kỳ (nghĩa là 80 lần tăng và
giảm) là 1 đại kiếp: đó là thuyết Câu xá luận. Mỗi 1 tăng và giảm mới
là tiểu kiếp; 20 tiểu kiếp (20 lần tăng và giảm) mới là trung kiếp, 4
thời kỳ thành, trú, hoại, không, mỗi thời kỳ có 1 trung kiếp; 4 thời kỳ
(nghĩa là 80 lần tăng và giảm) là 1 đại kiếp: đó là thuyết Trí độ
luận. Cả 2 thuyết đồng nhau về số lượng của đại kiếp.
Đường ngăn bằng giây vàng là chỉ
hay lề đường bằng vàng. Lưới giăng: kể cả các đường xoi hồi văn.
Bảy thứ quí báu: kinh Di đà nói là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ,
xích châu, mã não (suvarna, rupya, vaidurya, sphatika, musara galva, rohita-mukta,
asmagarbha).
Thế giới hệ ấy có hai vị đại
bồ tát, thứ nhất danh hiệu Nhật quang biến chiếu, thứ hai danh hiệu
Nguyệt quang biến chiếu. Đó là hai vị đứng đầu chúng bồ tát nhiều
vô số lượng của thế giới hệ ấy, thứ lớp kế vị thành Phật, và
cùng có khả năng nắm giữ kho tàng ngọc báu chánh phápcủa đức thế tôn
Dược sư lưu ly quang như lai. Thế nên, Mạn thù, nhữngthiện nam hay thiện
nữ có đức tin hãy nguyện sanh thế giới hệ của đức Phật ấy.
Thứ lớp kế vị thành Phật (thứ
bổ Phật xứ), nghĩa đen: kế tiếp bổ vào chỗ Phật. Thứ bổ Phật xứ
cũng gọi tắt là bổ xứ: bổ vào chỗ Phật. Lại hay thêm "nhất sanh
bổ xứ" : một đời nữa là bổ vào chỗ Phật. Thêm bớt gì cũng chỉ
một nghĩa: vị bồ tát chỉ còn một đời nữa là thành Phật, thay vào chỗ
đức Phật của mình. Vị bồ tát như vậy gọi là bổ xứ bồ tát. Vì
còn hệ thuộc một đời nên cũng gọi là nhất sanh sở hệ bồ tát. Như
bổ xứ bồ tát của đức Thích ca là đức Di lạc, của đức Di đà là
đức Quan âm, của đức Dược sư là đức Nhật quang (và sau đó là đức
Nguyệt quang).
Nguyện sanh thế giới hệ của đức
Phật ấy, chú ý: sanh, chứ không phải vãng sanh. Nói vãng sanh chỉ để dễ
hiểu. Mười phương quốc độ đều duy Tâm sở hiện. Tâm uế thì sanh uế
độ, Tâm tịnh thì sanh tịnh độ. Sanh nghĩa là hiện khởi, hiện hành.
Nói Về Đại
Dụng Của Danh Hiệu
Đại dụng ấy đâu phải chỉ năm
ba việc. Sau đây chỉ là nói 5 việc làm điển hình mà thôi.
Diệt Sự Tham Lẫn
Mà Được Sự Bố Thí
Lúc ấy, đức Thế tôn lại bảo Mạn
thù đồng tử, Mạn thù, có những kẻ không nhận thức cái lẽ thiện
ác, chỉ giữ thói tham lẫn mà không biết bố thí và phước báo bố thí.
Ngu muội, không có trí tuệ, thiếu cả đức tin. Dồn chứa tài sản vàng
ngọc cho nhiều, nỗ lực mà giữ. Thấy người xin đến, lòng họ không
vui. Giả sử bất đắc dĩ mà bố thí, thì lúc đó đau tiếc sâu xa như cắt
thịt mình. Lại còn lắm kẻ tham lẫn, dồn chứa tài sản, mà đối với
bản thân của họ, họ còn không hưởng dụng, huống chi có thể đem cho
cha mẹ, vợ con, tôi tớ, người làm hay kẻ đến xin. Những kẻ ấy, sinh
mạng kết thúc ở đây thì sanh trong thế giới quỉ đói hay súc vật. Nhưng
xưa kia, khi ở trong loài người, từng được thoáng nghe danh hiệu của đức
Dược sư lưu ly quang như lai, nên ngày nay, dẫu ở trong ác đạo, vẫn thoáng
nhớ danh hiệu của đức Như lai ấy, và ngay khi nhớ thì chết ở ác đạo
mà sanh lại loài người, được sự nhớ đời trước nên sợ nỗi khổ
ác đạo mà không ham dục lạc, thích bố thí và ca tụng người bố thí.
Có gì cũng không tiếc. Dần dần tiếp theo, đầu mắt, tay chân, máu thịt,
và những bộ phận khác của cơ thể, còn có thể đem cho người đến
xin, huống chi những thứ tiền tài sản vật khác.
Người làm (tác sử): người làm
việc cho mình, người của mình sai sử. Ngay khi nhớ thì chết ở ác đạo
mà sanh lại loài người, được sự nhớ đời trước nên sợ nỗi khổ
ác đạo mà không ham dục lạc, thích bố thí và ca tụng người bố thí,
đó là những hiệu quả tốt của sự nhớ lại danh hiệu Phật. Ở trong
ác đạo mà nhớ lại được danh hiệu Phật mới khó. Nên chết liền ở
ác đạo và nhớ đời trước ở đó, chính là phước báo. Rồi dần dần
có gì cho nấy, cho cả của ở trong là tư tưởng, sức lực, uy thế và cơ
thể, thì đó là hành bồ tát đạo, và cũng là hiệu quả của sự nhớ lại
danh hiệu Phật.
Diệt Sự Phạm Tội
Mà Được Sự Giữ Giới
Mạn thù, có kẻ dầu thọ giới
pháp với Như lai mà lại phá giới pháp ấy. Có kẻ không phá giới pháp
mà phá qui tắc. Có kẻ đối với giới pháp và qui tắc tuy được sự không
phá hoại, nhưng lại phá hoại chánh kiến. Có kẻ không phá hoại chánh kiến
mà bỏ phế đa văn, nên đối với nghĩa lý sâu xa của kinh Phật nói
không thể lý giải. Có kẻ tuy đa văn mà thượng mạn : vì thượng mạn
úp che tâm trí nên cho mình phải, bảo người trái, ghét chê cả chánh
pháp, làm bè đảng với ma. Những kẻ ngu si như vậy tự mình đã làm theo
tà kiến, lại làm cho vô số người khác rơi xuống hố lớn nguy hiểm. Những
kẻ ấy đáng lý trôi lăn vô cùng trong địa ngục, súc sanh và loài quỉ.
Nhưng nếu được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, thì
bỏ ngay tánh ác, tu các pháp lành, và sẽ không sa vào các ác đạo. Giả sử
có kẻ vẫn không thể bỏ ngay tánh ác, tu các pháp lành, và phải sa vào
ác đạo đi nữa, thì nhờ uy lực đại nguyện của đức Dược sư lưu ly
quang như lai mà làm cho họ thoáng nghe được danh hiệu của ngài, sinh mạng
kết thúc ở ác đạo, sanh lại trong loài người, được chánh kiến, tinh
tiến, và ý thích khéo thuần hóa, nên thoát ly gia đình, đi đến phi gia đình,
ở trong pháp Như lai mà thọ giới, giữ giới, không có phạm giới mà lại
chánh kiến, đa văn, lý giải nghĩa lý cực kỳ sâu xa mà lại viễn ly thượng
mạn, không chê chánh pháp, không làm bạn ma, dần dần tu hành các hạnh bồ
tát và đầy đủ một cách mau chóng.
Qui tắc cũng là giới luật mà gồm
hết các phần uy nghi và "kiền độ", nói tóm, là mọi qui định về
tất cả sự tổ chức và sinh hoạt của hàng xuất gia. Thượng mạn =
tăng thượng mạn, là sự kiêu ngạo cho mình đã được pháp tăng thượng.
