- Kinh Phật Tự Thuyết
(Udàna)
- Chương Bốn
(I) (Ud 34)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Càlikà,
tại núi Càlikà Lúc bấy giờ Tôn giả Meghiya là người thị
giả Thế Tôn. Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh
lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên Tôn giả Meghiya bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con muốn vào làng
Jantu để khất thực.
- Này Meghiya, hãy làm những
gì Thầy nghĩ là hợp thời.
Rồi Tôn giả Meghiya, vào buổi
sáng đắp y, cầm bát đi vào làng Jantu để khất thực. Khất thực
ở làng Jantu xong, sau buổi ăn, khi khất thực trở về, đi đến bờ
sông Kimikàkà, sau khi đến, bộ hành qua lại trên bờ sông Kimikàlà,
thấy rừng xoài tươi đẹp, khả ái, thấy vậy Tôn giả Meghiya suy
nghĩ: "Thật tươi đẹp thay, khả ái thay rừng xoài này. Rừng xoài
này thật là vừa đủ để một thiện nam tử tinh cần, hành trì hạnh
tinh cần. Nếu Thế Tôn cho phép ta, ta sẽ đến rừng xoài này để tinh cần
hành trì". Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, ngồi xuống một bên, Tôn
giả Meghiya bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con vào
buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào làng Jantu để khất thực. Khất
thực ở Jantu xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, con đi đến
bờ sông Kimikàlà, sau khi đến, con bộ hành qua lại trên bờ sông
Kimikàlà, con thấy rừng xoài tươi đẹp, khả ái, thấy vậy, con suy
nghĩ: "Thật tươi đẹp thay, khả ái thay là rừng xoài này. Rừng xoài
này thật là vừa đủ để một thiện nam tử tinh cần, hành trì hạnh
tinh cần". Nếu Thế Tôn cho phép con, con sẽ đi đến rừng xoài ấy để
tinh cần hành trì.
Được nói vậy, Thế Tôn nói với
Tôn giả Meghiya:
- Hãy chờ đợi, này Meghiya.
Chúng ta nay chỉ có một mình, chờ cho đến khi một Tỳ-kheo khác đến!.
Lần thứ hai, Tôn giả Meghiya
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, đối với Thế Tôn,
không có gì cần phải làm thêm nữa, không có gì cộng thêm vào việc đã
làm. Nhưng đối với con, bạch Thế Tôn, có việc cần phải làm thêm nữa,
có việc cộng thêm vào việc đã làm. Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn cho
phép con, con sẽ đi đến rừng xoài này để tinh cần tu hành.
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với
Tôn giả Meghiya:
- Hãy chờ đợi này Meghiya! Chúng
ta nay chỉ có một mình, chờ cho đến khi một Tỷ-kheo khác đến.
Lần thưa ba, Tôn giả Meghiya
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, đối với Thế Tôn
không có gì cần phải làm thêm nữa, không có gì cộng thêm vào việc đã
làm... con sẽ đi đế rừng xoài này để tinh cần tu hành.
- Này Meghiya, khi Thầy nói
tinh cần, thời Ta có thể nói gì được! Này Meghiya, nay Thầy hãy
làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời!.
Rồi Tôn giả Meghiya từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài đi đến
rừng xoài ấy, sau khi đến, đi sâu vào rừng xoài và ngồi trú ban ngày dưới
một gốc cây. Trong khi Tôn giả Meghiya trú trong rừng xoài ấy, phần lớn
ba tâm ác, không thiện hiện hành, tức là dục tâm, sân tâm, hại tâm.
Rồi Tôn giả Meghiya suy nghĩ
như sau: "Thật vi diệu thay, thật hi hữu thay! Ta vì lòng tin xuất gia,
từ bỏ gia đình, sống không gia đình, lại bị ba tâm ác, không thiện
này xâm nhập, tức là dục tầm, sân tầm, hại tầm". Rồi Tôn giả Meghiya
vào buổi chiều từ thiền tịnh đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn
giả Meghiya bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi
con sống trong rừng xoài ấy, phần lớn ba tầm ác, không thiện hiện
hành, tức là dục tầm, sân tầm, hại tầm. Bạch Thế Tôn, rồi con suy
nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay... hại tầm".
- Này Meghiya, khi tâm giải
thoát chưa được thuần thục, năm pháp đưa đến sự thuần thục. Thế nào
là năm? Ở đây thiện bạn hữu, thiện thân hữu là pháp thứ nhất, này Meghiya,
khiến tâm giải thoát chưa thuần thục đi đến thuần thực. Lại nữa, này
Meghiya, Tỷ-kheo giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới
bổn Pàtimokha, đầy đủ uy nghĩ chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những
lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Đây là pháp
thứ hai, này Meghiya, khiến tâm giải thoát chưa thuần thục, đi đến
thuần thục. Lại nữa, này Meghiya, phàm có những câu chuyện nào
nghiêm túc, thích ứng khai mở tâm, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly
tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, như câu chuyện
về ít dục, câu chuyện về biết đủ, câu chuyện về viễn ly, câu chuyện
về hòa hợp, câu chuyện về tinh cần, tinh tấn, câu chuyện về giới luật,
câu chuyện về thiền định, câu chuyện về trí tuệ, câu chuyện về giải
thoát, câu chuyện về giải thoát tri kiến. Những câu chuyện như vậy có
thể được không có khó khăn, có thể được không có mệt nhọc, có thể
được không có phí sức. Đây là giải pháp thứ ba, này Meghiya, khiến
cho tâm giải thoát chưa thuần thục đi đến thuần thục. Lại nữa, này Meghiya,
vị Tỷ-kheo sống tinh cần, tinh tấn, để đoạn tận các pháp không
thiện, để làm sanh khởi các pháp thiện, kiên trì, cương quyết, không từ
bỏ gánh nặng đối với pháp thiện. Đây là pháp thứ tư, này Meghiya,
khiến cho tâm giải thoát chưa thuần thục, đi đến thuần thục. Lại nữa,
này Meghiya, vị Tỷ-kheo có trí tuệ, đầy đủ trí tuệ, đi đến thẩm
sát sanh diệt, với Thánh thể nhập đưa đến đoạn tận khổ đau. Đây
là pháp thứ năm. Này Meghiya, khiến tâm thoát chưa thuần thục đi đến
thuần thục. Này Meghiya, đây là năm pháp khiến tâm giải thoát chưa
thuần thục đi đến thuần thục.
