- Kinh Phật Tự Thuyết
(Udàna)
- Chương Một
(I) (Ud 1)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Uruvelà,
trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Bồ đề, khi mới chứng Chánh
Đẳng Giác. Lúc bấy giờ, Thế Tôn trong bảy ngày ngồi trong một thế ngồi
kiết-già, thọ hưởng lạc giải thoát. Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy, ra
khỏi định ấy, trong đêm canh thứ nhứt, khéo thuận chiều tác ý lý
Duyên khởi: "Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh,
cái kia sanh. Tức là duyên vô minh, có các hành; duyên các hành, có thức;
duyên thức, có danh sắc; duyên danh sắc, có sáu xứ; duyên sáu xứ, có
xúc; duyên xúc, có thọ; duyên thọ, có ái; duyên ái, có thủ; duyên thủ,
có hữu; duyên hữu, có sanh; duyên sanh, có già, chết, sầu bi khổ ưu não.
Như vậy là sự tập khởi của khổ uẩn này".
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
1. Thật sự, khi các pháp,
Có mặt, hiện khởi lên,
Đối vị Bà-la-môn,
Nhiệt tâm hành thiền định,
Khi ấy, với vị ấy,
Các nghi hoặc tiêu trừ,
Vì quản tri hoàn toàn,
Pháp cùng với các nhân.
(II) (Ud 2)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở tại Uruvelà,
trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Bồ-đề, khi mới chứng Chánh
Đẳng Giác. Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày, ngồi trong một thế ngồi
kiết-già thọ hưởng lạc giải thoát. Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy, ra
khỏi định ấy, trong đêm canh giữa, khéo nghịch chiều tác ý lý Duyên khởi:
"Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu. Do cái này diệt,
cái kia diệt. Tức là, do vô minh diệt nên hành diệt; do hành diệt, nên thức
diêt; do thức diệt, nên danh sắc diệt; do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt;
do sáu xứ diệt nên xúc diệt, do xúc diệt nên thọ diệt, do Thọ diệt,
nên ái diệt; do ái diệt, nên hữu diệt; Do hữu diệt, nên sanh diệt; do
sanh diệt, nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não diệt. Như vậy là đoạn
diệt của khổ uẩn này".
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này.
2. Thật sự khi các pháp,
Có mặt, hiện khởi lên,
Đối với vị Bà-la-môn,
Nhiệt tâm, hành thiền định,
Khi ấy, với vị ấy,
Các nghi hoặc tiêu trừ,
Vì đã biết hoàn toàn,
Sự tiêu diệt các duyên.
(III) (Ud 2)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Uruvelà,
trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Bồ-đề, khi mới chứng Chánh
Đẳng Giác. Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày, ngồi trong một thế ngồi
Kiết-già, thọ hưởng lạc giải thoát. Rồi Thế Tôn, sau bảy ngày, ra khỏi
định ấy, trong đêm canh cuối cùng, khéo thuận chiều và nghịch chiều
tác ý lý duyên khởi: "Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái
này sanh, cái kia sanh. Tức là duyên vô minh có các hành. Duyên các hành có
thức... Duyên sanh, có già chết, sầu bi khổ ưu não. Như vậy là tập khởi
của khổ uẩn này. Do đoạn diệt, ly tham, vô minh không có dư tàn, nên
các hành diệt. Do các hành diệt, nên thức diệt... Như vậy là đoạn diệt
của khổ uẩn này".
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
3. Thật sự khi các pháp
Có mặt, hiện khởi lên,
Đối với vị Bà-la-môn,
Nhiệt tâm hành thiền định,
Quét sạch các ma quân,
Vị ấy đứng, an trú,
Như ánh sáng mặt trời,
Chói sáng khắp hư không.
(IV) (Ud 3)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Uruvelà,
trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây bàng ajapala, khi mới chứng
Chánh Đẳng Giác. Lúc bấy giờ, Thế Tôn trong bảy ngày ngồi trong một thế
ngồi kiết-già, thọ hưởng lạc giải thoát. Rồi Thế Tôn sau bảy ngày
ấy ra khỏi định. Có một Bà-la-môn thuộc dòng họ Huhunka, đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, nói lên lời chào hỏi, sau khi nói lời chào hỏi thân hữu,
rồi đứng một bên. Đứng một bên, Bà-la-môn ấy nói với Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, cho đến
như thế nào là Bà-la-môn, và những pháp nào tác thành Bà-la-môn?
Thế Tôn sau khi biết được ý nghĩa
này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
4. Vị Bà-la-môn nào,
Loại trừ các ác pháp,
Không kiêu, không uế nhiễm,
Tự ngã khéo chế ngự,
Vệ-đà được thông đạt,
Phạm hạnh được viên thành,
Vị Bà-la-môn ấy,
Có thể nói lên được,
Lời Phạm ngữ đúng pháp,
Vị ấy ở đời này,
Không hề có mạn tâm
Bất cứ ở nơi nào.
(V) (Ud 3)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi
(Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà-lâm), khu vườn ông Anàthapindika
(Cấp Cô Độc). Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất),
Tôn giả Mahàmoggallàna (Đại Mục-kiền-liên) Tôn giả Mahàkassapa (Đại
Ca-diếp), Tôn giả Mahàkaccayàna (Đại Ca-chiên-diên), Tôn giả Mahàkotthita
(Đại Câu-thi-la), Tôn giả Mahàkappina (Đại kiếp-tân-na), Tôn giả Mahàcunda
(Đại-Thuần-đà), Tôn giả Anuruddha (A-na-luật-đà), Tôn giả Revata
(Ly-bà-đà), Tôn giả Devadatta (Đề-bà-đạt-đa), Tôn giả Ananda
(A-nan) đi đến Thế Tôn. Thế Tôn thấy các Tôn giả ấy từ xa đi đến,
thấy vậy liền nói với các Tỳ-kheo:
- Này các Tỳ-kheo, các Bà-la-môn
này đang đi đến. Này các Tỳ-kheo, các Bà-la-môn này đang đi đến.
Khi được nói vậy, một Tỳ-kheo,
thọ sanh là Bà-la-môn, bạch Thế Tôn:
- Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, là Bà-la-môn, và có bao nhiêu pháp, tác thành Bà-la-môn?
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
5. Sau khi loại ác pháp,
Ai thường hành chánh niệm,
Kiết sử đoạn, giác ngộ,
Những vị ấy ở đời,
Thật là Bà-la-môn.
(VI) (Ud 4)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Vương Xá,
tại Trúc lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ Tôn giả Mahakassapa
trú ở hang Pipphali, đang bị bệnh rất khổ đau, bệnh trầm trọng.
Rồi Tôn giả Mahàkassapa sau một thời gian, thoát khỏi bệnh ấy. Rồi
Tôn giả Mahàkassapa thoát khỏi bệnh ấy, suy nghĩ như sau: "Ta hãy
đi vào Vương Xá để khất thực ". Lúc bấy giờ, khoảng năm trăm Thiên
nhân, đang cố gắng sửa soạn để Tôn giả Mahàkassapa nhận đựoc
đồ ăn khất thực. Nhưng Tôn giả Mahàkassapa gạt bỏ năm trăm Thiên
nhân ấy, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Vương Xá để khất
thực, đi ngang những con đường những con người nghèo, con đường những
người ăn xin, con đường những người thợ dệt.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
6. Ai sống không nhờ người,
Không được người biết đến,
Sống tự mình chế ngự,
An trú trên lõi cây,
Các lậu hoặc đã đoạn,
Sân hận được trừ diệt,
Vị ấy được Ta gọi,
Là vị Bà-la-môn.
(VII) (Ud 4)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Pàtali
tại Ajakalàpaka, chỗ ở của Dạ-xoa Ajakalàpa. Lúc bấy giờ
Thế Tôn đang ngồi ngoài trời, trong đêm tối đen, và trời mưa từng hột
xuống. Rồi Dạ-xoa Ajakalàpaka muốn làm cho Thế Tôn sợ hãi, hoảng
sợ, lông tóc dựng ngược, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, ba lần nói
lên gần Thế Tôn tiếng gào thét của mình là Akkulopakkulo: "Này
Sa môn, có con quỷ cho Ông ". Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này,
ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:
7. Khi nào Bà-la-môn
Đối với pháp của mình,
Đã đạt được bờ kia,
Vị ấy vượt qua được,٣ quỷ yêu ma này.