Ở đây là tự thị sự đa văn cho là đã thấu triệt. Đáng lý trôi lăn
vô cùng, đáng lý, nguyên văn là ưng, nghĩa đen: nên, phải, lẽ ra, đáng
lý. Mà nói như vậy là gần như nói định nghiệp. Vậy mà nghe (và trì)
danh hiệu Phật thì sự đáng lý ấy không còn nữa, chứng tỏ diệu dụng
của danh hiệu Phật thật lớn và mạnh. Nhờ uy lực đại nguyện của đức
Dược sư lưu ly quang như lai mà làm cho họ thoáng nghe được danh hiệu của
ngài, nên chú ý văn và nghĩa của câu "nhờ uy lực đại nguyện"...
"Làm cho họ thoáng nghe" (linh kỳ hiện tiền tạm văn), đủ thì phải
dịch: làm cho họ hiện tại thoáng nghe. Hiện tại đây là đang lúc sa vào
ác đạo. Đi đến phi gia đình (thú ư phi gia) thấy có người dịch từ
Paly là sống không gia đình. Làm bạn ma: làm bè đảng với ma. Ma đây là
ma vương.
Diệt Sự Ganh Ghét
Mà Được Sự Giải Thoát
Mạn thù, có những kẻ tham lẫn
ganh ghét, tán tụng bản thân, công kích kẻ khác, nên sẽ sa vào ba ác đạo,
nhiều lần ngàn năm chịu mọi sự khổ sở khốc liệt. Chịu khổ sở khốc
liệt rồi, sinh mạng kết thúc ở đó mà đến sanh trong loài người, thì
làm trâu bò, lừa ngựa, lạc đà, thường bị đánh đập, đói khát hành
hạ, lại luôn luôn mang nặng, chở nhiều, và đi theo đường phải đi; hoặc
được làm người thì sinh nơi hèn hạ, làm tôi tớ người, bị người
sai sử, thường mất tự do. Nhưng nếu xưa kia, khi còn làm người, từng
nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì do nhân
lành ấy mà nay nhớ lại, chí tâm qui y; nhờ thần lực của Ngài mà thoát
hết khổ sở, giác quan tinh nhuệ, trí tuệ đa văn, thường cầu thắng pháp,
thường gặp thiện hữu, đứt hẳn lưới ma, đập vỏ vô minh, khô sông
phiền não, giải thoát hết thảy sinh lão bịnh tử, lo buồn khổ não.
Trâu bò (ngưu), Hoa văn thì trâu bò
gì cũng là ngưu, phân biệt chăng là thủy ngưu hoàng ngưu mà thôi. Thắng
pháp: chánh pháp hơn hết.
Diệt Sự Hại Nhau
Mà Được Sự Thương Nhau
Mạn thù, có những kẻ tính thích
chống đối, ly gián, đấu tranh, kiện tụng, gây bực tức và rối loạn
cho bản thân và kẻ khác. Đem cả thân thể, lời nói và ý nghĩ mà tạo
ra và thêm lớn đủ thứ ác nghiệp. Gây mãi cho nhau những sự bất lợi
để mưu hại lẫn nhau. Cáo triệu những vị thần rừng núi, cây cối, mồ
mả; giết sinh vật lấy máu huyết mà cúng tế dạ xoa, la sát; viết tên
người mình oán, làm hình và ảnh của người ấy, đem chú thuật tàn ác
mà thư; ếm phù chú, dùng thuốc độc, chú quỉ khởi thi - dùng mọi cách
này mà làm đứt sinh mạng người ấy, làm chết thân họ. Người ấy nếu
được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly quang như lai, thì mọi việc
dữ trên không cách nào hại được. Lại cùng kẻ kia, tất cả đôi bên
đều nổi dậy từ tâm đối với nhau, làm lợi ích an lạc mà không còn
ý thức thương tổn hay tâm lý ghét giận. Đôi bên cùng vui đẹp. Đối với
những thứ mình hưởng thụ, ai cũng thích vừa đủ thì thôi, không muốn
lấn nhau, chỉ làm lợi ích cho nhau.
Gây mãi cho nhau những sự bất lợi
để mưu hại lẫn nhau... (triển chuyển thường vi bất nhiêu ích sự, hỗ
tương mưu hại) cũng có thể dịch: gây mãi cho nhau những sự bất lợi, mưu
hại lẫn nhau, bằng cách... Dạ xoa (dược xoa = yaksha) một loại quỉ ăn
thịt người, mạnh, nhanh, khó lường, ở trên mặt đất, trong không gian
và trên chư thiên. La sát (= raksasa) tên chung các ác quỉ, ăn uống máu thịt
loài người, phi trong không hoặc đi trên đất, giống cái rất đẹp (và gọi
là raksasi).
Thuốc độc (cổ đạo) : đồ độc
luyện có thuật, với ác ý. Chú quỉ khởi thi nghĩa là chú cho thây chết
đứng dậy. Dùng chú Vetala tụng mà chú cho thây chết đứng dậy, bảo đi
giết người, gọi là quỉ khởi thi (Phạn: krtya, Paly : kicca). Người ấy nếu
được nghe danh hiệu..., người ấy là "người mình oán" ở trên,
là người bị thù oán. Lại cùng kẻ kia..., kẻ kia là kẻ thù oán, kẻ đã
dùng mọi cách mà hại người ở trên. Đôi bên cùng vui đẹp (các các
hoan duyệt) cũng có thể dịch nôm na là ai nấy đều vui vẻ. Thích vừa đủ
thì thôi (hỷ túc = tri túc) dịch không thừa thì chỉ là thích đủ.
Được Sinh Cực Lạc
Hay Các Sự Chuyển Sinh Khác
Mạn thù, trong bốn chúng tỷ kheo,
tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, và những thiện nam thiện nữ khác có đức
tin thuần tịnh, nếu ai có khả năng thọ trì Bát quan trai giới, bằng
cách hoặc cả năm hoặc ba tháng, thọ trì giới ấy. Rồi đem thiện căn này
nguyện sanh thế giới hệ Cực lạc ở phía tây, chỗ A di đà phật, để
được nghe chánh pháp của ngài, nhưng chưa quyết định. Nếu nghe danh hiệu
của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì đến khi sinh mạng kết
thúc, có tám vị đại bồ tát, danh hiệu Văn thù sư lợi bồ tát, Quan thế
âm bồ tát, Đắc đại thế bồ tát, Vô tận ý bồ tát, Bảo đàn hoa bồ
tát, Dược vương bồ tát, Dược thượng bồ tát và Di lạc bồ tát ; tám
vị đại bồ tát này lướt không gian mà đến, chỉ đường cho người
ấy. Tức thì người ấy tự nhiên hóa sinh trong hoa sen bằng các thứ ngọc,
và đủ mọi màu sắc xen lẫn với nhau, của thế giới hệ Cực lạc.
Cả năm (nhất niên): trọn một năm,
mỗi năm. Cả năm thọ trì Bát quan trai giới là mỗi tháng trong một năm
thọ trì 6 ngày: 8, 14, 15, 23, 29, 30 (tháng thiếu thì lui lại các ngày 28,
29). Ba tháng là mỗi năm thọ trì Bát quan trai giới bằng cách chay tịnh 3
tháng: giêng, năm và chín.
Danh hiệu 8 vị đại bồ tát là
trích bản dịch 1 (Chính 21/533d) mà bổ túc. Danh hiệu ấy, Phạn tự như
sau, trích tài liệu 9.
- - Manjushri,
- - valokitesvara,
- - Maha srhama prapta,
- - Akohayamati,
- - Pouh thang wha (Hoa văn),
- - Bhaishajyaraja,
- - Bhaisajyasamudgata,
- - Maitreya.