Này Meghiya, với vị Tỷ-kheo
thiện thân hữu, thiện bạn hữu, thiện bằng hữu, được chờ đợi là
vị ấy sẽ giữ giới, sẽ sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn
Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh thấy sợ hãi trong các lỗi
nhỏ nhặt, chấp nhận và tu tập trong các học pháp. Với vị Tỷ-kheo thiện
thân hữu, thiện bạn hữu, thiện bằng hữu, sẽ giữ giới, sẽ sống chế
ngự... tu tập trong các học pháp, được chờ đợi là phàm có những câu
chuyện nào nghiêm túc, thích ứng, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí,
giác ngộ, Niết-bàn. Như câu chuyện về ít dục, câu chuyện về viễn ly,
câu chuyện về hòa hợp, câu chuyện về tinh cần tinh tấn, câu chuyện về
giới luật, câu chuyện về thiền định, câu chuyện về trí tuệ, câu
chuyện về giải thoát, câu chuyện về giải thoát tri kiến; những câu
chuyện như vậy có thể có được không khó khăn, có được không mệt nhọc,
có được không phí sức. Với vị Tỷ-kheo thiện thân hữu, thiện bạn hữu,
thiện bằng hữu, được chờ đợi là vị ấy sống tinh cần, tinh tấn để
đoạn tận các pháp không thiện, để làm sanh khởi các pháp thiện, kiên
trì, cương quyết, không từ bỏ gánh nặng đối với pháp thiện. Với vị
Tỷ-kheo thiện thân bằng hữu, thiện bạn hữu, thiện bằng hữu, được
chờ đợi là vị Tỷ-kheo sẽ có trí tuệ, đầy đủ trí đi đến thẩm sát
sanh diệt với thánh thể nhập đưa đến đoạn tận khổ đau.
Lại nữa, này Meghiya, với vị
Tỷ-kheo khéo an trú trong năm pháp này, bốn pháp cần phải tu tập thêm: Bất
tịnh cần phải tu tập để đoạn tận tham; Từ cần phải tu tập để
đoạn tận sân; Niệm hơi thở vô hơi thở ra cần phải tu tập để trừ
khử tầm tư; Vô thường tưởng cần phải tu tập để nhổ lên kiêu mạn,
tôi là. Này Meghiya, với ai có tưởng vô thường, tưởng vô ngã được an
trú. Với ai có tưởng vô ngã, vị ấy đạt được sự nhổ lên kiêu mạn:
tôi là, Niết-bàn ngay trong hiện tại.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
1. Các tầm nhỏ tế nhị,
Hiện hành ý hoan hỷ,
Do không biết đến chúng,
Tâm động chạy nhiều đời,
Nếu biết chúng tầm tư,
Nhiệt tâm và chánh niệm,
Chế ngự được tư tưởng,
Khi ý không hoan hỷ,
Bậc Chánh giác bỏ chúng,
Không còn chút dư tàn.
(II) (Ud 37)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Kusinàra,
tại Upavatama, trong ngôi rừng Pàla của dân chúng Mallà.
Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo, đang sống trong những cốc ở trong rừng không
xa Thế Tôn bao nhiêu, tháo động, kiêu căng, dao động, lắm mồm, lắm miệng,
lắm lời, thất niệm, không tỉnh giấc, không định tĩnh, tâm tán loạn,
các căn thả lỏng. Thế Tôn thấy số đông các Tỷ-kheo ấy, đang sống
trong những cốc ở trong rừng, tháo động, kiêu căng, dao động, lắm mồm,
lắm miệng, lắm lời, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm
tán loạn, các căn thả lỏng.
Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa
này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
2. Với thân không hộ trì,
Với tà kiến chi phối,
Bị hôn trầm thụy miên,
Nhiếp phục và chế ngự,
Kẻ ấy bị rơi vào
Uy lực của Ma vương
Do vậy hộ trì tâm,
Sở hành chánh tư duy,
Đặt chánh kiến hàng đầu,
Rõ biết tánh sanh diệt,
Nhiếp phục và chế ngự,
Hôn trầm và thụy miên
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Từ bỏ mọi ác thú.
(III) (Ud 38)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn đang bộ hành
giữa dân chúng Kosala với đại chúng Tỷ-kheo. Rồi Thế Tôn từ con
đường bước xuống, đi đến một gốc cây, sau khi đến ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn. Hỏi một kẻ chăn bò đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn với pháp thoại
trình bày, khích lệ, làm cho phấn chấn, làm cho hoan hỷ người chăn bò
đang ngồi một bên ấy. Rồi người chăn bò ấy, sau khi được Thế Tôn,
với pháp thoại trình bày, khích lệ, làm cho phấn chấn, làm cho phấn khởi,
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận
lời, ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo". Thế Tôn im lặng nhận
lời. Rồi người chăn bò ấy, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi
ra đi.
Rồi người chăn bò ấy, sau khi đêm
ấy đã mãn, sau khi dự trữ sẵn sàng một số lớn cơm sữa đặc và bơ
tươi và báo thời giờ cho Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời,
cơm đã sẵn sàng.
Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm
bát đi đến trú xứ của người chăn bò ấy, với chúng Tỷ-kheo, sau khi
đến ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Người chăn bò ấy, tự tay mời,
làm cho thỏa mãn chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, với
cơm sữa đặc và bơ tươi. Rồi người chăn bò, khi đức Phật đã dùng
xong, tay đã rời khỏi bát, liền lấy một ghế ngồi thấp, ngồi xuống một
bên, Thế Tôn với pháp thoại, trình bày, khích lê, làm cho phấn chấn,
làm cho hoan hỷ, người chăn bò đang ngồi một bên, từ chỗ ngồi đứng
dậy rồi ra đi. Thế Tôn ra đi không bao lâu, có ngưòi đoạt mạng sống
người chăn bò ấy tại biên giới của làng. Rồi một số đông Tỷ-kheo
đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, hôm nay chúng Tỷ-kheo
với đức Phật là vị dẫn đầu đã được người chăn bò ấy tự tay mời
ăn và làm cho thỏa mãn với cơm sữa đặc và bơ tươi. Người chăn bò
ấy, bạch Thế Tôn, đã bị một người đoạt mạng sống tại biên giói
của làng.
Thế Tôn sau khi biết ý nghĩa này,
ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
3. Nếu có độc ác gì,
Kẻ thù hại người thù,
Tâm định hướng tà vạy,
Còn làm ác hơn nữa.
(VI) (Ud 39)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha,
tại Veluvana chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ Tôn giả Sàriputta
và Tôn giả Mahà Moggallàna trú ở động chim bồ câu. Lúc bấy giờ
Tôn giả Sàriputta, trong đêm có sáng trăng, ngồi giữa trời với tóc
mới được cạo xong, đang nhập định. Có hai Dạ-xoa là bạn với nhau
đang đi từ phương Nam lên phương Bắc vì một vài công việc. Các Dạ-xoa
ấy thấy Tôn giả Sàriputta trong đêm có sáng trăng, ngồi giữa trời
với tóc mới cạo xong.
Thấy vậy, một Dạ-xoa nói với Dạ-xoa
thứ hai: "Này bạn, ta có ý muốn đánh trên đầu vị Sa-môn này".
Được nghe nói vậy, vị Dạ-xoa này nói với Dạ-xoa ấy: "Chớ có
làm, này bạn, không làm gì được với vị Sa-môn! Này bạn, Sa-môn ấy vĩ
đại, có đại thần lực, có đại uy lực " Lần thứ hai, vị Dạ-xoa
ấy nói vị Dạ-xoa này: "Này bạn, ta có ý muốn đánh trên đầu vị
Sa-môn này". Lần thứ hai, vị Dạ-xoa này nói với vị Dạ-xoa ấy:
"Chớ có làm, này bạn, không làm gì được với vị Sa-môn!. Này bạn,
Sa-môn ấy vĩ đại, có đại thần lực, có đại uy lực". Lần thứ
ba, vị Dạ-xoa ấy, nói với vị Dạ-xoa này: "Này bạn, ta có ý muốn
đánh trên đầu của vị Sa-môn này". Lần thứ ba, vị Dạ-xoa này nói
với vị Dạ-xoa ấy: "Chớ có làm này bạn, không làm gì được với
vị Sa-môn. Này bạn, Sa-môn ấy vĩ đại, có đại thần lực, có đại uy
lực".
Rồi Dạ-xoa ấy không nghe theo, Dạ-xoa
này liền đánh trên đầu Tôn giả Sàriputta. Với cái đánh này, có
thể làm ngã con voi bảy đến tám khuỷu tay cao hay làm bề tan ngọn núi lớn.
Ngay lúc ấy, Dạ-xoa ấy hét lớn: "Tôi bị cháy! Tôi bị cháy! "
và rơi vào đại địa ngục.
Tôn giả Mahà Moggallàna với
Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy Tôn giả Sàriputta bị đánh
trên đầu, thấy vậy liền đến Tôn giả Sàriputta, sau khi đến, nói
với Tôn giả Sàriputta:
- Mong rằng Hiền giả có thể kham
nhẫn! Mong rằng Hiền giả có thể chịu đựng. Mong rằng Hiền giả không
có đau đớn!
- Này Hiền giả Moggallàna,
tôi có thể kham nhẫn! Hiền giả Moggallàna, tôi có thể chịu đựng!
Hiền giả Moggallàna, nhưng đầu tôi có đau.
- Thật vi diệu thay, Hiền giả Sàriputta!.
Hiền giả Sàriputta thật có thần lực lớn, thật có uy lực lớn!
Ở đây, thưa Hiền giả Sàriputta, có con Dạ-xoa đánh trên đầu Hiền giả,
đánh thật mạnh. Với cái đánh ấy, có thể làm ngã con voi bảy đến tám
khuỷu tay cao, hay làm bể tan ngọn núi lớn và Tôn giả Sàriputta đã
nói như sau: "Này Hiền giả Moggallàna, tôi có thể kham nhẫn!
Này Hiền giả Moggallàna, tôi có thể chịu đựng! Nhưng tôi có hơi
đau đầu!" Thật vi diệu thay, Hiền giả Moggallàna! Thật hy hữu
thay Hiền giả Moggallàna! Có đại thần lực là tôn giả Mahà
Moggallàna, có đại uy lực, vì rằng Hiền giả có thể thấy được Dạ-xoa,
nhưng tôi này không thấy được một con quỷ đói.
Thế Tôn với Thiên nhĩ thanh tịnh
siêu nhân, nghe được câu chuyện như vậy giữa hai vị long tượng ấy.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
4. Tâm ai như tảng đá,
An trú không dao động,
Không tham vật khả ái,
Đáng phẩn nộ, không sân,
Tâm ai tu như vậy,
Từ đâu khổ đến được?
(V) (Ud 41)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Kosambi,
tại khu vuờn Ghosita. Lúc bấy giờ Thế Tôn sống bị các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, các vua, các đại thần của vua, các ngoại đạo,
các đệ tử ngoại đạo quấy rầy, bị quấy rầy nên khổ, không có thoải
mái an ổn. Rồi Thế Tôn suy nghĩ như sau: "Nay Ta sống bị các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ni... quấy rầy, vì bị quấy rầy nên khổ, không có thoải mái an
ổn. Vậy Ta hãy sống một mình, xa rời đại chúng".