(VIII) (Ud 5)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Tôn giả
Sangamàji đã đi đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Người
vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji nghe được tin Tôn giả Sangamàji
đã đến Sàvattthi. Nàng liền dắt người con đi đến Jetavana.
Lúc bấy giờ Tôn giả Sangamàji đang ngồi dưới gốc cây đề nghỉ
ban ngày. Rồi người vợ trước đây của Tôn giả Sangamàji, đi đến
Tông Giả Sangamàji, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sangamàji:
- Này Sa môn, hãy nuôi dưỡng tôi
và đứa con nhỏ!
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sangamàji,
giữ im lặng. Lần thứ hai, người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji
nói với Tôn giả Sangamàji:
- Này Sa-môn, hãy nuôi dưỡng tôi
và đứa con nhỏ!
Lần thứ hai, Tôn giả Sangamàji
giữ im lặng. Lần thứ ba người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji
nói với Tôn giả Sangamàji:
- Này Sa-môn, hãy nuôi dưỡng tôi
và đứa con nhỏ!
Lần thứ ba, Tôn giả Sangamàji
vẫn giữ im lặng. Rồi người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji
đặt đứa nhỏ trước mặt Tôn giả Sangamàji rồi bỏ đi, nói rằng:
- Này Sa-môn, đây là đứa con trai
của Sa-môn. Hãy nuôi dưỡng nó!
Tôn giả Sangamàji không có
ngó đến đứa nhỏ ấy, cũng không nói gì. Rồi người vợ trước kia của
Tôn giả Sangamàji sau khi đi không xa, ngó lui lại thấy Tôn giả Sangamàji
không ngó đứa con nhỏ ấy, cũng không nói; thấy vậy liền suy nghĩ:
"Sa môn này không muốn ngó đến người con ". Nàng liền trở lui lại,
bồng lấy đứa con rồi ra đi. Thế Tôn với Thiên nhãn thanh tịnh siêu
nhân, thấy cử chỉ thô bạo như vậy của người vợ trước kia của Tôn
giả Sangamàji.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết
được ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
8. Không hoan hỷ, nàng đến,
Không sầu muộn, nàng đi,
Giải thoát khỏi ái phược,
Là Sangamàji
Ta gọi người như vậy,
Là vị Bà-la-môn.
(IX) (Ud 6)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Gayà,
tại Gayasisa. Lúc bấy giờ, nhiều kẻ bện tóc, trong những đêm gió
lạnh mùa đông, giữa những ngày mồng tám, trong thời tuyết rơi, đang lặn
xuống và nổi lên trong nước, làm việc lặn xuống nổi lên, tưới nước
và tế lửa, nghĩ rằng: "Với hành động này, được thanh tịnh
".
Thế Tôn thấy nhiều kẻ bện tóc
ấy, trong những đêm gió lạnh mùa đông, giữa những ngày mồng tám, trong
thời tuyết rơi, đang lặng xuống và nổi lên trong nước, làm việc lặn
xuống nổi lên, tưới nước và tế lửa, nghĩ rằng: "Với hành động
này, được thanh tịnh ".
Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa
này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
9. Thanh tịnh không có nước,
Ở đây nhiều người tắm,
Trong ai có chân thật,
Lại thêm có Chánh pháp,
Người ấy là Thanh tịnh,
Người ấy là Phạm chí.
(X) (Ud 6)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Bàhiya
Daruciriya trú ở Suppàraka, trên bờ biển, được cung kính, tôn trọng
đảnh lễ, cúng dường và nhận được y, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dượt phẩm trị bệnh. Rồi Bàhiya Dàcuciriya khởi lên tư tưởng
như sau: "Với ai là bậc A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán,
ta là một trong những vị ấy ". Rồi một Thiên nhân, trước là bà
con huyết thống với Bàhiya Dàruciriya, vì lòng từ mẫn, vì muốn lợi
ích, với tâm của mình biết tâm tư của Bàhiya Dàruciriya, đi đến Bàhiya
Dàruciriya và nói như sau:
- Này Bàhiya. Ông không phải
là A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán. Ông không có đạo lộ ấy,
với đạo lộ này Ông có thể trở thành A-la-hán hay đang đi trên con đường
đưa đến A-la-hán.
- Nhưng ai là những vị, trong thế
giới này, với thế giới chư Thiên là những vị A-la-hán hay đang đi trên
con đường A-la-hán?
- Này Bàhiya, có thành phố
tên là Sàvatthi trên những quốc lộ phương Bắc. Tại đấy có Thế
Tôn hiện đang trú, bậc A-la-hán. Chánh Đẳng Giác. Vị ấy là bậc
A-la-hán và thuyết pháp đưa đến quả A-la-hán.
Rồi Bàhiya Dàruciriya, được
Thiên nhân ấy thúc dục, đi ra khỏi Sappàraka, trong suốt đường
trường, chỉ nghỉ một đêm, đi đến chỗ Thế Tôn đang trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, trong khu vườn Anàthapindika. Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo
đang đi kinh hành giữa trời. Bàhiya Dàruciritya đi đến các Tỳ-kheo
ấy, sau khi đến nói như sau:
- Thưa các Tôn giả, nay Thế Tôn, bậc
A-la-hán Chánh Đẳng Giác ở đâu? Chúng tôi muốn được yết kiến Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
- Này Bàhiya, Thế Tôn đã đi vào
giữa các nhà để khất thực.
Rồi Bàhiya Dàraciriva mau
chóng ra khỏi Jetavana, đi vào Sàvatthi, và thấy Thế Tôn đang
đi khất thực, khả ái, khởi lên tịnh tin, các căn an tịnh, tâm ý an tịnh,
đạt được an chỉ, chế ngự tối thượng, giống như một con voi được
điều phục, phòng hộ với các căn an tịnh. Thấy vậy, Bàhiya
Dàruciriya liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, cúi đầu xuống chân Thế
Tôn và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết
pháp cho con, Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được
hạnh phúc an lạc lâu dài.
Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với
Bàhiya Dàruciriya:
- Không phải thời, này Bàhiya, Ta
đang khất thực.
Lần thứ hai Bàhiya Dàruciriya
Bạch Thế Tôn:
- Thật khó biết, bạch Thế Tôn,
là chướng ngại cho mạng sống của Thế Tôn, hay chướng ngại cho mạng sống
của con. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con. Thiện Thệ hãy
thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu
dài.
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với
Màhiya Dàruciriya:
- Không phải thời, này Bàhiya,
Ta đang khất thực.
Lần thứ ba, Bàhiya Dàruciriya
bạch Thế Tôn:
- Thật khó biết... hạnh phúc lâu
dài.
- Vậy này Bàhiya, Ông cần phải
học tập như sau: "Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái
nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng.
Trong cái thức tri, sẽ chỉ là các thức tri ". Như vậy, này Bàhiya,
Ông cần phải học tập. Vì rằng, này Bàhiya, nếu với Ông, trong
cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong
cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ
là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy. Vì rằng,
này Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời
chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.
Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này
của Thế Tôn, tâm của Bàhiya Dàruciriya được giải thoát khỏi các
lậu hoặc, không có chấp thủ. Thế Tôn sau khi thuyết cho Bàhiya
Dàruciriya lời giáo giới tóm tắt này, liền ra đi. Thế Tôn ra đi không
bao lâu, một con bò con húc chết Bàhiya Dàruciriya. Thế Tôn sau khi khất
thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về,
đi ra khỏi thành với nhiều Tỷ-kheo, thấy Bàhiya Dàruciriya bị chết,
thấy vậy liền nói với các Tỳ-kheo:
- Này các Tỳ-kheo, hãy lấy thân
xác Bàhiya Dàruciriya, đặt lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, rồi
xây tháp lên trên. Này các Tỷ-kheo, một vị đồng Phạm hạnh với các Thầy
đã qua đời!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn, sau khi đặt xác thân của Bàhiya Dàruciriya lên trên cái chõng,
đem đi hỏa thiêu, xây dựng cái tháp cho vị ấy, rồi đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, thân xác của Bàhiya
Dàruciriya đã được hỏa thiêu, tháp đã được xây dựng xong cho vị
ấy. Sanh thứ cho vị ấy là gì? Đời sau vị ấy là gì?