Đoạn này nói danh hiệu của đức
Dược sư làm cho những người nguyện sanh Cực lạc được quyết định
sanh thế giới hệ ấy. Đoạn dưới đây nói danh hiệu của Ngài làm cho
người sanh lên cõi trời, hoặc làm cho người chuyển nữ thành nam:
Cũng có người nhờ sự ấy mà
sanh lên cõi trời. Tuy sanh lên cõi trời, nhưng thiện căn xưa cũng chưa cùng
tận, và không còn sanh lại tại các ác đạo. Mà sự sống lâu trên cõi
trời chấm hết thì sanh lại trong nhân gian. Bằng cách hoặc sanh làm luân
vương, thống nhiếp cả bốn đại châu, uy đức tự tại, xây dựng vô lượng
trăm ngàn chúng sanh vào mười thiện nghiệp. Hoặc sanh vào dòng sát đế lợi,
bà la môn, cư sĩ, đại gia, nhiều tiền tài, lắm vàng ngọc, kho bồ tràn
đầy, thân hình và tướng mạo đều đẹp đẽ trang nghiêm, bà con và bạn
bè cùng đầy đủ, trí tuệ thông minh, sức lực mạnh mẽ như đại lực
sĩ. Nếu là phụ nữ mà được nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược
sư lưu ly quang như lai, nhất tâm thọ trì, thì về sau không còn chịu lại
thân thể phụ nữ.
Sự ấy và thiện căn xưa đều chỉ
cho việc thọ trì Bát quan trai giới cả năm hay ba tháng nói trên. Đại
gia: gia đình thế tộc hoặc tôn xưng phụ nữ (đại gia = đại cô). Luân
vương = chuyển luân vương. Luân vương có 7 thứ quí báu, nhưng quan trọng
là bánh xe (luân). Luân vương có 4: bánh vàng, bánh bạc, bánh đồng, bánh
sắt. Luân vương có bánh xe vàng thì thống trị cả 4 đại châu: đông là
Thắng thần châu, nam là Thiệm bộ châu, tây là Ngưu hóa châu, bắc là
Câu lô châu. Các vị luân vương khác, bánh xe sắt chỉ thống trị 1 đại
châu phía nam, bánh xe đồng chỉ thống trị 2 đại châu phía nam và phía
tây, còn bánh xe bạc chỉ thống trị 3 đại châu phía nam, phía tây và
phía đông.
Mười thiện nghiệp là đình chỉ
10 ác nghiệp:
- * Thân không sát sanh,
- không trộm cướp,
- không dâm dục,
- * Miệng không nói dối trá,
- không nói thêu dệt,
- không nói hai lưỡi,
- không nói thô ác,
- * Ý không tham lam,
- không sân hận,
- không tà kiến,
Nói Về Đại Dụng
Của Chú
Trọn phần này trích bản dịch 5
(Chính 14/414g) mà bổ túc.
Mạn thù, khi đức Dược sư lưu ly
quang như lai thành tựu tuệ giác vô thượng bồ đề, thì do năng lực đại
nguyện xưa mà quán sát chúng sanh bị mọi bịnh khổ, như những bịnh gầy
ốm, co quắp, tiêu khô, vàng nóng, hoặc bị trúng bùa ếm, thuốc độc, hoặc
chết non, chết ngang trái. Muốn làm cho họ tiêu trừ những bịnh khổ ấy,
sở cầu mãn nguyện, nên bấy giờ đức thế tôn Dược sư lưu ly quang
như lai nhập định danh hiệu Diệt trừ mọi khổ não của chúng sanh. Nhập
định ấy rồi, từ trong nhục kế phóng ra ánh sáng lớn. Trong ánh sáng
này diễn ra đà la ni vĩ đại sau đây: Nam mô, Bạc già phạt đế, bệ sát
xã lũ rô - bệ lưu ly bát lạt bà - hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra
hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha: Án, bệ sát thệ, bệ
sát thệ - bệ sát xã - tam một yết đế, sa ha. Khi trong ánh sáng diễn ra
đà la ni vĩ đại ấy rồi, đại địa chấn động, phóng ánh sáng lớn, hết
thảy chúng sanh bịnh khổ tiêu trừ, hưởng được cái vui yên ổn. Mạn
thù, nếu thấy nam tử hay nữ nhân, ai bị bịnh khổ, thì nên nhất tâm
vì bịnh nhân ấy mà luôn luôn tinh khiết, tắm rửa, súc miệng, rồi đem
thực phẩm, dược phẩm, hay nước không có trùng, trì chú này một trăm lẻ
tám biến, cho họ uống, ăn, thì bịnh khổ họ có tiêu tan tất cả. Nếu
có cần gì, chí tâm tụng niệm thì cũng được như vậy, lại không bịnh,
thêm tuổi, và sau khi sinh mạng kết thúc thì sanh thế giới hệ của đức
Dược sư lưu ly quang như lai, được sự không còn thoái chuyển cho đến
tuệ giác bồ đề. Vì vậy, Mạn thù, nếu có nam tử nữ nhân nào đối với
đức Dược sư lưu ly quang như lai mà chí tâm, tha thiết, cung kính, cúng dường,
thì hãy thường trì chú này, đừng để phế bỏ, quên mất.
Trước hết, đây là mấy chỗ cần
âm thích. Thuốc độc (cổ độc = cổ đạo): coi lại trang 237. Chết ngang
trái (hoạnh tử), hoạnh là phi lý, bất trắc, dữ dội; hoạnh tử là chết
không đáng, ngang trái, dữ dội hay bất trắc. Đà la ni (dharani) dịch tổng
trì, có nghĩa nắm giữ toàn thể. Ở đây, đà la ni là chú, 1 trong 4 đà
la ni (văn, nghĩa, chú, nhẫn). Chú mà gọi đà la ni, vì chú do thiền định
phát khởi và tổng trì vô lượng văn nghĩa, vô lượng công đức. Mật giáo
còn nói, đà la ni dịch là minh (đà la ni do ánh sáng của Phật diễn ra)
là chú (hiệu nghiệm như thần, diệt trừ tai họa) là mật ngữ (không thể
hiểu nổi) là chân ngôn (lời nói chân thật của Phật). Luôn luôn tinh khiết,
dịch luôn luôn là vì có bản chép chữ thường vào đây. Nhưng tuồng như
không cần phải như vậy. Trừ trường hợp muốn như vậy.
Bây giờ có 4 chi tiết quan trọng cần
nói.
Chi tiết thứ 1, theo bản dịch 1
(Chính 21/536) thì tên 12 đại tướng Dạ xoa và chú này đều do Cứu thoát
bồ tát nói. Xét văn ý xuất xứ trên, và văn ý của chú, thấy như vậy
có lý hơn.
Chi tiết thứ 2, sau đây là Phạn tự
của chú, trích tài liệu 9, phần Anh văn, trang 11: Namo bhagavate bhaishajyaguru
vaiduryaprabha rajaya tathagataya arhate samyaksambuddhaya tadyatha. Om bhaishajye
bhaishajye bhaishajya samudgate svaha.
Chi tiết thứ 3, Vạn 35/189a nói,
Nam mô (namo) dịch qui y. Bạc già phạt đế (bhaigavate) dịch thế tôn. Bệ
sát xã lũ rô (bhaishajyaguru) dịch Dược sư. Bệ lưu ly bát lạt bà - hát
ra xà dã (vaiduryaprabha-rajaya) dịch âm và nghĩa là lưu ly quang. Đát tha yết
đa dã (tathagataya) dịch như lai. A ra hát đế (arhate) dịch ứng cúng. Tam miệu
tam bột đà da (samyaksambuddhaya) dịch chánh biến tri. Đát điệt tha
(tadyatha) dịch tức thuyết chú viết. Liên lạc lại, có nghĩa: Qui kính đức
thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, nói chú
như sau. Từ chữ Án đến chữ sa ha mới là chú, mật ngữ.
Chi tiết thứ 4, tôi cắt in ảnh nơi
2 trang phụ sau đây: a. nguyên Phạn tự cổ của chú này (và 1 câu tiểu
chú), cắt Vạn 35/196a; b. nguyên Phạn tự cổ, và một lối dịch âm khác,
của chú này, cắt Chính 19/21.
Nói Về Đại Dụng
Của Sự Phụng Trì
Đại dụng này cũng không phải chỉ
năm ba việc. Sau đây chỉ là nói điển hình mà thôi.