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp
y, cầm bát đi vào Kosambi để khất thực. Khất thực ở Kosambi
xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, liền dọn dẹp sàng tọa của
mình, cầm y bát, không nói cho thị giả biết, không báo cho chúng Tỷ-kheo
biết, một mình không có người thứ hai ra đi, bộ hành hướng đến Pàlileyyaka,
tiếp tục bộ hành và đi đến Pàlileyyaka. Tại đây, Thế Tôn sống
ở Pàlileyyaka, khóm rừng Rakkhita, dưới gốc cây Sàla Bhadda.
Rồi một con voi, bị các con voi,
các con voi cái, các con voi con, các con voi còn bú quấy rầy, ăn cỏ với đầu
ngọn bị cắt đứt, ăn các cành cây bị gẫy, uống nước bị vẫn đục,
khi hụp lặn xong lên khỏi nước nó bị các con voi cái cọ xát thân hình,
vì bị quấy rầy nên khổ, không có thoải mái an ổn. Rồi con voi ấy suy
nghĩ: "Ta bị các con voi, các con voi cái... Ta vì bị phiền quấy rầy
nên khổ, không có thoải mái, an ổn. Vậy Ta hãy sống một mình, xa rời
khỏi đàn voi".
Rồi con voi ấy, rời khỏi đàn
voi, đi đến Pàlileyyaka, tại khóm rừng Rakkita, ở gốc cây sàla
Bhadda. Tại đấy, con voi ấy tại chỗ nào Thế Tôn ở, tại chỗ ấy
nó dọn sạch cỏ với cái vòi của mình, đem nước uống, đồ ăn để Thế
Tôn dùng.
Rồi Thế Tôn trong khi sống độc
cư thiền định, tư tưởng như sau được khởi lên: "Ta trước đây bị
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni... quấy rầy không có thoải mái an ổn. Nay Ta sống
không có bị các Tỷ-kheo... không có bị các ngoại đạo, đệ tử các ngoại
đạo quấy rầy, vì không bị quấy rầy, Ta sống an lạc thoải mái".
Còn con voi ấy cũng khởi lên suy
nghĩ như sau: "Trước đây ta sống bị các con voi.. quấy rầy, vì bị
quấy rầy nên khổ, không có thoải mái an ổn. Nay ta sống không bị các
con voi... quầy rầy. Ta ăn cỏ với đầu ngọn không bị cắt đứt, ăn các
cành cây không bị bẽ gãy, uống nước không bị vẫn đục, khi hụp lặn
xong lên khỏi nước, ta không bị các con voi cái cọ xát thân hình, ta
không bị quấy rầy nên sống an lạc, thoải mái an ổn".
Rồi Thế Tôn, sau khi biết hạnh viễn
ly của mình, với tâm của mình biết được tâm của con voi ấy, ngay trong
lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
5. Đây là voi với voi,
Với voi có ngà lớn
Với tâm điều phục tâm,
Một mình vui thích rừng.
(VI) (Ud 42)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Tôn giả
Pindolabhàradvàja ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết-già lưng
thẳng, sống ở rừng, đi khất thực, mặc y lượm từ đống rác, chỉ
mang ba y, ít dục, biết đủ, viễn ly, không ưa thích hội họp, tinh cần
tinh tấn, nói hạnh đầu đà, chú tâm vào tăng thượng tâm. Thế Tôn thấy
Tôn giả Pindolabhàradvàja ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết già lưng
thẳng... chú tâm vào tăng thượng tâm.
Rồi Thế Tôn sau khi rõ biết ý nghĩa
này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
6. Không mắng, không gia hại,
Chế ngự trong giới bổn,
Tiết độ trong ăn uống,
Nằm ngồi chỉ một mình,
Chú tâm vào tăng thượng,
Chính lời chư Phật dạy.
(VII) (Ud 43)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Tôn giả
Sàriputta ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, kiết-già lưng thẳng, ít dục,
biết đủ, viễn ly, không ưa hội họp, tinh cần tinh tấn, chú tâm vào tăng
thượng tâm. Thế Tôn thấy Tôn giả Sàriputta ngồi không xa bao
nhiêu, kiết già lưng thẳng, ít dục, biết đủ, viễn ly, không ưa hội họp,
tinh cần tinh tấn, chú tâm vào tăng thượng tâm.
Rồi Thế Tôn sau khi biết ý nghĩa
này, ngay lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
7. Tâm tăng thượng ẩn sĩ,
Không phóng dật, tu tập,
Trên con đường chánh trí,
Vị ấy không cầu muộn,
Luôn luôn được an tịnh,
Thường nắm giữ chánh niệm.
(VIII) (Ud 44)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Thế Tôn
được cung kính, tôn trọng, đảnh lể, cúng dường, tôn kính nhận được
các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Chúng Tỷ-kheo cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường tôn
kính, cũng nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Nhưng các du sĩ ngoại đạo không được cung kính...
Cũng không nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Các du sĩ ngoại đạo ấy, không có thể chịu nổi
sự cung kính đối với Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo, đi đến nữ du sĩ Sundari,
sau khi đến, nói với nữ du sĩ Sundari:
- Này chị, chị có thể làm lợi
ích cho các bà con?
- Thưa các Tôn giả, con có thể
làm gì? Việc gì con có thể làm được? Đời sống của con là một vật
hy sinh cho các bà con.
- Vậy Chị hãy thường đi đến Jetavana.
- Thưa vâng, các Tôn giả.
Nư du sĩ Sundari, sau khi vâng
đáp các du sĩ ngoại đạo ấy thường xuyên đi đến Jetavana. Khi các du sĩ
ngoại đạo ấy được biết rằng nữ du sĩ Sundari được nhiều
người thấy thường xuyên đi đến Jetavana, họ đoạt mạng sống của
nữ du sĩ Sundari, tại đấy, chôn nàng vào cái hố trong các mương của
Jetavana, rồi đi đến Vua Pasenadi nước Kosala, sau khi đến
thưa với vua Pasenadi nước Kosala:
- Thưa Đại vương, nữ du sĩ Sundari
không được thấy nữa.
- Nhưng các Người nghĩ ở tại đâu?
- Ở tại Jetavana, thưa Đại
vương.
- Vậy hãy đi tìm ở Jetavana.