- Này các Tỷ-kheo, Hiền trí là Bàhiya
Dàruciriya đã hành trì tùy pháp, đúng pháp và không có phiền nhiễu Ta
với những tranh luận về pháp. Này các Tỷ-kheo, Bàhiya Dàruciriya đã
nhập Niết Bàn.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
10. Chỗ nào nước và đất,
Lửa, gió không chấp trước,
Tại đây sao không chói,
Mặt trời không chiếu sáng,
Tại đây trăng không chiếu,
Tại đây u ám không,
Khi ẩn sĩ Phạm chí,
Tự mình với trí tuệ,
Thể nhập vào Chánh pháp,
Vị ấy được giải thoát
Khỏi sắc và vô sắc,
Khỏi an lạc, đau khổ.
Lời cảm hứng này được Thế Tôn
thuyết giảng và tôi được nghe như vậy.
- Chương
Hai
(I) (Ud 10)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Uruvela,
trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Mucalinda, khi Ngài mới chứng
Chánh Đẳng Giác. Lúc bấy giờ Thế Tôn, trong bảy ngày ngồi một thế ngồi
kiết-già, thọ hưởng lạc giải thoát. Lúc bấy giờ, một cơn giông tố
lớn trái mùa khởi lên và trong bảy ngày, trời mưa gió lạnh, bầu trời
u ám. Rồi thần rắn Mucalinda ra khỏi chỗ ở của mình, với thân cuốn
vòng quanh bảy vòng thân của Thế Tôn, và đứng thẳng, vươn cao các mang
lớn trên đầu (Thế Tôn) với ý nghĩ: "Mong Thế Tôn khỏi lạnh! Mong
Thế Tôn khỏi nóng! Mong Thế Tôn khỏi xúc chạm với ruồi, muỗi, gió, sức
nóng, các loài bò sát ".
Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy, ra
khỏi định ấy. Rồi Mucalinda, vua các loài rắn, sau khi biết trời đã
sáng tỏ, mây đã được thoát đi, cởi mở thân mình khỏi thân Thế Tôn,
biến dạng thân sắc của mình, hóa hiện thân sắc một thanh niên đứng
trước mặt Thế Tôn, chắp tay đảnh lễ Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
1. Viễn ly là an lạc,
Với người biết tri túc,
Với người có nghe pháp,
Với người có chánh kiến
Không sân là an lạc,
Những ai ở trên đời,
Đối hữu tình chúng sanh
Biết tự chế, ngăn ngừa.
Ly tham là an lạc,
Vượt các dục ở đời,
Ai nhiếp phục ngã mạn,
Đây an lạc tối thượng.
(II) (Ud 10)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều vị
Tỳ-kheo, sau bữa ăn, đi khất thực trở về, ngồi họp tại hội trườong,
và câu chuyện này được khởi lên:
"Này chư Hiền, giữa hai vị
vua này, vua Seniya Bimlisàra ở Magdha, và vua Pasenadi ở xứ
Kosala, ai giàu có hơn, ai tài sản lớn hơn, ai kho tàng lớn hơn, ai quốc
độ lớn hơn, ai xe cộ lớn hơon, ai sức mạnh lớn hơn, ai thần lực lớn
hơn, ai uy lực lớn hơn? ". Rồi câu chuyện này giữa các Tỳ-kheo ấy
chưa đươĩc chấm dứt.
Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ
Thiền tịnh đứng dậy, đi đến hội trường, sau khi đến, ngồi xuống
trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, ở đây, nay các
Thầy ngồi hội họp với câu chuyện gì? Và câu chuyện gì giữa chừng chưa
chấm dứt giữa các Thầy?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con
sau bữa ăn, đi khất thực trở về... câu chuyện này được khơi lên...
ai uy lực lớn hơn " Câu chuyện này giữa chúng con, bạch Thế Tôn, chưa
được chấm dứt thời Thế Tôn đã đến.
- Này các Tỷ-kheo, thật không
thích đáng cho các Thầy, những thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình, lại nói câu chuyện như vậy. Này các Tỳ-kheo,
khi các Thầy hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm: Đàm luận về
Chánh pháp hay giữ sự im lặng của bậc Thánh.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
2. Dục lạc gì ở đời,
Kể cả thiên lạc này,
Không bằng phần mười sáu,
Lạc do ái đoạn diệt.
(III) (Ud 11)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi
tại Jetavana khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ một số đông
đứa trẻ đang hành hạ con rắn với cây gậy, giữa Sàvatthi và Jetavana.
Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào sàvatthi để khất thực.
Thế Tôn thấy giữa Sàvatthi và Jetavana nhiều đứa trẻ đang hành hạ
con rắn với cây gậy.
Thế Tôn sau khi hiểu hết ý nghĩa
này, ngay lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
3. Ai làm hại với trượng,
Kẻ tìm lạc cho mình,
Người ấy sau khi chết,
Không tìm được an lạc.
Ai không hại với trượng,
Kẻ tìm lạc cho mình,
Đời sau tìm được lạc.
(IV) (Ud 13)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Thế
Tôn được cung kính, tôn trọng đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, nhận
được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh. Chúng Tăng cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ cúng dường,
tôn kính, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Nhưng các du sĩ ngoại đạo không được cung kính,
tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, không nhận được các vật
dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Các du
sĩ ấy không kham nhẫn được việc ấy Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo được
kính trọng. Khi nào gặp các Tỷ-kheo ở làng và ở trong rừng, họ dùng những
lời nói không tốt lành, thô ác, mắng nhiếc, phỉ báng, công kích não hại
các Tỷ-kheo. Rồi một số đông Tỷ-kheo, đi đến Thế Tôn, sau khi đến
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỳ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn được
cung kính, tôn trọng... dược phẩm trị bệnh. Chúng Tỷ-kheo cũng được
cung kính tôn trọng... dược phẩm trị bệnh nhưng các du sĩ ngoại đạo
không được tôn kính, tôn trọng... dược phẩm trị bệnh. Rồi bạch Thế
Tôn, các ngoại đạo du sĩ ấy không kham nhẫn được sự việc Thế Tôn
và chúng Tỷ-kheo được kính trọng... não hại chúng.
Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa
này, ngay lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này.
4. Giữa làng, tại núi rừng,
Cảm thọ khổ và lạc,
Chớ quy về tự mình,
Chớ quy về người khác,
Các xúc được cảm thọ,
Là do duyên sanh y,
Với vị không sanh y,
Do đâu, xúc cảm thọ.
(V) (Ud 13)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, một nam
cư sĩ tên là Icchànanga-laka đi đến Sàvatthi vì một vài công
việc phải làm. Nam cư sĩ ấy, sau khi làm công việc xong ở Sàvatthi, đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với nam cư sĩ ấy đang ngồi một bên:
- Đã lâu rồi, này Nam cư sĩ, ông
tạo nên cơ hội này, tức là đến đây!
- Bạch Thế Tôn, đã lâu rồi, con
muốn yết kiến Thế Tôn. Nhưng con bị bận bịu lợi bởi những công việc
phải làm này nên con không thể đi đến yết kiến Thế Tôn được.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
5. Ai lão luyện Chánh pháp,
Được nghe nhiều Chánh pháp,
Không xem bất cứ gì
Là an lạc của mình.
Hãy xem, não hại thay,
Những ai có sở hữu,
Khiến cho con người này,
Bị trói buộc người khác.
(VI) (Ud 13)
Như vậy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, thanh nữ
trẻ Bà-la-môn, vợ của một du sĩ có thai sắp sinh. Vợ của du sĩ ấy nói
với du sĩ:
- Này Bà-la-môn, hãy đi và đem dầu
về. Tôi cần dùng khi sanh con!
Khi được nói vậy, du sĩ ngoại đạo
nói với nữ du sĩ:
- Ở đâu, ta có thể đem dầu về
cho nàng?
Lần thứ hai, nữ du sĩ nói với du
sĩ:
- Này Bà-la-môn, hãy đi và đem dầu
về. Tôi cần dùng khi sanh con!