Phật Dạy Tổng
Quát Và Ngài Văn Thù Phát Nguyện
Mạn thù, nếu nam tử hay nữ nhân
có đức tin thuần tịnh, được nghe danh hiệu của đức Dược sư lưu ly
quang như lai, ứng cúng, chánh biến tri, nghe rồi trì niệm. Sáng sớm đánh
răng, tắm rửa, súc miệng sạch sẽ, đem các thứ hương hoa, trong đó có
hương đốt, hương xoa, và diễn tấu kyՠnhạc mà cúng dường hình tượng
của ngài. Đối với kinh này, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, nhất
tâm thọ trì, nghe học nghĩa lý. Đối với pháp sư giảng giải kinh này, cũng
nên cúng dường, mọi đồ giúp sống thân thể mà mình có, hãy cúng dường
đầy đủ, đừng để vị ấy thiếu thốn. Như vậy thì được chư Phật
hộ niệm, sở cầu mãn nguyện, cho đến thực hiện tuệ giác bồ đề.
Lời này, cũng như trọn C3 ở trên,
vẫn trích Chính 14/414d, nhưng đã đổi những chữ "bảy đức Phật
như trên" (như thượng thất Phật) thành những chữ "đức Dược
sư lưu ly quang" (Dược sư lưu ly quang). Lời này chỉ tài liệu 4 (bản
dịch 5) có.
Lời này Phật dạy tổng quát về
sự cúng dường hình tượng đức Dược sư, cúng dường kinh Dược sư, và
cúng dường pháp sư giảng dạy kinh ấy. Ích lợi của sự cúng dường
như trên là được chư Phật hộ niệm. Hộ niệm : gia hộ, tưởng nhớ,
truyền cảm hứng. Được chư Phật hộ niệm nên cầu gì được nấy, cho
đến thực hiện tuệ giác bồ đề (nghĩa là thành Phật). Tuệ giác bồ
đề, chữ tuệ giác là thêm cho dễ hiểu, thật ra chính bồ đề là tuệ
giác. Nhưng nói bồ đề chỉ là nói tắt A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Trong lời trên, còn nên chú ý câu
diễn tấu kyՍ nhạc (tác chúng kyՠnhạc). Cứ như chỗ tôi hiểu, thì tác
chúng kyՍ nhạc có 2 nghĩa hẹp và rộng. Hẹp thì chỉ có nghĩa hòa tấu
các nhạc khí. Rộng thì có nghĩa biểu diễn các kyՠthuật, trong đó có sự
hòa tấu nhạc khí.
Lúc ấy Mạn thù đồng tử bạch
Phật, bạch đức Thế tôn, con nguyện khi thời kỳ Phật pháp tương tự
xuất hiện, thì dùng mọi cách làm cho những thiện nam hay thiện nữ có đức
tin thuần tịnh được nghe danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly
quang như lai. Cho đến trong lúc ngủ, con cũng đem danh hiệu Ngài thức tỉnh
thính giác của họ. Bạch đức Thế tôn, đối với kinh này thì thọ trì
đọc tụng hay tuyên thuyết khai thị cho người, tự chép hay bảo người
chép, cung kính tôn trọng, đem hiến cúng những thứ hương hoa, hương xoa,
hương vụn, hương đốt, vòng hoa, chuỗi ngọc, tràng phan, bảo cái, và kyՠthuật
biểu diễn, trong đó có âm nhạc. Lấy tơ lụa có năm màu sắc làm bao mà
đựng. Quét rưới chỗ thanh tịnh, trần thiết dá cao mà để. Thì khi ấy
bốn đại thiên vương, cùng tùy thuộc của họ, và vô số trăm ngàn
thiên chúng, đều đến chỗ đó mà cúng dường, hộ vệ. Bạch đức Thế
tôn, những chỗ kinh bảo này lưu hành, có ai thọ trì được, thì vì bản
nguyện, công đức, và danh hiệu được nghe, của đức thế tôn Dược sư
lưu ly quang như lai, mà nên biết chỗ ấy không còn chết ngang trái, không
còn bị những quỉ thần ác đoạt mất tinh chất. Đã bị đoạt thì được
lại như cũ, thân tâm an lạc.
Khi thời kỳ Phật pháp tương tự
xuất hiện là khi tượng pháp xuất hiện. Nhưng tra các bản dịch, câu
này khác nhau như sau: Bản dịch 1 "Phật khứ thế hậu" (Chính
21/533d); bản dịch 3 "hậu thời" (Chính 14/403t); bản dịch 5 "mạt
pháp" (Chính 14/414d). Sở dĩ tôi quan tâm và tra kyլ vì như trước tôi
đã nói, tôi không tin kinh này chỉ nói cho người tượng pháp.
Dá cao (cao tòa) tòa là cái dá, cái
ghế hay bàn. Bốn đại thiên vương: đông là Trì quốc (Dhritarastra), nam
là Tăng trưởng (Virudhaka), tây là Quảng mục (Virupaksa), bắc là Đa văn
(Dhanada hay Vaisramana); 4 vị này hộ vệ 4 đại châu loài người nên gọi
là 4 thiên vương hộ thế (hộ vệ thế gian). Tinh chất (tính khí), tài liệu
9 (Anh văn, trang 13) và Pđ 2511t đều có ý nói là khí lực tinh thần của
con người. Tôi cho chữ này chỉ có nghĩa đen thông thường, nghĩa là nói
về tinh khí thật. Nhưng, để bớt thô, tôi đã đổi tinh khí ra tinh chất.
Còn muốn hiểu chữ tinh khí với nghĩa rộng thì như Pđ 349d dẫn kinh Đại
tập 52 nói, tinh khí có 3, là của đất, của chúng sanh và của pháp; 3 thứ
này được tăng trưởng bởi sự dưỡng dục Phật pháp, xí nhiên Tam bảo
chủng cho tồn tại lâu dài ở thế gian.
Phật Chỉ Cách Thức
Và Nói Ích Lợi
Phật dạy, Mạn thù, đúng như vậy,
đúng như ông nói. Mạn thù, nếu có thiện nam thiện nữ đức tin thuần tịnh,
muốn cúng dường đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, thì trước
hết, hãy tạo lập hình tượng của ngài, trần thiết tòa thanh tịnh mà
đặt để. Rãi các thứ hoa, đốt các thứ hương, đem các thứ tràng phan
mà trang hoàng chỗ ấy. Bảy ngày đêm thọ Bát quan trai giới, ăn đồ ăn
thanh tịnh. Tắm gội cho sạch và thơm, mặc y phục sạch sẽ. Nên phát
sanh tâm không dơ bẩn, tâm không giận dữ tác hại. Nghĩa là đối với hết
thảy chúng sanh khởi lên cái tâm lợi ích an lạc, từ bi hỷ xả và bình
đẳng. Rồi tấu nhạc và ca tụng, nhiễu quanh tượng phật Dược sư lưu
ly quang như lai theo chiều hướng bên phải. Lại nên tưởng niệm bản nguyện
và công đức của đức Như lai ấy, đọc tụng kinh này, tư duy nghĩa ý
và diễn giảng khai thị. Như vậy thì mọi sở cầu đều toại ý: cầu sống
lâu được sống lâu, cầu giàu có được giàu có, cầu quan chức được
quan chức, cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái.
Cách thức phụng thờ tượng và thọ
trì kinh của đức Dược sư mà đoạn này chỉ, ngoài hình thức cần có,
còn có sự thọ trì Bát quan trai giới, và khởi tâm từ bi lợi ích đối
với toàn thể. Như vậy có nghĩa mọi việc phải xuất từ tâm lý vị
tha. Còn lợi ích thực hiện được thì có 2 phần: phần được phước
(đoạn này nói) và phần khỏi nạn (đoạn sau nói). Phần được phước
thì phúc lộc thọ đủ cả. Lại rất nên thêm sự cầu nguyện làm thành
việc đáng làm, "cầu làm thành việc gì thì làm thành việc ấy".
Phật Nói Ích Lợi
Trong Sự Khỏi Nạn
Nếu ai bỗng nhiên bị ác mộng, thấy
đủ cảnh tượng khủng khiếp, hoặc bị những giống chim quái dị đến
tập hợp lại, hoặc chỗ ở có cả trăm sự quái dị xuất hiện ; kẻ
ấy nếu đem những đồ tuyệt diệu cung kính cúng dường đức thế tôn Dược
sư lưu ly quang như lai, thì những ác mộng và những cảnh tượng khủng
khiếp, những sự không cát tường, ẩn mất tất cả, không thể tác hại.