Các du sĩ ngoại đạo ấy đi tìm
ở Jetavana, đào mương tại chỗ đã quăng nàng xuống, đặt nàng
trên giường, đi vào Sàvatthi từ đường này đến đường khác, từ
ngã ba đường này đến ngã ba đường khác, họ làm cho dân chúng tức giận
nói rằng: "Các Ông hãy xem công việc làm của các Thích tử! Vô liêm
sỉ là các Sa-môn Thích tử này, theo ác giới, theo ác pháp, nói láo, không
Phạm hạnh họ tự cho là sống đúng pháp, sống thăng bằng, sống Phạm hạnh,
nói lời chân thật, giữ giới, theo biện pháp. Không có Sa-môn hạnh trong
những vị này. Không có Bà-la-môn hạnh trong những vị này. Từ đâu họ
có Sa-môn hạnh? Từ đâu họ có Bà-la-môn hạnh? Sa-môn hạnh của họ đã
đi mất. Sau khi làm xong phận sự của đàn ông, họ đoạt mạng sống của
nữ nhân này".
Lúc bấy giờ, các người ở Sàvatthi,
khi thấy các Tỷ-kheo, với những lời không tốt, ác độc, mắng nhiếc, mạ
lyﬠphỉ báng, bức não nói rằng: "Vô liêm sỉ là các Sa-môn Thích tử
này, theo ác giới, theo ác pháp... họ đoạt mạng sống của nữ nhân
này".
Rồi một số đông Tỷ-kheo vào buổi
sáng đáp y cầm bắt, vào Sàvatthi để khất thực, khất thực ở Sàvatthi
xong, sau buổi ăn, đi khất thực trở về đi đến Thế Tôn, sau khi đi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, ngồi một bên, các Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
- Nay các người ở Sàvatthi khi
thấy các Tỷ-kheo... họ đoạt mạng sống của nữ nhân này.
- Này các Tỷ-kheo, tiếng đồn này
sẽ không còn tồn tại lâu dài, chỉ có một tuần thôi, sau một tuần sẽ
biến mất.
Này các Tỷ-kheo, những ai thấy Tỷ-kheo...
bức não, các Thầy hãy chỉ trích lại với bài kệ này:
8. Ai nói lời không thật,
Phải đi đến địa ngục,
Ai có làm lại nói
Việc ấy tôi không làm,
Cả hai sau khi chết,
Sẽ đồng đẳng như nhau.
Họ là những hạng người,
Làm các hạnh hạ liệt,
Trong một đời sống khác.
Rồi các Tỷ-kheo ấy sau khi học
thuộc lòng bài kệ này từ nơi Thế Tôn, nếu có những người thấy các
Tỷ-kheo với những lời không tốt, ác độc, mắng nhiếc, mạ lyﬠphỉ báng,
bức não, các vị liền chỉ trích lại với bài kệ này: "Ai nói lời
không thật... Trong một đời sống khác ", những người suy nghĩ như
sau: "Các Thích tử Sa-môn không có phạm tội. Sự việc ấy không phải
do họ làm. Các Sa-môn Thích tử này đã thề như vậy." Và lời nói
ấy không có lâu dài, lời nói ấy chỉ có tồn tại có một tuần, sau một
tuần được biến mất. Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi một bên, ngồi một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, thật là khéo nói, lời
này của Thế Tôn: "Này các Tỷ-kheo, tiếng đồ này sẽ không tồn tại
lâu dài, chỉ có một tuần thôi, sau một tuần sẽ biến mất". Bạch
Thế Tôn, tiếng đồn ấy đã biến mất.
Rồi Thế Tôn sau khi rõ biết ý nghĩa
này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
9. Người không biết chế ngự,
Với lời đâm người khác,
Giống như voi bị đâm,
Khi tham gia chiến trận.
Nghe những lời thô ác,
Tỷ-kheo hãy chịu đựng,
Giữ gìn không nói lên,
Tâm không có hiềm hận.
(IX) (Ud 45)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha,
tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ Tôn giả Upasena
Vangantaputta trong khi độc cư thiền định, ý nghĩa như sau được khởi
lên: "Thật lợi ích thay cho ta, thật khéo lợi ích thay cho ta, bậc Đạo
sư của ta, bậc Thế Tôn của ta là bậc A-la-hán, Chánh-Đẳng-Giác. Chúng
ta được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, trong Pháp Luật
khéo nói. Các vị đồng Phạm hạnh với ta là những người có giới, theo
thiện pháp. Chúng ta là những người làm đầy đủ trong giới luật. Chúng
ta có thiền định. Chúng ta có nhất tâm, là bậc A-la-hán, đoạn tận các
lậu hoặc, chúng ta có đại thần lực, đại uy lực. Hiền thiện là mạng
sống của ta. Hiền thiện là sự chết của ta."
Rồi Thế Tôn với tâm của mình,
biết được tâm của Tôn giả Upasena Vangantaputta, ngay trong lúc ấy
nói lên lời cảm hứng:
10. Ai sống không nhiệt não
Khi chết không sầu muộn,
Bậc trí nếu thấy đường
Giữa sầu, không sầu muộn,
Tỷ-kheo đoạn hữu ái,
Tâm tư được an tịnh,
Luân hồi sanh tử tận,
Vị ấy không tái sanh.
(X) (Ud 46)
Như vậy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ,
Tôn giả Sàriputta ngồi xa Thế Tôn không bao nhiêu, ngồi kiết-già, lưng
thẳng, quán sát sự an tịnh của mình. Thế Tôn thấy Tôn giả Sàriuptta,
ngồi xa Thế Tôn không bao nhiêu, ngồi kiết-già, lưng thẳng, quán sát sự
an tịnh của mình.
Rồi Thế Tôn sau khi biết ý nghĩa
này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
11. Tỷ-kheo tâm an tịnh,
Chặt đứt dây sanh tử,
Luân hồi sanh tử tận,
Thoát khỏi ma trói buộc.
- Chương
Năm
(I) (Ud 47)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Veluvana, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, vua Pasenadi
nước Kosala có mặt với hoàng hậu Mallikà trên lầu thượng của
hoàng cung, rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với hoàng hậu Mallikà:
- Này Mallikà có ai khác thân
ái với hoàng hậu hơn là tự ngã của Hoàng hậu?