Lần thứ hai du sĩ nói với nữ du
sĩ:
- Ở đâu, ta có thể đem dầu về
cho nàng?
Lần thứ ba, nữ du sĩ nói với du
sĩ:
- Này Bà-la-môn, hãy đi và đem dầu
về. Tôi cần dùng khi sanh con!
Lúc bấy giờ, tại một kho của
vua Pasenadi nước Kosala, một Sa-môn hay Bà-la-môn có thể uống
bơ hay dầu cho đến thỏa thích, nhưng không được mang đi. Người du sĩ
ấy suy nghĩ: "Tại một kho của vua Pasenadi nước Kosala...
không được mang đi. Vậy ta hãy đi đến nhà kho của vua Pasnadi nước
Kosala, uống dầu cho đến thỏa thích, sau khi về đến nhà, mửa dầu
ấy ra và ta cho nữ du sĩ dùng khi sanh con ". Rồi du sĩ ấy đi đến nhà
kho của vua Pasenadi nước Kosala, uống dầu cho đến thỏa thích, sau
khi về nhà không có thể mửa lên hay mửa xuống; có cảm thọ khổ đau,
nhói đau, đau khốc liệt thống khổ, lăn lộn qua lại.
Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm
y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Thế Tôn thấy người du sĩ
ấy cảm thọ khổ đau, nhói đau khốc liệt, thống khổ, lăn lộn qua lại.
Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm
hứng này:
6. An lạc thay là người
Không có gì sở hữu,
Người chánh tri hiểu biết,
Không có gì sở hữu.
Hãy xem não hại thay,
Những ai có sở hữu,
Khiến cho con người này,
Bị trói buộc người khác.
(VIII) (Ud 14)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthaphindika. Lúc bấy giờ, con trai
độc nhất của một nam cư sĩ, khả ái, đáng yêu bị mệnh chung. Rồi nhiều
nam cư sĩ, với áo đẫm ướt, với tóc đẫm ướt, đi đến Thế Tôn, sau
khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với
các cư sĩ ấy đang ngồi một bên.
- Này các Cư sĩ, sao các Ông, với
áo đẫm ướt, với tóc đẫm ướt, lại đến đây, trong lúc quá sớm như
vậy?
Khi được nói vậy, người cư sĩ
ấy thưa với Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, người con trai độc
nhất của con khả ái, khả ý đã mệnh chung. Do vậy chúng con với áo ướt
đẫm, với tóc ướt đẫm đã đến đây trong lúc quá sớm!
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:
7. Bị khả dĩ, dễ thương
Trói buộc và chi phối,
Rất nhiều chư Thiên chúng,
Và nhiều hạng con người
Đau khổ và héo mòn,
Bị thần chết nhiếp phục.
Ngày đêm không phóng dật,
Từ bỏ dung sắc đẹp,
Vị ấy đào gốc khổ,
Mồi nhử của ác ma,
Thật khó vượt qua được.
(VIII) (Ud 15)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Kundiyàya,
trong rừng Kunditthàna. Lúc bấy giờ, Suppavàsà, con gái của vua
xứ Koliya có thai đến bảy năm và nay bị đau đẻ đến ngày thứ bảy.
Dầu nàng cảm giác những cảm thọ khổ đau, nhức nhối, khốc liệt, thống
khổ, nàng vẫn duy trì ba niệm: "Thế Tôn thật là bậc Chánh Đẳng Giác,
Ngài thuyết pháp để đoạn tận đau khổ này. Chúng đệ tử của bậc Thế
Tôn ấy là khéo hành trì. Chúng hành trì để đoạn tận đau khổ này. Thật
sự an lạc là Niết-bàn, tại đây khổ đau này không có mặt ". Rồi Suppavàsà,
con vua Koliya gọi ngưòi chồng của mình:
- Này Phu quân, hãy đi đến Thế Tôn,
sau khi đến nhân danh tôi, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có
ít bệnh ít não, khinh an khỏe mạnh, lạc trú và thưa: "-Bạch Thế Tôn,
Suppavàsà con gái vua Koliya cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi
thăm có ít bệnh ít não, khinh an khỏe mạnh, lạc trú ". Rồi hãy nói
như sau: "Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con gái vua Koliya, có
thai đến bảy năm và nay bị đau đẻ đến ngày thứ bảy. Dầu nàng cảm
giác những cảm thọ.... tại đấy khổ đau này không có mặt! "
- Thật là tốt lành.
Koliyaputta đáp lại Suppavàsà,
con gái vua Koliya, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Koliyaputta bạch Thế
Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Suppavàsà,
con vua Koliya, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn,.... lạc trú.... tại đấy
khổ đau này không có mặt.
- Mong rằng Suppavàsà, con gái
vua Koliya được an lạc, không bệnh, sanh đứa con không có bệnh hoạn.
Với lời nói này của Thế Tôn, Suppavàsà, con gái Koliya, được
an lạc không bệnh, đẻ đứa con trai không bệnh.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Koliyaputta hoan hỷ tín thọ lời
Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu
hướng về Ngài rồi trở về nhà của mình. Koliyaputta thấy Suppavàsà,
con gái vua Koliya, được an lạc, không bệnh, sanh đứa con trai không
bệnh, thấy vậy liền suy nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu
thay, thần lực và đại uy lực của Thế Tôn, khiến cho Suppavàsà
con gái vua Koliya này, với lời nói của Thế Tôn được an lạc, không
bệnh, sanh con trai không bệnh!". Nghĩ vậy, Koliyaputta hoan hỷ, thích
thú, tâm sanh hỷ lạc. Rồi Suppavàsà, con gái vua Koliya, bảo người
chồng mình:
- Hãy đi, này Phu quân, hãy đi đến
Thế Tôn, sau khi đếnc nhân danh tôi, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và
thưa: " - Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con vua Koliya, cúi đầu đảnh
lễ chân Thế Tôn, có thai đến bảy năm và nay bị đau đẻ đến ngày
thú bảy. Nàng được an lạc, không bệnh và sanh đứa con trai không bệnh.
Nay nàng muốn mời chúng Tỳ-kheo dùng cơm trong bảy ngày. Mong Thế Tôn hãy
nhận lời thọ bảy bữa cơm của Suppavàsà với chúng Tỷ-kheo".
- Thật là tốt lành.
Koliyaputta đáp lại Suppavàsà,
con gái vua Koliya, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Koliyaputta bạch Thế
Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Suppavàsà,
con gái vua Koliya, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và nói như sau: Suppavàsà,
có thai đến bảy năm... đau đẻ đến ngày thứ bảy. Nay nàng được an lạc,
không bệnh và sanh đứa con trai không bệnh. Nay nàng muốn mời chúng Tỳ-kheo...
với chúng Tỷ-kheo!
Lúc bấy giờ một nam cư sĩ khác
đã mời chúng Tỷ-kheo với Thế Tôn là vị cầm đầu, ngày mai dùng cơm
người cư sĩ ấy là người hộ trì cho Tôn giả Moggallàna. Rồi Thế
Tôn nói với Tôn giả Mahà Mogallàna:
- Này Moggallàna, hãy đến
người cư sĩ, sau khi đến, nói với người cư sĩ ấy như sau: "Này Hiền
giả, Suppavàsà con của vua Koliya.. có thai đến bảy năm... đến
ngày thứ bảy. Nay nàng được an lạc.. Nay nàng muốn mời chúng Tỷ-kheo...
với chúng Tỷ-kheo. Hãy để cho Suppavàsà tổ chức bảy ngày cơm
trước. Sau sẽ đến lượt người hộ trì cho người".
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!.
Tôn giả Mahà Moggallàna vâng
đáp Thế Tôn rồi đi đến người cư sĩ ấy, sau khi đến nói với người
cư sĩ:
- Này Hiền giả Suppavàsà...
Hãy để cho Suppavàsà con của Koliya tổ chức bảy ngày cơm
trước, sau sẽ đến phiên Ông.
- Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả bảo
đảm cho con ba pháp về tài sản, về thọ mạng, về lòng tin, hãy để cho
Suppavàsà, con gái của vua Koliya, tổ chức trước, rồi sau đến
phiên con.
- Này Hiền giả, về hai pháp ta sẽ
bảo đảm cho ông, về tài sản và về thọ mạng. Còn về lòng tin, thời
ông phải tự bảo đảm!.
- Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả bảo
đảm cho con hai pháp, về tài sản và về thọ mạng, hãy để cho Suppavàsà,
con gái vua Koliya, tổ chức bảy ngày con trước. Rồi sẽ đến phiên
con.
Rồi Tôn giả Mahà Moggallàna,
sau khi thuyết phục được người cư sĩ ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, cư sĩ ấy đã
được con thuyết phục. Hãy để cho Suppavàsà, con gái vua Koliya,
tổ chức bảy ngày cơm trước, sau sẽ đến phiên người cư sĩ ấy.
Rồi Suppavàsà, con gái vua
Koliya, trong bảy ngày mời chúng Tỷ-kheo với Thế Tôn là bậc dẫn đầu,
tự tay mời và làm cho thỏa mãn với những món ăn thượng vị, loại cứng
và loại mềm và khiến cho đứa trẻ đảnh lễ Thế Tôn và toàn thể
chúng Tỷ-kheo. Rồi Tôn giả Sàriputta nói với đứa trẻ:
- Này Con, Con có kham nhẫn được
không? Con có nuôi sống được không? Con có đau khổ gì không?
- Thưa Tôn giả, từ đâu con có thể
kham nhẫn? Từ đâu con có thể nuôi sống? Từ đâu con không có đau khổ?
Con đã sống bảy năm trong các ghè đầy máu!
Rồi Suppavàsà, con gái vua
Koliya, nghĩ rằng: "Con ta đang nói chuyện với vị tướng quân về
Pháp, hoan hỷ, tín thọ, với tâm hỷ lạc."
Rồi Thế Tôn nói với Suppavàsà,
con gái vua Koliya:
- Này Suppavàsà. Con có muốn
một người con trai khác như vậy không?
- Bạch Thế Tôn, con muốn có bảy
người con trai như vậy!
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý
nghĩa này,ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
8. Không vui, giả dạng núi,
Không ái, giả dạng ái,
Khổ đau, giả dạng lạc,
Nhiếp phục kẻ phóng dật.
(IX) (Ud 18)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi,
tại Đông Viên, ngôi lầu của mẹ Migàra.
Mẹ Migàra có công việc liên
hệ đến vua Pasenadi nước Kosala và vua Pasenadi nước Kosala
chưa có quyết định về việc ấy. Rồi Visàkhà, mẹ của
Migàra, vào buổi sáng sớm đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của
Migàra, đang ngồi một bên:
- Này Visàkhà, Bà từ đâu
đi đến sớm như vậy?
- Bạch Thế Tôn con có công việc
liên hệ đến vua Pasenadi nước Kosala... về việc ấy.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
9. Mọi tùng thuộc là khổ,
Mọi chủ quyền là lạc,
Chung dùng làm não hại,
Trói buộc khó vượt qua.
(X) (Ud 18)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Anupiya
tại rừng xoài. Lúc bấy giờ, Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha,
đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, và thường
hay nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! " Một
số đông Tỳ-kheo nghe Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha đi đến
khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, thường nói lên
lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay! Ôi an lạc thay! ". Nghe vậy, các
Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: "Không gì nghi ngờ chư Hiền, Tôn giả Bhaddiya
con của Kàlighodha sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, vì trước khi còn
ở gia đình được hưởng an lạc nhà vua, vì Tôn giả nhớ đến an lạc
ấy, nên khi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây... thường nói lên lời cảm
hứng: "Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! " Rồi một số đông Tỷ-kheo
đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Bhaddiya
con của Kàligodha khi đi đến rừng... nói lên lời cảm hứng:
"Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! "... không có nghi ngờ gì nữa..
sống Phạm hạnh không có hoan hỷ... "Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay!
".
Rồi Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:
- Này Tỳ-kheo, hãy đi và nhân danh
Ta nói với Bhaddiya, con của Kàligodha: "Thưa hiền giả, bậc
Đạo sư gọi Hiền giả! ".
- Thưa vâng bạch Thế Tôn.
Vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn, đi đến Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha:
- Thưa Hiền giả, bậc Đạo sư gọi
Hiền giả.
- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Bhaddiya, con của
Kàligodha, vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Bhaddiya,
con của Kàligodha, đang ngồi một bên:
- Có thật chăng, này Bhaddiya,
Thầy đi đến khu rừng "... Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! "?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Do thấy mục đích gì đi đến
khu rừng "... an lạc? ".
- Bạch Thế Tôn, thuở trước khi còn
ở trong gia đình, được hưởng an lạc nhà vua, trong nội cung có đặt
người khéo bảo vệ, ngoại nội cung có đặt người khéo bảo vệ; trong
thành nội có đặt người khéo bảo vệ, ngoài thành có đặt người khéo
bảo vệ. Trong nước cũng có đặt người khéo bảo vệ, ngoài nước cũng
có đặt người khéo bảo vệ. Bạch Thế Tôn, con được bảo vệ phòng giữ
như vậy, nhưng con vẫn sống sợ hãi, hồi hộp, run sợ, hoảng sợ. Nhưng
nay con đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, con sống
một mình, con sống không sợ hãi, không hồi hộp, không run sợ, không hoảng
sợ, không rộn ràng, không hốt hoảng, lắng dịu, nhẹ nhàng, tâm như con
thú rừng. Bạch Thế Tôn, do thấy mục đích như vậy, nên con khi đi đến
khu rừng... con nói lên lời cảm hứng "... an lạc thay! ".
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:
10. Với ai, trong nội tâm,
Không có lòng phẩn nộ,
Vượt qua hữu, phi hữu,
Vị ấy thoát sợ hãi,
An lạc, không sầu muộn,
Chư Thiên không thấy được.
- Chương Ba
(I) (Ud 21)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana trong khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, một
Tỷ-kheo ngồi không xa Thế Tôn, ngồi kiết già, lưng thẳng, chịu đựng sự
đau đớn, kết quả của nghiệp về trước, nhói đau, cực khổ, thống khổ,
chánh niệm, tỉnh giác, không có sầu não.
Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa
này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
1. Tỷ-kheo bỏ mọi nghiệp,
Tẩy sạch bụi làm trước,
An trú, không ngã sở,
Không cần nói với người.
(II) (Ud 21)
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn của ông Anàhapindika. Lúc bấy giờ, Tôn
giả Nanda, em của Thế Tôn, con của người dì, nói như sau với nhiều
Tỷ-kheo: "Này các Hiền giả, tôi sống Phạm hạnh không có hoan hỷ,
tôi không chịu nổi đời sống Phạm hạnh; sau khi bỏ học tập, tôi sẽ
hoàn tục!" Một Tỷ-kheo khác đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vị Tỷ-kheo ấy
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nanda,
em của Thế Tôn, con của người dì, nói như sau: "... Tôi sẽ hoàn tục
". Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:
- Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh
Ta bảo Tỷ-kheo Nanda: "Hiền giả Nanda, bậc Đạo Sư gọi
Hiền giả ".
- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi
đến Tôn giả Nanda, sau khi đến nói với Tôn giả Nanda:
- Hiền giả Nanda, bậc Đạo
Sư gọi Hiền giả!
- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Nanda vâng đáp vị Tỷ-kheo
ấy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Nanda đang ngồi một bên:
- Có thật chăng này Nanda, Thầy
nói như sau với nhiều Tỷ-kheo: "Này các Hiền giả tôi sống Phạm hạnh
không có hoan hỷ... tôi sẽ hoàn tục!".
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Nhưng này, không hoan hỷ cái gì,
Thầy sống Phạm hạnh, khiến Thầy không chịu nổi sống Phạm hạnh, từ
bỏ học tập, Thầy sẽ hoàn tục?
- Bạch Thế Tôn, khi con từ bỏ gia
đình, một Thích ca nữ cô gái đẹp trong nước, với tóc chải mới nửa
phần, ngó nhìn con và nói: "Quý tử hãy về gấp!" Bạch Thế Tôn,
vì con không thể quên nàng, nên con sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, con
không có thể chịu nổi đời sống Phạm hạnh, sau khi từ bỏ học tập,
con sẽ hoàn tục".