Nếu ai bị những sự hãi sợ như thủy tai, hỏa hoạn, khí giới, độc chất,
chơi vơi giữa chừng, sa xuống chỗ hiểm, voi dữ, sư tử, cọp, sói, gấu,
bi, rắn độc, bò cạp, rít, sâu, muỗi, nhặng, mà chí tâm tưởng niệm
được đức phật Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường, thì
mọi sự hãi sợ đều thoát được cả. Nếu ai bị nước khác xâm lăng,
quấy nhiễu, nội bộ trộm cướp, phản loạn, tưởng niệm cung kính đức
Như lai ấy, cũng thoát hết thảy.
Đoạn này khỏi 3 tai nạn: mọi sự
quái dị, mọi sự hãi sợ và quốc gia bất an. Sau đây có vài chỗ cần
âm thích. Độc chất (độc) cũng bao gồm độc khí. Sâu (do diên) =
Thereuonema tuberculata. Nước khác xâm lăng quấy nhiễu, không những đối với
lãnh thổ mà còn đối với chính trị, văn hóa và kinh tế (TH 28/2372).
Mạn thù, nếu có thiện nam thiện
nữ đức tin thuần tịnh, cho đến hết đời, không thờ vị trời nào
khác, chỉ nhất tâm qui y Phật Pháp Tăng, thọ trì giới pháp, như năm giới,
mười giới, bốn trăm giới của bồ tát, hai trăm năm mươi giới của tỷ
kheo, năm trăm giới của tỷ kheo ni. Nhưng đối với giới pháp của họ thọ
trì, hoặc có kẻ phá phạm nên sợ đọa lạc ác đạo. Nếu biết chuyên
tâm trì niệm danh hiệu đức phật Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính
cúng dường, thì quyết chắc không phải lãnh chịu đời sống trong ba ác
đạo.
Đây là khỏi tai nạn đọa lạc
ác đạo nếu phạm giới. Nhưng phạm giới mà biết sợ đọa lạc ác đạo
nên trì niệm danh hiệu đức Dược sư, mới khỏi tai nạn ấy. Còn không
biết sợ hay vẫn tái phạm mãi thì lại khác.
Nếu có nữ nhân nào, lúc gần sinh
sản, chịu đựng đau đớn cùng cực, mà biết chí tâm trì niệm danh hiệu,
lễ bái, ca tụng, cung kính, cúng dường đức Như lai ấy, thì mọi nỗi
đau đớn tan biến tất cả. Đứa con sinh ra, mọi bộ phận của thân hình
đều hoàn bị, sắc tướng của thân hình ấy đẹp và nghiêm, ai thấy cũng
hoan hỷ, giác quan tinh nhuệ, trí tuệ thông minh, yên ổn, ít bịnh, không
có một kẻ không phải người đoạt mất tinh chất của đứa con ấy.
Đây là khỏi sản nạn. Mẹ đã khỏi
nạn mà con sinh ra cũng hoàn hảo. Kẻ không phải người (phi nhân) là những
loài không phải loài người.
Nói Là Chỗ Hiểu
Biết Xâu Xa Của Phật
Lúc ấy đức Thế tôn bảo tôn giả
A nan, công đức mà đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai có, mà Như
lai đã ca tụng, là chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật, khó mà
lý giải, ông tin được không? Tôn giả A nan bạch Phật, bạch đức Thế
tôn uy đức cao cả, đối với khế kinh Ngài dạy, con không sinh tâm nghi ngờ.
Tại sao, vì thân thể, lời nói và ý nghĩ của các đức Như lai, không động
tác nào mà không thanh tịnh. Bạch đức Thế tôn, vầng nhật nguyệt kia
có thể làm cho rơi rụng, và Tu di, hòn núi chúa tể trong các hòn núi, cũng
có thể làm cho nghiêng đổ, nhưng lời nói của chư Phật thì không thể
làm cho khác đi được. Tuy nhiên, bạch đức Thế tôn, có những kẻ đức
tin không đủ, nghe nói chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của chư Phật thì
nghĩ, tại sao chỉ trì niệm một danh hiệu Phật của đức Dược sư lưu
ly quang như lai mà thu hoạch bao nhiêu công đức và ích lợi vượt bâểc
như vậy. Vì sự không tin này mà quay lại phỉ báng. Những kẻ ấy suốt
đêm trường mất lợi lạc lớn, đọa lạc ác đạo, trôi lăn không cùng.
Phật dạy tôn giả A nan, những kẻ ấy nếu nghe được danh hiệu của đức
thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai, chí tâm thọ trì, không sinh nghi hoặc,
mà vẫn đọa lạc ác đạo là điều không có. A nan, đó là chỗ hiểu biết
cực kỳ sâu xa của chư Phật, khó thể tin và hiểu. Nay ông tiếp nhận
được, phải biết toàn là do uy lực Như lai. A nan, hết thảy Thanh văn, Độc
giác, và các vị Bồ tát chưa bước lên thập địa, đều không thể tin
và hiểu một cách đúng như sự thực, chỉ trừ các vị Bồ tát còn hệ
thuộc một đời mà thôi. A nan, thân thể loài người khó mà có được, sự
tin tưởng tôn kính Tam bảo càng khó mà có được, nhưng nghe danh hiệu của
đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như lai lại khó được hơn những sự
khó được ấy. A nan, vô lượng bồ tát hạnh, vô lượng thiện phương tiện,
và vô lượng quảng đại nguyện, của đức Dược sư lưu ly quang như lai,
trong một đại kiếp hay hơn một đại kiếp, Như lai nói một cách đầy
đủ, thì đại kiếp ấy có thể kết thúc mau chóng, còn hạnh nguyện và
phương tiện của đức Phật này vẫn không cùng tận.
Kết thúc kinh Di đà, đức Phật nói
như sau, "Xá lợi phất, như ta bây giờ xưng tụng công đức bất khả
tư nghị của chư Phật, thì chư Phật ấy cũng xưng tụng công đức bất
khả tư nghị của ta, bằng cách nói rằng, đức phật Thích ca mâu ni làm
được cái việc rất khó, hiếm có, là có thể ở trong thời kỳ dữ dội
của quốc độ Sa bà, thời kỳ đầy cả 5 thứ vẩn đục là thời kỳ vẩn
đục, kiến thức vẩn đục, tâm lý vẩn đục, con người vẩn đục và
đời sống vẩn đục, mà thực hiện tuệ giác vô thượng bồ đề, lại
còn vì mọi người nói cái pháp mà toàn thể thế gian khó tin này. Xá lợi
phất, ông nên biết ta đã ở trong thời kỳ dữ dội đầy cả 5 thứ vẩn
đục mà làm việc khó làm, ấy là thực hiện tuệ giác vô thượng, lại
vì toàn thể thế gian nói cái pháp khó tin này, thì đó là việc rất
khó". Hãy đối chiếu đoạn văn này với đoạn văn trên, cũng thấy
phần nào tình ý của Phật.
Chỗ hiểu biết cực kỳ sâu xa của
chư Phật (chư Phật thậm thâm hành xứ), bản dịch 3 (Chính 14/403g) và bản
dịch 5 (Chính 14/415g) đều dịch "thậm thâm cảnh giới". Vậy
hành xứ = cảnh giới. Ngài Thái hư nói, hành xứ có 2 nghĩa: một, hành xứ
là chỗ biết của Phật; hai, hành xứ là chỗ làm của Phật (TH 28/2376).
Ở đây, công đức của đức Dược sư, trong đó có ích lợi mà danh hiệu
của ngài đem lại cho chúng sanh, là chỗ chỉ Phật làm và Phật biết,
nên gọi là "thậm thâm hành xứ". Hành xứ tuy có đủ 2 nghĩa như
vậy, nhưng nghĩa sau dễ hiểu nên tôi đã dịch "chỗ hiểu biết".