- Thưa Đại vương, không có khác
thân ái với thiếp hơn là tự ngã của thiếp. Nhưng thưa Đại vương, có
ai khác thân ái với Đại vương hơn là tự ngã của Đại vương?
- Này Mallikà, không có ai
khác thân ái với ta hơn là tự ngã của ta.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala
bước xuống lầu và đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bê. Ngồi xuống một bên, vua Pesenadi nước Kosala
bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con đi lên
lầu thượng của hoàng cung với Hoàng hậu Mallikà và con nói với
Hoàng hậu Mallikà: "Này Mallikà, có ai khác thân ái với Hoàng hậu
hơn là tự ngã của Hoàng hậu?".
Khi được nói như vậy, bạch Thế
Tôn, Hoàng hậu Mallikà trả lời với con: "Thưa Đại vương, không
có ai khác thân ai với Thiếp hơn là tự ngã của Thiếp. Nhưng thưa Đại
vương, có ai khác thân ái với Đại vương hơn là tự ngã của Đại
vương? " Được nói vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời cho Hoàng hậu Mallikà:
Này Mallikà, không có ai khác thân ái với ta hơn là tự ngã của
ta".
Rồi Thế Tôn, sau khi biết rõ ý
nghĩa này trong lúc ấy liền nói lên bài kệ này:
1. Tâm ta đi cùng khắp,
Tất cả mọi phương trời,
Cũng không tìm thấy được,
Ai thân ai tự ngã,
Tự ngã đối mọi người,
Quá thân ái như vậy,
Vậy ai yêu tự ngã,
Chớ hại tự ngã người.
(II) (Ud 48)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, chỗ khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Tôn giả Ananda,
vào buổi chiều, từ thiền định đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi một bên. Ngồi một bên, Tôn giả Ananda
bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn. Thật hi hữu thay, bạch Thế Tôn. Thọ mạng ít thay, bạch Thế Tôn,
là mẹ của Thế Tôn! Sau khi sanh Thế Tôn bảy ngày, mẹ Thế Tôn mệnh
chung, được sanh ở cõi trời Đâu-suất".
- Chính là như vậy, này Ananda!
Thọ mạng ít thay là mẹ vị Bồ Tát. Sau khi sanh Thế Tôn bảy ngày, mẹ
Thế Tôn mệnh chung, được sanh ở cõi trời Đâu suất! Thọ mạng ít thay
là các bà mẹ của các Bồ Tát. Sau khi sanh bảy ngày, các bà mẹ của Bồ-tát
mệnh chung, và được sanh lên cõi trời Đâu suất.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu rõ ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời kệ:
2. Tất cả hữu tình nào,
Sẽ có mặt ở đời,
Tất cả chúng sẽ đi,
Sau khi bỏ sắc thân,
Hiểu tất cả là vậy,
Bậc thiện sanh nhiệt tâm,
Sống đời sống Phạm hạnh.
(III) (Ud 49)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagha,
Veluvana, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, một người
bị bệnh hủi tên là Suppabuddha, nghèo đói, ăn xin, khốn cùng. Lúc bấy
giờ, Thế Tôn với đại chúng đoanh vây, đang ngồi thuyết pháp. Người hủi
Suppabuddha thấy từ đàng xa đại chúng đang tụ hội, thấy vậy liền
suy nghĩ: "Không nghi ngờ gì nữa, ở đấy, có thể có chia phần cái
gì ăn được, loại cứng hay loại mềm. Vậy ta hãy đi đến đại chúng
ấy, mong rằng ta sẽ được chút gì ăn được, loại cứng hay loại mềm".
Rồi người hủi Suppabuddha đi đến đại chúng ấy.
Người hủi Suppabuddha thấy
Thế Tôn đang thuyết pháp cho đại chúng đang đoanh vây xung quanh, thấy vậy
liền suy nghĩ: "Ở đây không có cái gì ăn được, loại cứng hay loại
mềm để chia phần. Sa-môn Gotama này đang thuyết pháp cho hội chúng.
Vậy ta hãy nghe pháp". Tại đấy, người hủi ngồi xuống và nghĩ:
"Ta sẽ nghe pháp".
Rồi Thế Tôn, với tâm của mình
duyên với tâm của toàn thể hội chúng tác ý rằng: "Ở đây, ai có
thể hiểu được pháp". Thế Tôn thấy người hủi Suppabuddha đang
ngồi trong hội chúng, thấy vậy liền suy nghĩ: "Ở đây, ngưòi này
có thể hiểu pháp".
Vì người hủi Suppabuddha, Thế
Tôn tuần tự thuyết pháp, tức là thuyết bố thí, thuyết về trì giới,
thuyết về thiên giới, thuyết về sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự ô nhiễm
cuả các dục, sự lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết tâm của người
hủi Suppabuddha đã sẵn sàng, đã nhu thuận không còn chướng ngại,
được phấn khởi, được tín thành, liền thuyết pháp mà chư Phật đã
chứng ngộ, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Cũng như tấm vải thuần bạch,
được gội rửa các vết đen, sẽ rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy chính
tại chỗ ngồi này, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên trong tâm người hủi
Suppabuddha: "Phàm cái gì được khơi lên tất cả đều bị đoạn
diệt". Khi ấy người hủi Suppabuddha thấy pháp, chúng pháp, ngộ
pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, chứng được
tự tín, không y cứ nơi người đối với lời dạy của đức Bổn Sư, từ
chỗ ngồi đứng dậy đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn,
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người hủi Supabuddha bạch
Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những
gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho
người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có
mặt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều
phương tiện trình bày, giải thích, Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn,
quy y Pháp, quy y chúng Tỳ-kheo, mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay
cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Rồi người hủi Suppabuddha được
Thế Tôn với bài pháp thoại thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn chấn,
làm cho hoan hỷ, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Rồi một con bò húc vào người hủi
Suppabuddha và đoạt mạng sống. Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn,
sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, người hủi tên Suppabuddha
được Thế Tôn với bài pháp thoại thuyết giảng,, khích lệ, làm cho
phấn khởi, làm cho hoan hỷ đã mạng chung. Sanh thú của vị ấy là gì? Tương
lai của vị ấy thế nào?