Rồi Thế Tôn cầm tay Tôn giả Nanda
như người lực sĩ duỗi bàn tay dang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi
ra, biến mất ở Jetavana, và hiện ra tại cõi trời Ba mươi ba. Lúc bấy
giờ, khoảng năm trăm Thiên nữ đi đến để hầu hạ Thiên chủ Sakka,
và họ được gọi là "có chân như chim bồ câu". Lúc bấy giờ Thế
Tôn bảo Tôn giả Nanda:
- Này Nanda, Thầy có thấy năm
trăm Thiên nữ này, có chân như chim bồ câu không?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Này Nanda, Thầy nghĩ thế nào?
Ai đẹp đẽ hơn, hay ai đáng ưa nhìn hơn, hay ai khả ái hơn, Thích ca nữ
cô gái đẹp trong nước hay năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu
này? ".
- Bạch Thế Tôn, ví như một con khỉ
cái bị thương, tai mũi bị chặt đứt; cũng vậy là Thích ca nữ cô gái
đẹp trong nước, nếu đem so sánh với năm trăm Thiên nữ có chân như chim
bồ câu này, không thể ước lường so sánh, không bằng một phần nhỏ,
không thể so sánh với chúng. Năm trăm Thiên nữ này đẹp hơn, dáng ưa nhìn
hơn, khả ái hơn.
- Hãy hoan hỷ, này Nanda! Hãy
hoan hỷ, này Nanda! Ta đền cho Thầy năm trăm Thiên nữ có chân như
chim bồ câu ù!
- Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đền
cho con năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu, thời bạch Thế Tôn,
con sẽ sống hoan hỷ trong đời sống Phạm hạnh.
Rồi Thế Tôn cầm cánh tay của
Tôn giả Nanda, như người lực sĩ... đang duỗi ra, như vậy biến mất
ở chư Thiên cõi trời Ba mươi ba, hiện ra ở Jetavana.
Các Tỷ-kheo được nghe: "Tôn
giả Nanda, em Thế Tôn, con của bà dì sống Phạm hạnh vì mục đích
Thiên nữ. Họ nói Thế Tôn có hứa đền cho năm trăm Thiên nữ với chân
như chân chim bồ câu". Rồi các Tỷ-kheo bạn của Tôn giả Nanda, gọi
Tôn giả Nanda là người làm thuê, là người buôn bán: "Tôn giả
Nanda là người làm thuê, Tôn giả Nanda là người buôn bán. Vì
mục đích Thiên nữ, Tôn giả Nanda sống Phạm hạnh. Thế Tôn có hứa
đền cho năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu!" Rồi Tôn giả Nanda,
bị bực phiền, tủi nhục, chán ngấy, bởi bị gọi là người làm thuê,
là người buôn bán, sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm,
tinh cần, tự tin, không bao lâu, do mục đích mà thiện nam tử chơn chánh
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình... vô thượng cứu cánh Phạm
hạnh ấy, ngay trong hiện tại vị ấy tự mình với thắng trí chứng ngộ,
chứng đạt và an trú. Vị ấy rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, việc nên làm đã làm, không trở lui trạng thái này nữa". Tôn
giả Nanda đã trở thành một vị A-la-hán.
Rồi một thiên nhân, khi đêm đã gần
mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế
Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên,
Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nanda
con trai của bà dì, do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự
mình với thắng tri chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát.
Trí khởi lên nơi Thế Tôn: "Nanda,
do đoạn trừ các lậu hoặc... vô lậu tâm giải thoát". Rồi Tôn giả
Nanda, sau khi đêm ấy đã mãn, đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế
Tôn rồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên Tôn giả Nanda bạch Thế
Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có hứa
đền cho con năm trăm Thiên nữ với chân như chim bồ câu. Bạch Thế Tôn,
con xin giải tỏa cho Thế Tôn lời hứa đền ấy.
- Này Nanda, với tâm cuả Ta,
Ta rõ biết tâm của Thầy: "Do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện
tại... tuệ giải thoát". Lại nữa một Thiên nhân có báo cho Ta tin ấy:
"Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nanda... tuệ giải thoát". Vì rằng,
này Nanda, tâm của Thầy được giải thoát khỏi các lậu hoặc
không còn chấp thủ, nên Ta được giải thoát khỏi lời hứa này.
Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa
này, chính trong lúc ấy, nó lên lời cảm hứng này:
2. Ai vượt khỏi bùn này,
Đè bẹp gai của dục,
Đạt được si đoạn diệt,
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Không cảm thọ khổ lạc!
(III) (Ud 24)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, trong khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, khoảng
năm trăm Tỷ-kheo do Yasoja dẫn đầu, đã đến Sàvatthi để yết
kiến Thế Tôn. Các Tỷ-kheo mới đến ấy, trong khi chào thăm các Tỷ-kheo
sở tại, sắp đặt sàng tọa, sửa soạn y bát, gây tiếng ồn ào to lớn.
Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, tiếng ồn ào to
lớn này là gì, như các người đánh cá cướp giật cá?
- Bạch Thế Tôn, có năm trăm Tỷ-kheo
này, dẫn đầu là Yasoja, đã đến Sàvatthi để yết kiến Thế
Tôn. Các Tỷ-kheo mới đến ấy... gây nên tiếng ồn ào to lớn.
- Này Ananda, hãy nhân danh Ta
nói với các Tỷ-kheo ấy: "Bậc Đạo Sư gọi các Tôn giả ".
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn,
đi đến các Tỷ-kheo ấy, sau khi đến nói với các Tỷ-kheo ấy:
- Bậc Đạo Sư gọi các Tôn giả!
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Ananda, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo ấy đang ngồi một bên:
- Này các Tỷ-kheo, tiếng ồn ào to
lớn này là gì, như các người đánh cá cướp giựt cá?
Tôn giả Yasoja bạch Thế
Tôn:
- Bạch Thế Tôn, có năm trăm Tỷ-kheo
này đã đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Các Tỳ-kheo mới đến này...
gây nên tiếng ồn ào to lớn.
- Này các Tỷ-kheo, hãy đi đi! Ta
đuổi các Thầy, các Thầy không xứng đáng được sống gần Ta!
- Thưa vâng! Bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân hữu hướng về
Ngài, dọn dẹp, sàng tọa, cầm lấy y bát, đi đến dân chúng Vajjì,
tiếp tục bộ hành giữa dân chúng Vajjì rồi đi đến con sông Vaggamudà;
sau khi đến, dựng lên chòi lá trên sông Vaggamudà, an cư mùa mưa tại
chỗ ấy. Rồi Tôn giả Yasoja, sửa soạn an cư bảo các Tỳ-kheo:
- Thưa các Hiền giả, Thế Tôn đuổi
chúng ta, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng ta, vì khởi lên lòng từ mẫn
đối với chúng ta. Này chư Hiền, chúng ta hãy sống cho thật đúng pháp,
chúng ta sống như thế nào để Thế Tôn có thể hoan hỷ!
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo vâng đáp Tôn giả Yasoja.
Rồi các Tỷ-kheo ấy sống viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
và trong thời gian an cư, tất cả đều giác ngộ ba minh.
Rồi Thế Tôn, sau khi ở tại Sàvatthi
cho đến khi vừa ý, liền bộ hành đi đến Vesàli, tiếp tục bộ
hành đến Vesàli. Tại đấy, Thế Tôn trú ở Đại Lâm, tại ngôi
nhà có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn với tâm cuả mình tác ý đến tâm các Tỷ-kheo
ở trên bờ sông Vaggumudà, gọi Tôn giả Ananda: "Như có
hào quang, này Ananda, là phương này, như có ánh sáng, này Ananda,
là phương này. Tại phương ấy, các Tỷ-kheo đang sống trên bờ sông Vagumudà.
Thật là không nhàm chán cho Ta nếu được đi và tác ý đến phương ấy.
Này Ananda, hãy gửi một sứ giả đến các Tỷ-kheo ở trên bờ sông
Vaggumudà và nói: "Bậc Đạo sư cho gọi các Tôn giả! Bậc Đạo
sư muốn gặp các Tôn giả!".
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế
Tôn, đi đến một Tỷ-kheo, sau khi đến, nói với Tỷ-kheo ấy:
- Hãy đi, này Hiền giả, hãy đi đến
các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà; sau khi đến, nói với các Tỷ-kheo
ấy như sau: "Bậc Đạo sư cho gọi các Tôn giả!".