Đêm trường (trường dạ): thì
gian dài. Ở đây chỉ cho cảnh giới sanh tử: vừa dài dặc vừa tối tăm
(vì vô minh mà thiếu cả chánh tín). Bồ tát còn hệ thuộc một đời mà
thôi (nhất sanh sở hệ bồ tát) coi âm thích "thứ lớp kế vị thành
Phật", trang 227. Nhưng 1 đời có 2: (a) các vị đẳng giác bồ tát chỉ
còn 1 đời ứng thân nữa là thành Phật, mới thật là 1 đời; (b) các vị
thập địa bồ tát tuệ mạng báo thân liên tục, không còn phân đoạn
sanh tử, nên cũng có thể gọi là 1 đời. Thiện phương tiện = thiện xảo
phương tiện.
Chỉ Cách Tiêu Tai
Diên Thọ
Lúc ấy trong chúng hội có một vị
đại sĩ danh hiệu Cứu thoát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai
áo bên phải, gối bên phải quì xuống sát đất, cong mình, chắp tay mà bạch
Phật, bạch đức Thế tôn uy đức cao cả, khi thời kỳ Phật pháp tương
tự xuất hiện, có những kẻ bị mọi thứ bịnh hoạn làm cho nguy khốn.
Bịnh mãi, gầy ốm, ăn uống không được, cổ và môi đều khô nóng.
Nhìn mọi phía đều đen tối. Tướng chết xuất hiện. Cha mẹ, anh em, bà
con, bạn bè, quen biết, khóc lóc vây quanh. Nhưng bản thân bịnh nhân thì
tuy vẫn nằm chỗ của mình, mà lại thấy sứ giả Diêm vương dẫn thần
thức của mình đến trước vị vua chấp pháp này. Nguyên mọi người đều
có vị thần cùng sanh, tùy việc họ làm, tội cũng như phước, ghi chép đầy
đủ, và bấy giờ trao cả cho Diêm vương. Diêm vương tra hỏi kẻ ấy, tính
việc họ làm, tùy tội và phước mà xử phán. Chính trong lúc này, thân
thuộc hay quen biết của bịnh nhân, nếu biết vì họ mà qui y đức thế tôn
Dược sư lưu ly quang như lai, cung thỉnh chư Tăng đọc tụng kinh này, đốt
cây đèn bảy tầng, treo phan thần "tiếp nối mạng sống" bằng năm
màu. Thì hoặc có kẻ nơi đây thần thức về được, và như trong chiêm
bao, tự thấy rõ ràng. Hoặc trải qua bảy ngày, hoặc hai mươi mốt ngày,
hoặc ba mươi lăm ngày, hoặc bốn mươi chín ngày, khi thần thức về được
thì như từ chiêm bao thức dậy, tự nhớ biết tất cả quả báo của thiện
nghiệp ác nghiệp. Nhờ tự chứng kiến nghiệp báo, nên đến nỗi gặp phải
tai nạn cho sinh mạng, cũng không tạo tác ác nghiệp. Vì vậy, những thiện
nam thiện nữ đức tin thuần tịnh, hãy thọ trì danh hiệu của đức Dược
sư lưu ly quang như lai, tùy sức có thể mà cung kính cúng dường.
Thời kỳ Phật pháp tương tự (tượng
pháp) chỉ bản dịch 5 cũng dùng chữ này (Chính 14/415g), còn bản dịch 1
không dùng chữ gì (Chính 21/535g), bản dịch 3 dùng chữ "vị lai thế"
(Chính 14/403d). Nhìn mọi phía đều đen tối (kiến chư phương ám) là tả
hiện tượng sắp chết, mà là cái chết đọa lạc ác đạo. Diêm vương
(Diệm ma pháp vương = Yama-raja) dịch nghĩa là Phược: trói buộc tội
nhân, Bình đẳng vương: bình đẳng trị tội. Diêm vương là tổng quản
điểa ngục. Sứ giả Diêm vương (Diệm ma sứ) là lính quỉ mà Diêm vương
sai bắt dẫn những kẻ làm ác. Khác với thiên sứ của Diêm vương; thiên
sứ ấy là các sự già, bịnh và chết. Vị vua chấp pháp (Diệm ma pháp vương)
là Diêm vương: Diêm vương chấp chưởng pháp quyền ở địa ngục, nên gọi
như vậy.
Thần thức: nghiệp thức và trung hữu.
Vị thần cùng sanh (câu sanh thần): thần năm tháng ngày giờ sinh hay bản
thức. Bản thức là tổng thể dị thục, lại tiếp nhận huân tập và chấp
trì chủng tử của nghiệp, nên gọi là thần câu sanh. Vạn 35/177a nói, do
nghiệp lực mà ý thức bịnh nhân hiện 4 tướng: sứ giả Diêm vương, thần
thức của mình, Diêm vương và thần cùng sanh. Có kẻ nơi đây (hoặc hữu
thị xứ), thị xứ (nơi đây) là ngay nơi cái lúc làm phước đây, do người
thân làm cho bịnh nhân sắp chết. Thần thức về được (bỉ thức đắc
hoàn): sinh mạng là bản thức liên tục chấp trì, chết là ý thức hết
khởi phân biệt, sống là ý thức lại khởi phân biệt. Về hay không về,
chỉ có nghĩa ý thức tái tục phân biệt hay gián đoạn phân biệt. Nhưng
bản thức biến nhất thế xứ. Chết chỗ này sanh chỗ kia là "tiền dị
thục ký tận, phục sanh dư dị thục". Không làm gì có sự đi, về,
qua, lại (TH 28/2388). Như trong chiêm bao, tự thấy rõ ràng là tự thấy rõ
ràng như thấy trong chiêm bao. Tự thấy rõ ràng là tự thấy rõ những
hình phạt mình bị phán chịu ở địa ngục, lại càng tự thấy rõ người
thân làm phước cho mình. Sự tự thấy này, cũng như sự tự nhớ của những
người mới chết 7 đến 49 ngày, và tự thấy tự nhớ rồi dẫu nguy đến
tánh mạng cũng không dám làm ác, toàn là do thần lực của đức Dược
sư.
Chỉ Thêm Cách
Tiêu Tai Diên Thọ, Đặc Biệt Tiêu Bịnh Khổ
Lúc ấy tôn giả A nan hỏi bồ tát
Cứu thoát, thiện nam tử, nên bằng cách nào cung kính cúng dường đức thế
tôn Dược sư lưu ly quang như lai? Phan và đèn "tiếp nối mạng sống"
nên làm cách nào? Bồ tát Cứu thoát nói, đại đức, nếu bịnh nhân muốn
thoát bịnh khổ, nên vì họ mà bảy ngày đêm thọ trì Bát quan trai giới.
Nên đem đồ ăn, đồ uống và đồ dùng, tùy sức liệu biện mà cúng dường
Tỷ kheo tăng. Ngày đêm sáu buổi lễ bái cúng dường đức thế tôn Dược
sư lưu ly quang như lai. Đọc tụng kinh này bốn mươi chín biến. Đốt bốn
mươi chín ngọn đèn. Tạo hình tượng đức Như lai ấy bảy vị. Trước
mỗi hình tượng để bảy ngọn đèn, cái lượng mỗi ngọn đèn lớn như
bánh xe. Và đến bốn mươi chín ngày đêm, ánh sáng không đứt. Còn làm
phan năm màu thì dài bốn mươi chín gang tay. Nên phóng sanh đến bốn mươi
chín giống khác nhau. Như vậy thì có thể qua được tai nạn nguy khốn, không
bị mọi thứ ngang trái và quỉ dữ tác hại.
Gồm các đoạn trước và đoạn này
nữa, cách thức tiêu tai diên thọ có cái mà ngày nay gọi là đàn Dược
sư. Đàn này gồm có 2 phần chính là phan và đèn. Phan bằng vải 5 màu,
dài 49 gang. Đèn có 7 tầng, mỗi tầng thiết 1 hình tượng đức Dược sư
và đốt 7 ngọn đèn càng lớn càng tốt (43) . Thì gian là 49 ngày đêm,
treo phan, đốt đèn, lạy tượng Dược sư mỗi ngày đêm 6 lần cách đều,
trì kinh Dược sư 49 ngày đêm mỗi ngày đêm 1 biến. Thân thì tắm rửa sạch
sẽ, mặc đồ sạch (và mới càng tốt). Miệng thì súc rửa sạch sẽ, ăn
uống đồ thanh tịnh (nhất là nói càng phải thanh tịnh). Ý thì phát khởi
từ bi, muốn ích lợi cho tất cả một cách bình đẳng. Trong thì gian 49
ngày làm đàn Dược sư như vậy còn làm 3 việc nữa: thọ trì Bát quan
trai giới, tùy sức cúng dường Tỷ kheo tăng, và phóng sanh đến 49 loại
(mỗi loại 49 con, hay 49 ngày đêm phóng sanh 1 lần).