- Này các Tỷ-kheo, Hiền trí là người
hủi Suppabuddha, đã thực hành tuỳ pháp đúng pháp, không có làm phiền
nhiễu Ta với những tranh luận về pháp. Người hủi Suppabuddha sau
khi đoạn tận ba kiết sứ, đã chứng được quả Dự lưu, không còn bị
thối đọa, chắc chắn đạt được Chánh giác.
Khi nghe nói vậy một Tỷ-kheo bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn do nhân gì, do
duyên gì, người hủi Suppabuddha lại là người nghèo đói, là người
ăn xin, là người khốn cùng?
- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, người
hủi Suppabuddha là con một nhà triệu phú ở Ràjagaha khi đi ngang qua một
khu vườn, vị ấy thấy đức Phật Độc giác Tagarasikhi đang đi vào
thành khất thực. Thấy vậy, vị ấy suy nghĩ: "Ai là người hủi này
lại đi dạo chơi " và vị ấy nhổ nước miếng và xây lưng phía
trái rồi bỏ đi. Do hành động này của vị ấy được thuần thục, nhiều
năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, vị ấy bị nấu
trong địa ngục. Do sự thanh thục thêm nữa của nghiệp ấy, chính tại Ràjagala
này, vị ấy là một người nghèo đói, là người ăn xin, là người khốn
cùng! Nay vị ấy do y cứ vào pháp luật được Như Lai thuyết giảng, vị
ấy được lòng tin, vị ấy được giới, vị ấy được nghe pháp, vị
ấy được từ bỏ, vị ấy được trí tuệ, sau khi thân hoại mạng chung,
vị ấy được sanh thiện thú, thiên giới, đời này, được cộng trú với
chư Thiên ở cõi Ba mươi ba. Tại đấy, vị ấy chói sáng hơn các chư Thiên
khác về dung sắc và danh xưng.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
3. Như người có mắt nhìn,
Cố gắng tránh lồi lõm,
Cũng vậy kẻ trí tránh,
Điều ác giữa đời này.
(IV) (Ud 50)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều
thiếu niên giữa Sàvatthi và Jetavana, đang hành hạ các con cá.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Sàvatthi để khất
thực. Thế Tôn thấy nhiều thiếu niên giữa Sàvatthi và Jetavana
đang hành hạ các con cá, thấy vậy đi đến các thiếu niên ấy, sau khi đến
nói với chúng:
- Này các Thiếu niên, các Em có sợ
đau khổ không? Các Em không ưa thích khổ phải không?".
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn, chúng
con sợ đau khổ. Chúng con không ưa thích khổ.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
4. Nếu con không ưa khổ,
Dầu bất cứ chỗ nào,
Chớ làm các nghiệp ác,
Trước mặt hay sau lưng
Nếu Con làm, sẽ làm,
Các nghiệp ác, bất thiện,
Con không giải thoát khổ,
Dầu nhảy vọt và chạy.
(V) (Ud 51)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Dubbarà, trong lầu mẹ của Migàra. Lúc bấy giờ Thế Tôn,
vào ngày trai giới đang ngồi có chúng Tỷ-kheo đoanh vây. Rồi Tôn giả Ananda,
sau khi đêm đã gần mãn, canh một sắp qua, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp
y vào một bên vai, chắp tay hướng dẫn đến Thế Tôn, và Bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần
mãn, canh một đã sắp qua, chúng Tỷ-kheo ngồi đã lâu. Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn hãy thuyết giới bổn Pàtimokkha cho chúng Tỷ-kheo.
Khi được nói vậy, Thế Tôn giữ
im lặng. Lần thứ hai, Tôn giả Ananda, khi đêm đã gần mãn, canh giữa
đã sắp qua. Chúng Tỳ-kheo ngồi đã lâu. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết
giới bổn Pàtimokkha cho chúng Tỷ-kheo.
Lần thứ hai, Thế Tôn giữ im lặng.
Lần thứ ba, Tôn giả Ananda, khi đêm đã gần mãn, canh cuối đã sắp
qua, rạng đông đã ló dạng đêm đã nở nụ cười, từ chỗ ngồi đứng
dậy, đắp y vào một bên vai, chắp tay hướng dẫn đến rồi bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần
mãn, canh cuối đã sắp qua, rạng đông đã ló dạng, đêm đã nở nụ cười,
chúng Tỷ-kheo ngồi đã lâu. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết giới Pàtimokkha
cho chúng Tỷ-kheo.
- Này Ananda, hội chứng không
thanh tịnh. Rồi Tôn giả Mahà Moggallàna suy nghĩ: "Vì người nào
mà Thế Tôn nói: 'Này Ananda, hội chúng này không thanh tịnh'?" Rồi
Tôn giả Mahà Moggallàna với tâm của mình tác ý đến tâm toàn thể
chúng Tỷ-kheo. Tôn giả Mahà Moggallàna thấy một người ác giới,
theo ác pháp, không thanh tịnh, sở hành đáng nghi ngờ, hành động được
che đậy, không phải Sa-môn tự xưng là Sa-môn, không theo Phạm hạnh tự xưng
là Phạm hạnh, nội tâm hủ hóa, đầy ứ dục vọng, một đống rác ô uế
đang ngồi giữa chúng Tỷ-kheo, thấy vậy từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến
người ấy, sau khi đến nói với người ấy:
- Hiền giả hãy đứng dậy, Thế Tôn
đã thấy Hiền giả. Hiền giả không được cộng trú với chúng Tỷ-kheo.
Người ấy giữ im lặng. Lần thứ
hai, Tôn giả Moggallàna nói với người ấy:
- Hiền giã hãy đứng dậy. Thế Tôn
đã thấy Hiền giả. Hiền giả không được cộng trú với chúng Tỷ-kheo.