- Thưa vâng, Hiền giả.
Vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Ananda, như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại hay co lại
cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy vị ấy biến mất ở ngôi nhà có nóc nhọn
tại Đại Lâm, và hiện ra trước mắt các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà.
Rồi Tỷ-kheo ấy nói với các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà:
- Bậc Đạo Sư gọi các Tôn giả!
Bậc Đạo sư muốn gặp các Tôn giả.
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp vị Tỷ-kheo
ấy, sau khi dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát, ví như một nhà lực sĩ... co lại
bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy các Tỳ-kheo ấy biến mất ở trên bờ
sông Vaggumudà, và hiện ra ở Đại Lâm, tại nhà có nóc nhọn, trước
mặt Thế Tôn. Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngồi trong thiền định bất động.
Các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: "Nay Thế Tôn đang an trú trong loại an trú
nào?". Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: "Thế Tôn nay đang an trú trong
loại an trú bất động".
Và tất cả các Tỷ-kheo ấy ngồi
xuống trong định bất động.
Tôn giả Ananda khi đêm đã gần
mãn, canh một đã gần qua, từ chỗ ngôi đứng dậy, đắp y vào một bên
vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:
- Đêm đã gần tàn, canh một đã gần
qua. Các Tỷ-kheo mới đến ngồi đã lâu. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy
chào đón các Tỷ-kheo mới đến.
Được nghe nói vậy, Thế Tôn giữ
im lặng. Lần thứ hai, Tôn giả Ananda, sau khi đêm đã gần mãn, canh giữa
đã gần qua, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay
hướng đến Thế Tôn và Bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần
mãn. Canh giữa đã gần qua. Các Tỷ-kheo mới đến ngồi đã lâu. Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn hãy chào đón các Tỷ-kheo mới đến.
Lần thứ hai, Thế Tôn giữ im lặng.
Lần thứ ba, Tôn giả Ananda, khi đêm đã gần mãn, canh cuối đã gần
qua, rạng đông đã ló dạng, đêm đã có bộ mặt hoan hỷ, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đắp y vào một bên, chắp tay hướng về Thế Tôn, và bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần
mãn, canh cuối đã gần qua, rạng đông đã ló dạng, đêm đã có bộ mặt
hoan hỷ, các Tỷ-kheo mới đến ngồi đã lâu... Thế Tôn hãy chào đón
các Tỷ-kheo mới đến!
Rồi Thế Tôn xuất khỏi định ấy
bảo Tôn giả Ananda:
- Nếu Thầy có hiểu biết, này Ananda,
Thầy sẽ không nói như vậy. Này Ananda, Ta và năm trăm Tỷ-kheo này tất
cả đang nhập định bất động.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
3. Ai đã thắng gai dục,
Nắng, gia hại, trói buộc,
Vị ấy đứng bất động,
Như núi vững an trú,
Vị Tỷ-kheo như vầy,
Lạc khổ không dao động.
(IV) (Ud 27)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Tôn giả
Sàriputta ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng,
đặt niệm trước mặt. Thế Tôn thấy Tôn giả Sàriputta ngồi không
xa bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, rồi sau
khi biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
4. Như ngọn núi bằng đá,
Không động, khéo an trú,
Cũng vậy vị Tỳ-kheo,
Đoạn diệt được ngu si,
Như ngọn núi bằng đá,
Không có bị dao động.
(V) (Ud 27)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Maha Moggallàna ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già lưng
thẳng, nội tâm khéo an trú thân hành niệm. Thế Tôn thấy Tôn giả Maha
Moggallàna ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết-già lưng thẳng nội tâm
khéo an trú thân hành niệm.
Rồi Thế Tôn, sau khi biết ý nghĩa
này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
5. Thân hành niệm an lập,
Sáu xúc xứ chế ngự,
Tỷ-kheo thường thiền định,
Tự chứng tri Niết Bàn.
(VI) (Ud 28)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha,
tại Veluvana, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, Tôn giả Pilindavaccha,
thường hay gọi Tỳ-kheo với danh từ bần tiện. Rồi một số đông Tỷ-kheo
đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Tôn giả Pilindavaccha thường
hay gọi các Tỷ-kheo với danh từ bần tiện.
Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:
- Hãy đi, này Tỷ-kheo, và nhân danh
Ta, bảo Tỷ-kheo Pilindavaccha: "Này Hiền giả, bậc Đạo Sư gọi
Hiền giả! ".
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn đi
đến Tôn giả Pilindavaccha, sau khi đến nói với Pilindavaccha:
- Bậc Đạo Sư gọi Hiền giả!
- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Pilindavaccha vâng đáp
Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Pilindavaccha đang ngồi một
bên:
- Có thật chăng, này Vaccha.
Thầy thường gọi các Tỷ-kheo với danh từ bần tiện?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn sau khi tác ý đến đời
sống trước của Pilindavaccha, liền bảo các Tỷ-kheo:
- Này, các Tỷ-kheo, chớ có bực
phiền với Tỷ-kheo Pilindavaccha. Này các Tỷ-kheo, không phải vì trong
lòng có sân hận mà Vaccha thường gọi các Tỷ-kheo với danh từ bần
tiện. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Vaccha trong năm trăm năm nối tiếp nhau đã
sanh trong gia đình Bà-la-môn. Danh từ bần tiện đã lâu ngay được chứa
chấp trong vị ấy. Do vậy, Vaccha thường gọi Tỷ-kheo với danh từ
bần tiện.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:
6. Trong ai không man trá,
Không mạn, tham đoạn tận,
Không ngã sở, không dục,
Phẩn nộ được trừ diệt,
Tự ngã thành mát lạnh
Vị ấy là Phạm chí,
Là Sa môn Tỷ-kheo.
(VII) (Ud 29)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha,
tại Veluvana, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ Tôn giả
Mahakassapa, trú ở hang Pipphali, ngồi một thế ngồi kiết-già
trong bảy ngày, sau khi nhập vào một loại thiền định. Rồi Tôn giả Mahakassapa,
sau bảy ngày, xuất khỏi định ấy, Tôn giả Mahakassapa, sau khi xuất
khỏi định ấy, suy nghĩ như sau: "Ta hãy đi vào Ràjagaha để khất
thực! ". Lúc bấy giờ năm trăm chư Thiên đang cố gắng lo cho Tôn giả
Mahakassapa được đồ ăn khất thực. Rồi Tôn giả Mahakassapa
sau khi khước từ năm trăm Thiên nhân ấy, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát,
vào Ràjagaha để khất thực.
Lúc bấy giờ, Thiên chủ Sakka muốn
cúng dường đồ ăn khất thực cho Tôn giả Mahakassapa, hóa thân làm
người thợ dệt đang dệt chỉ Sujàta, thiếu nữ Asura đang làm cho
đầy cái thoi. Rồi Tôn giả Mahakassapa, sau khi đi từng nhà khất thực
ở Ràjagaha, đi đến trú xứ của Thiên chủ Sakka. Thiên chủ
Sakka thấy Tôn giả Mahakassapa từ xa đi đến, sau khi thấy, liền ra
khỏi nhà, tiếp đón, lấy bát từ nơi tay cầm đem vào nhà, bới cơm từ
nơi nồi, đựng đầy bát và đưa lại cho Tôn giả Mahakassapa. Đồ
ăn khất thực ấy gồm có nhiều loại canh, nhiều loại món ăn, nhiều loại
gia vị, món ăn trộn lẫn với nhau.
Rồi Tôn giả Mahakassapa suy
nghĩ: "Ai là chúng sanh này, lại có thần lực uy lực như vậy? ".
Rồi Tôn giả Mahakassapa suy nghĩ: "Chính là Thiên chủ Sakka",
sau khi biết vậy, nói với Thiên chủ Sakka:
- "Này Kosiya, chính Ông đã
làm sự việc này. Chớ làm như vậy nữa!".
- Thưa Tôn giả Kassapa, mục
đích của chúng tôi là được phước. Điều chúng tôi cần làm là được
phước.