Sau đây là mấy chỗ cần âm
thích. Ngày đêm sáu buổi lễ bái cúng dường đức thế tôn Dược sư
lưu ly quang như lai, hãy chú ý chữ lễ bái cúng dường: nhiều lúc nghĩa là
lễ bái và cúng dường, nhiều lúc nghĩa là đem sự lễ bái mà cúng dường.
Ở đây có cả 2 nghĩa. Phóng sanh: phóng thả sinh vật, tiếng tắt của từ
ngữ phóng tạp loại chúng sanh (hay phóng chư sinh mạng). Phóng sanh đến 49
loại khác nhau (phóng tạp loại chúng sanh chí tứ thập cửu), sát thì phải
dịch: phóng thả sinh vật nhiều loại lẫn lộn đến 49 thứ. Ngang trái
(hoạnh) hoạnh là họa hoạnh: tai họa phí lý, bất trắc, dữ dội.
Lại Còn Tiêu Quốc
Nạn
Đại đức A nan, nếu giai cấp Sát
đế lợi, các vị vua đã làm lễ quán đảnh, khi tai nạn nổi dậy, như dân
chúng bịnh dịch, nước khác lấn ép, nước mình phản nghịch, tinh tú
quái dị, nhật thực nguyệt thực, gió mưa trái thì, quá thì không mưa, thì
giai cấp Sát đế lợi, các vị vua đã làm lễ quán đảnh, lúc ấy, hãy
phát khởi tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh, ân xá những người bị
giam bị nhốt, và theo cách cúng dường tôi đã nói trên mà cúng dường đức
thế tôn Dược sư lưu ly quanh như lai. Nhờ thiện căn như vậy, và nhờ năng
lực bản nguyện của đức Như lai ấy, mà làm cho quốc độ của họ tức
khắc yên ổn, gió mưa điều hòa, lúa má thành thục, mọi người vô bịnh,
vui vẻ. Trong quốc độ của họ không có những loại thần Dạ xoa bạo
ác, tác hại chúng sanh. Mọi hiện tượng dữ ẩn mất tất cả và tức
thì. Còn giai cấp Sát đế lợi, và những vị vua đã làm lễ quán đảnh,
thì sự sống, tướng tốt, sức mạnh, vô bịnh và tự do, đều được
tăng thêm. Nếu hoàng hậu, hoàng phi, đông cung, vương tử, đại thần, phụ
chánh, thể nữ, bách quan và dân chúng, bị bịnh làm khổ, và bị những
tai nạn khác, cũng nên làm phan thần năm màu và đốt đèn sáng liên tục,
phóng các loại có sinh mạng, rải những bông hoa đủ màu, đốt những
hương thơm nổi tiếng, thì bịnh hết, nạn khỏi.
Sát đế lợi = Kshatriya, là điền
chủ, vương chủng; giai cấp võ sĩ, 1 trong 4 giai cấp của xã hội Ấn thời
cổ, làm vua và đại thần. Vua đã làm lễ quán đảnh, quán đảnh, nghĩa
đen là rưới nước lên đỉnh đầu. Nước này lấy ở sông biển 4 hướng,
ý chúc thống trị 4 phương thiên hạ. Làm lễ quán đảnh là như ngày nay
làm lễ da miện. Giai cấp Sát đế lợi, các vị vua đã làm lễ quán đảnh
(Sát đế lợi quán đảnh vương đẳng), rất nên hiểu và dịch là vị
vua đã làm lễ quán đảnh thuộc giai cấp Sát đế lợi. Cách cúng dường
đã nói trên là cách vừa nói ở đoạn trên đoạn này. Nhờ thiện căn
như vậy và nhờ năng lực bản nguyện của đức Như lai ấy, câu này đáng
lý đoạn nào cũng phải có. Mọi sự tiêu tai diên thọ và mọi sở cầu sở
nguyện mà được thực hiện, là nhờ tự lực được tha lực gia hộ
(như câu này nói).
Phụ chánh (phụ tướng) theo TH
28/2394 thì là tả phụ hữu bật, đứng đầu quần thần. Tài liệu 9 (Anh
văn, trang 18, dòng 24) dịch là tham nghị viên hay cố vấn của triều đình.
Thể nữ (trung cung thể nữ), trung cung là hoàng hậu, trung cung thể nữ là
thể nữ của hoàng hậu. Tài liệu 9 (Anh văn, trang 18 dòng 26) dịch là các
vị phu nhân thân cận hoàng hậu. Bách quan: quan chức tỉnh, vùng. Phóng
các loại có sinh mạng (phóng chư sinh mạng) là phóng sanh. Các loại có
sinh mạng là chúng sanh (ở đây là các loại sinh vật)
Tiêu Bất Định
Nghiệp
Lúc ấy tôn giả A nan lại hỏi bồ
tát Cứu thoát, thiện nam tử, tại sao mạng sống đã hết mà có thể làm
cho tăng thêm? Bồ tát Cứu thoát nói, đại đức, ngài không nghe đức Thế
tôn nói có chín sự chết ngang trái hay sao? Vì chín sự chết này mà tôi
khuyên làm phan và đèn "tiếp nối mạng sống", tu các phước đức.
Nhờ tu các phước đức mà trọn đời không trải qua một cơn đau đớn
hoạn nạn nào cả. Tôn giả A nan hỏi, chín sự chết ngang trái là gì? Bồ
tát Cứu thoát nói, có kẻ bị bịnh tuy nhẹ, nhưng không thầy, không thuốc,
không ai coi sóc. Gặp thầy thì lại bị cho thuốc không đúng, nên thật
không đáng chết mà chết một cách ngang trái. Lại tin thầy bà yêu nghiệt
của tà ma ngoại đạo thuộc phạm vi thế gian nói vớ vẩn về họa phước,
nên đâm ra sợ hãi, dao động. Tâm thì không tự chánh nó lại, lại đi bói
hỏi để tìm lấy tai họa. Giết hại sinh vật mà giải tấu thần minh,
van vái yêu quái để xin làm phước giúp đỡ, mong muốn thêm tuổi nhưng
chung cục không thể đạt được. Ngu si mê lầm, tin theo cái thấy cong và
ngược, nên làm chết mình một cách ngang trái, nhập vào địa ngục, không
có kỳ hạn thoát ra. Đó là sự chết ngang trái thứ nhất. Thứ hai, một
cách ngang trái bị phép vua giết. Thứ ba, săn bắn, chơi bời, đam mê tửu
sắc, phóng túng vô độ, một cách ngang trái bị những kẻ không phải người
đoạt mất tinh chất. Thứ tư, một cách ngang trái bị lửa đốt. Thứ
năm, một cách ngang trái bị nước chìm. Thứ sáu, một cách ngang trái bị
các giống thú dữ ăn. Thứ bảy, một cách ngang trái rơi xuống sườn núi.
Thứ tám, một cách ngang trái trúng chết bởi thuốc độc, ếm vái, chú thư,
quỉ khởi thi. Thứ chín, chết một cách ngang trái vì đói khát nguy khốn,
không được đồ ăn thức uống. Đó là sự chết ngang trái mà đức Thế
tôn nói vắn tắt có chín thứ như vậy. Ngoài ra còn có vô số những sự
ngang trái khác, khó nói cho đủ.
Tu các phước đức là thọ trì
Bát quan trái giới, tùy sức cúng dường Tỷ kheo tăng, và phóng sanh đến
49 loại. Tâm thì không tự chánh nó lại, lại đi bói hỏi để tìm lấy
tai họa (tâm bất tự chánh, bốc vấn mích họa), bản dịch 1 (Chính
21/535d) dịch "tâm bất tự chánh, bất năng tự định, bốc vấn mích
họa" (tâm không tự chánh, không thể tự định, đi bói hỏi mà tìm lấy
tai họa). Giải tấu: giải bày, tâu thưa. Cái thấy cong và ngược (tà đảo
kiến) là tà kiến.