Rồi Thiên chủ Sakka, sau khi
đảnh lễ Tôn giả Mahakassaspa, thân phía hữu hướng về Ngài, bay
lên trên hư không, và ở giữa hư không nói lên ba lần cảm hứng:
"Ôi, bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kassapa! Ôi,
bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kasapa! ".
Thế Tôn với Thiên nhĩ thanh tịnh
siêu nhân nghe giữa hư không Thiên chủ Sakka nói lên ba lần lời cảm
hứng: "Ôi, bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kassapa!
Ôi, bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kassapa!.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
7. Vị Tỷ-kheo khất thực,
Tự sống không nhờ người,
Chư Thiên thương vị ấy,
Thường an tịnh chánh niệm.
(VIII) (Ud 30)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều Tỷ-kheo
sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, ngồi hội họp tại rạp tròn
có cây kareri và câu chuyện sau đây được khởi lên: "Tỷ-kheo
đi khất thực, thưa các Hiền giả, thỉnh thoảng mắt được thấy sắc
khả ái, thỉnh thoảng tai được nghe tiếng khả ái, thỉnh thoảng mũi
được ngửi hương khả ái, thỉnh thoảng lưỡi được nếm khả ái, thỉnh
thoảng thân được cảm giác xúc khả ái.
Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo khất
thực được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính khi đi
khất thực. Vậy này chư Hiền, chúng ta hãy là ngưòi đi khất thực, thỉnh
thoảng, mắt chúng ta được thấy sắc khả ái, thỉnh thoảng tai chúng ta
được nghe tiếng khả ái, thỉnh thoảng mũi chúng ta được ngửi hương
khả ái, thỉnh thoảng lưỡi chúng ta được nếm vị khả ái, thỉnh thoảng
thân chúng ta được cảm giác xúc khả ái. Chúng ta cũng được cung kính,
tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính khi chúng ta sẽ đi khất thực".
Câu chuyện này giữa các Tỷ-kheo
ấy chưa được nói xong, thì Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền định
đứng dậy, đi đến rạp tròn có cây kareri, sau khi đến ngồi trên
chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, này các Thày ngồi
ở đây nói câu chuyện gì? Và câu chuyện gì giữa các Thầy chưa được
nói xong?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con
sau bữa ăn, sau khi đi khất thực trở về, chúng con ngồi hội họp tại rạp
tròn có cây kareri, và câu chuyện sau đây được khởi lên giữa chúng con:
"Tỷ-kheo đi khất thực, thưa các Hiền giả, thỉnh thoảng mắt được
thấy sắc khả ái... chúng ta cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ,
cúng dường, tôn kính, khi chúng ta sẽ đi khất thực ". Bạch Thế Tôn
đây là câu chuyện giữa chúng con chưa được nói xong thì Thế Tôn đến.
- Này các Tỳ-kheo, chuyện này thật
không xứng đáng cho các Thầy, là những thiện nam tử, vì lòng tin xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, khi các Thầy nói lên câu chuyện
như vậy. Khi các Thầy ngồi hội họp với nhau, này các Tỷ-kheo, có hai
công việc cần phải làm: Nói pháp hay giữ im lặng của bậc Thánh!.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý
nghĩa này ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
8. Vị Tỷ-kheo khất thực,
Tự sống không nhờ người,
Chư Thiên thương vị ấy,
Nhưng nếu Tỷ-kheo ấy,
Y tựa vào danh vọng,
Chư Thiên không có thương.
(IX) (Ud 31)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi,
tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ nhiều
Tỷ-kheo... (như kinh trên)... câu chuyện này khởi lên: "Này chư Hiền,
ai biết nghề gì? Ai học tập nghề gì? Nghề gì là tối thượng? "
Ở đây, một số người nói như
sau: "Huấn luyện voi là nghề tối thượng". Một số người nói
như sau: "Huấn luyện ngựa là nghề tối thượng". Một số người
nói như sau: "Làm xe là nghề tối thượng." Một số người nói như
sau: "Nghề bắn cung là nghề tối thượng". Một số người nói như
sau: "Nghề đao kiếm là nghề tối thượng". Một số người nói
như sau: "Nghề ấn hiệu là nghề tối thượng". Một số người nói
như sau: "Nghề tính toán là nghề tối thượng". Một số người nói
như sau: "Nghề ước lượng là nghề tối thượng". Một số người
nói như sau: "Nghề viết bài là nghề tối thượng". Một số người
nói như sau: "Nghề làm thơ là nghề tối thượng". Một số người
nói như sau: "Nghề phỏng đoán các nguyên nhân tự nhiên là nghề tối
thượng". Một số người nói như sau: "Nghề điều khiển bộ máy
quốc gia là nghề tối thượng". Đây là câu chuyện xảy ra giữa
chúng con chưa được nói xong.
Rồi Thế Tôn vào buổi chiều...
(Xem III,8...) chưa được nói xong... "Ở đây, bạch Thế Tôn... khởi
lên: "Này hiền giả ai biết nghề gì... nghề điều khiển bộ máy quốc
gia là nghề tối thượng ". Bạch Thế Tôn đây là câu chuyện xảy ra
giữa chúng con chưa được nói xong, thì Thế Tôn đã đến".
- Này các Tỷ-kheo, chuyện này thật
không xứng đáng cho các Thầy... khi các Thầy ngồi hội họp với nhau, có
hai công việc cần phải làm: Nói pháp hay giữ im lặng của bậc Thánh.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
9. Ai sống không nghề nghiệp,
Nhẹ nhàng, muốn lợi ích,
Các căn được chế ngự,
Toàn diện được giải thoát,
Không nhà, không ngã sở,
Không dục, giết ác ma,
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Sống cô độc một mình.
(X) (Ud 32)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Uruvelà,
trên bờ sông Neranjara, dưới gốc cây Bồ-đề, khi mới thành Chánh
giác. Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày ngồi một thế ngồi kiết
già, hưởng thọ giải thoát lạc. Rồi Thế Tôn, sau bảy ngày ấy, từ định
ấy xuất khởi, nhìn đời với Phật nhãn, thấy các chúng sanh bị thiêu
đốt với nhiều loại thiêu đốt, bị nhiệt não bởi nhiều loại nhiệt
não, bởi tham, bởi sân, bởi si.
Rồi Thế Tôn, sau khi biết ý nghĩa
này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
10. Đời này bị thiêu đốt,
Chi phần bởi cảm xúc,
Tự mình nói rõ lên,
Chứng bệnh của chính mình,
Bởi vì nó nghĩ đến,
Do đó bị đổi khác,
Bị đổi khác vi hữu,
Bị lệ thuộc vì hữu,
Đời này hữu chi phối,
Lại hoan hỷ với hữu,
Khi nào có hoan hỷ,
Ở đấy có sợ hãi,
V穠ai có sợ hãi,
Đấy tức là đau khổ,
Chính do đoạn diệt hữu,
Phạm hạnh này được sống.
Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào đã
tuyên bố rằng sự giải thoát khỏi hữu là do hữu. Ta nói rằng tất cả
những vị ấy không giải thoát khỏi hữu.
Những Sa môn hay những Bà-la-môn
nào đã tuyên bố rằng sự xuất ly khỏi hữu là do phi hữu, tất cả những
vị ấy, Ta tuyên bố rằng chúng không nương tựa nơi hữu.
Do duyên sanh y, khổ này được sanh
khởi. Chính do đoạn diệt tất cả sanh y, khổ không có hiện hữu.
11. Hãy xem đời rộng này,
Bị vô minh chi phối,
Các sanh loại được sanh,
Ưa thích được sanh khởi,
Không thoát được sanh hữu.
Với ai đốt sanh hữu,
Tất cả mọi thời, xứ,
Tất cả sanh hữu này,
Vô thường khổ biến hoại,
Như vậy, thấy như thật,
Với chơn chánh trí tuệ,
Hữu ái được đoạn tận,
Phi hữu ái hoan hỷ
Đoạn diệt ái hoàn toàn,
Ly tham, diệt, hoàn toàn,
Như vậy là Niết Bàn,
Tỷ-kheo ấy mát lạnh,
Không chấp thủ tái sanh,
Nhiếp phục được ma vương,
Trận chiến đã chiến thắng,
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Vượt qua mọi sanh hữu.
Giới thiệu
| [1-3] | [4-5]
| [6-8]