Tiêu Cả Định
Nghiệp
Đại đức A nan, Diêm vương lãnh
xét sự ghi chép về sách tịch của thế gian. Ai bất hiếu cha mẹ, làm năm
tội nghịch, hủy nhục Tam bảo, phá phép vua tôi, làm hỏng tánh giới,
thì Diêm vương theo tội nặng nhẹ xét mà phạt. Vì lý do ấy, nay tôi khuyến
cáo mọi người đốt đèn, treo phan, phóng sanh, tu phước, làm cho họ qua
khỏi khốn khổ, không gặp mọi sự hoạn nạn.
Ghi chép về sách tịch thế gian là
ghi tội phước như trước đã nói. Tánh giới: giới nặng. Nhưng tất cả
bản chính đều chép "tín giới", nghĩa là chánh tín và tịnh giới.
Làm hỏng tín giới là tà kiến và phạm giới, là phá kiến và phá giới.
Treo phan (tạo phan), tạo là chế tạo, bày ra, dựng lên. Ở đây nên hiểu
là treo, dựng. Tu phước: như đã nói (trang 279 dòng 3) có 3, nay phóng sanh kể
rồi thì còn 2, là cúng dường Tỷ kheo tăng và thọ trì Bát quan trai giới.
Nói Sự Hộ Vệ Của
Dạ Xoa
Lúc ấy trong chúng hội có mười
hai vị đại tướng Dạ xoa, cùng có mặt ở đó, là đại tướng Cung tỳ
la, đại tướng Phạt chiết la, đại tướng Mê xí la, đại tướng An để
la, đại tướng Ngạch nễ la, đại tướng San để la, đại tướng Nhân
đạt la, đại tướng Ba di la, đại tướng Ma hổ la, đại tướng Chân đạt
la, đại tướng Chiêu đỗ la, đại tướng Tỳ yết la. Mười hai vị đại
tướng Dạ xoa này, mỗi vị có bảy ngàn Dạ xoa làm tùy thuộc, cùng lúc
cất tiếng bạch Phật, bạch đức Thế tôn, chúng con bây giờ nhờ uy lực
của Ngài mà nghe được danh hiệu của đức thế tôn Dược sư lưu ly
quang như lai, không còn nỗi sợ hãi về ác đạo nữa. Chúng con đốc suất
nhau, cùng nhau nhất tâm, suốt đời qui y Phật Pháp Tăng, thệ nguyện gánh
vác hết thảy chúng sanh, tạo cho họ cái lợi chân thật, cái vui lợi
ích. Tùy thôn làng, thị thành, thủ đô, và trong rừng thanh vắng, của bất
cứ xứ nào, mà hoặc có kinh này lưu hành, hoặc có kẻ trì niệm danh hiệu
của đức Dược sư lưu ly quang như lai, cung kính cúng dường Ngài, thì
chúng con, và tùy thuộc của chúng con, hộ vệ người ấy, làm cho họ
thoát mọi khổ nạn, mọi ước nguyện đều thỏa mãn. Hoặc ai bị bịnh
khổ mà cầu thoát qua, thì cũng nên đọc tụng kinh này, dùng tơ sợi năm
màu mà kết tên chúng con. Được toại nguyện rồi mới tháo kết ấy.
Lúc ấy đức Thế tôn tán dương các
đại tướng Dạ xoa, rằng lành thay các tướng Đại dạ xoa, lành thay,
các người nghĩ báo ân đức của đức thế tôn Dược sư lưu ly quang như
lai, thì thường nên như vậy mà lợi ích an lạc hết thảy chúng sanh.
Danh sách 12 đại tướng Dạ xoa, kê
theo Phạn tự thì như sau.
- 1. Kumbhira,
- 2. Vajra,
- 3. Mihira,
- 4. Andira,
- 5. Majira,
- 6. Shandira,
- 7. Indra,
- 8. Pajra,
- 9. Makura,
- 10. Sindura,
- 11. Catura,
- 12. Vikarala.
Đó là trích tài liệu 9 (Anh văn,
trang 20, dòng 23). Nhưng dịch nghĩa thì tìm không ra. Chỉ tìm thấy 2 danh
sách sau đây.
- (a) 1. Cực úy dược xoa đại tướng,
- 2. Kim cang dược xoa đại tướng,
- 3. Chấp nghiêm dược xoa đại tướng,
- 4. Chấp tinh dược xoa đại tướng,
- 5. Chấp phong dược xoa đại tướng,
- 6. Cư xứ dược xoa đại tướng,
- 7. Chấp lực dược xoa đại tướng,
- 8. Chấp ẩm dược xoa đại tướng,
- 9. Chấp ngôn dược xoa đại tướng,
- 10. Chấp tưởng dược xoa đại tướng,
- 11. Chấp động dược xoa đại tướng,
- 12. Viên tác dược xoa đại tướng.
- (b) 1. Khả úy đại tướng,
- 2. Kim cang đại tướng,
- 3. Hộ pháp đại tướng,
- 4. Hộ tỷ đại tướng,
- 5. Chánh pháp đại tướng,
- 6. La sát đại tướng,
- 7. Đế sử đại tướng,
- 8. Lang long đại tướng,
- 9. Canh phương đại tướng,
- 10. Chiết thủy đại tướng,
- 11. Hộ thế đại tướng,
- 12. Cần nộ đại tướng,
Danh sách (a) trích Chính 19/51g và
60t ; danh sách (b) trích Chính 19/67t.
Lợi chân thật (nghĩa lợi) cái lợi
chân chính, chắc thật, hợp chân lý. Thủ đô (quốc ấp).
Đoạn này cho thấy Dạ xoa mà thệ
nguyện gánh vác chúng sanh, hộ vệ mọi người, là do uy lực của đức
Dược sư, là công đức của ngài. Trong đoạn này, cuối cùng, còn đưa ra
một cách trừ bịnh nữa. Tra đọc các tài liệu sẽ thấy cách ấy cũng rất
quan trọng.
Nói Tên Kinh
Bấy giờ tôn giả A nan bạch Phật,
bạch đức Thế tôn, nên mệnh danh như thế nào về pháp môn này, và
chúng con nên phụng trì kinh này như thế nào? Phật dạy tôn giả A nan,
pháp môn này nên mệnh danh Nói về bản nguyện công đức của đức Dược
sư lưu ly quang như lai, cũng nên mệnh danh Nói về sự kết nguyện thần
chú để lợi ích chúng sanh của mười hai thần tướng, lại nên mệnh
danh Bạt trừ hết thảy nghiệp chướng. Nên phụng trì như vậy.
Phụng trì như vậy (như thị trì)
chỉ có nghĩa đơn giản là nhớ như vậy. Muốn xa hơn chút nữa thì
"hãy phụng trì theo ý nghĩa mệnh danh như vậy".
Chúng Hội Phụng
Hành
Khi đức Thế tôn nói lời này rồi,
các vị đại bồ tát cùng các vị đại thanh văn, quốc vương, đại thần,
đạo sĩ, cư sĩ, thiên chúng, long chúng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu
la, khẩn na la, ma hầu la dà, loài người và loài không phải người, toàn
thể đại chúng như vậy, nghe những điều Phật dạy, ai cũng cực kỳ
hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
Thiên chúng ... ma hầu la dà là 8 bộ
thiên long. Loài người và loài không phải người (nhân phi nhân), TH 28/2406
nói, thanh văn, quốc vương, vân vân, là loài người; thiên chúng, long
chúng, vân vân, là loài không phải người. Pđ 270t giải thích lại khác:
(a) là khẩn na la, vì như người mà không phải người; (b) chỉ cho tất cả
8 bộ, vì vốn không phải người, nhưng đến Phật thì hiện hình người
cả. Theo lối giải thích này, "nhân phi nhân" nên dịch "loài
như người mà không phải người". Nhưng xét văn ý kinh này, qua những
chỗ nói "phi nhân", thì thấy TH 28/2406 nói đúng với kinh này hơn.