Lần thứ hai, người ấy im lặng.
Lần thứ ba, Tôn giả Mahà Moggallàna. Lần thứ ba, Hiền giả ấy im
lặng. Rồi Tôn giả Mahà Moggallàna nắm tay người ấy, dắt tay khỏi
ngoài cửa, gài then cửa lại, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Hiền giả ấy đã
bị con đuổi ra rồi. Hội chúng nay thanh tịnh Bạch Thế Tôn. Thế Tôn
hãy thuyết giảng giới bổn Pàtimokkha cho chúng Tỷ-kheo.
- Thật vi diệu thay, Moggallàna!
Thật hy hữu thay, Moggallàna! Cho đến khi bị cầm tay, người ngu si mới
đi ra.
Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, bắt đầu từ
nay Ta sẽ không làm Uposastha nữa, Ta sẽ không tụng đọc giới bổn Pàtimokkha
nữa. Bắt đầu từ nay, các Thầy hãy làm Uposastha, các Thầy hãy tụng
đọc giới bổn. Sự kiện không có được. Này các Tỷ-kheo, cơ hội không
có được là Như Lai có thể làm Uposastha với hội chúng không thanh
tịnh, có thể đọc giới bổn. Này các Tỷ-kheo, biển lớn có tám pháp vi
diệu hy hữu này, do thấy chúng như vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
Thế nào là tám?
Này các Tỷ-kheo, biển lớn tuần tự
xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như
một vực thẳm. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, biển lớn tuần tự thuận
xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như
một vực thẩm. Này các Tỷ-kheo, đây là sự vi diệu, chưa từng có thứ
nhất. Do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
Lại nữ, này các Tỷ-kheo, biển lớn
đứng một chỗ, không có vượt qua bờ. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, biển
lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ. Này các Tỷ-kheo, đây là sự
vi diệu chưa từng có thứ hai. Do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích
thú biển lớn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, biển lớn
không có chứa chấp xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức
bị quăng trên bờ hay vất lên đất liền. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, biển
lớn không có chứa chấp xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập
tức bị quăng lên bờ hay vất lên đất liền. Này các Tỷ-kheo, đây là
vi diệu chưa từng có thứ ba. Do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích
thú biển lớn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, phàm
có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciravati,
sông Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển liền bỏ tên họ cũ,
trở thành biển lớn. Vì rằng phàm có con sông lớn nào, ví như sông Hằng,
trở thành biển lớn. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu thứ tư.. thích
thú biển lớn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo phàm có
những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước
mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển lớn được thấy có giảm
tăng. Ncác Tỷ-kheo vì rằng, phàm có dòng nước gì ở đời chảy vào
biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy
mà biển lớn được thấy có giảm tăng. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu
chưa từng có thứ năm.. thích thú biển lớn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, biển lớn
chỉ có một vị là vị mặn. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu, chưa từng
có thứ sáu... thích thú biển lớn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, biển lớn
có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này
như trân châu, ma ni châu, lưu ly, xa-cừ, ngọc bích, san-hô, bạc, vàng, ngọc
đỏ, mã não. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, biển lớn có nhiều châu báu, nhiều
loại châu báu, ở đấy có những loại châu báu này như trân châu, ma-ni
châu, lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não. Này
các Tỷ-kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ bảy... thích thú biển lớn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, biển lớn
là trú xứ các loài sinh vật lớn. Tại đây có những sinh vật này như các
con timi, timingalà, timiramingalà. Những loại A-tu-la, các loại Nàgà,
các loại Gandhabhà. Trong biển lớn có các loại hữu tình dài một
trăm do-tuần, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm do-tuần. Vì rằng, này
các Tỳ-kheo, biển lớn là trú xứ các sanh vật lớn... Năm trăm do tuần,
này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu chư từng có thứ tám. Do thấy vậy, các
A-tu-la thích thú biển lớn.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có tám
pháp, vi diệu chưa từng có trong Pháp và Luật này, do thấy chúng, thấy
chúng, các Tỳ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này. Thế nào là tám?
Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn
tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không
có thình lình như một vực thẳm. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, trong Pháp và
Luật này, các học pháp và tuần tự, các quả dị thục là tuần tự,
các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí, thình
lình. Này Paharada, vì rằng trong Pháp và Luật này, các học pháp là tuần
tự, các quả dị thực là tuần tự, các con đường là tuần tự, không
có sự thể nhập chánh trí thình lình. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu
chưa từng có thứ nhứt. Do thấy vậy, thấy vậy, Tỷ-kheo thích thú trong
Pháp và Luật này.
Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn
đứng một chỗ không có vượt qua bờ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi
các học pháp được Ta sửa soạn cho các đệ tử, các đệ tử của Ta, dầu
cho vì nhân sinh mạng, cũng không vượt qua. Này các Tỷ-kheo, vì rằng các
học pháp được Ta sửa soạn cho các đệ tử, các đệ tử của Ta, dầu
cho vì nhân sinh mạng, cũng không vượt qua. Này các Tỷ kheo trong Pháp và
Luật này, đây là Pháp vi diệu chưa từng có thứ hai. Do thấy vậy, thấy
vậy, Tỷ-kheo thích thú, trong Pháp và Luật này.
Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn
không có chứa chấp xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức
bị quăng trên bờ hay vất lên đất liền. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, người
nào là ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh đáng nghi ngờ, có những
hành vi che đậy, không phải là Sa-môn nhưng tự nhận là Sa-môn, không sống
Phạm hạnh nhưng tự nhận là có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy
tham dục, tánh tình bất định. Chúng Tăng không sống chung với người ấy,
lập tức hội họp lại và đuổi người ấy ra khỏi. Dầu cho người ấy
có ngồi giữa chúng Tỷ-kheo tăng, nhưng người ấy sống xa chúng Tăng và
chúng Tăng sống xa người ấy. Vì rằng này các Tỷ-kheo, người ấy là
ác giới, theo ác pháp... tánh tình bất định... và chúng Tăng sống xa vị
ấy. Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng
có thứ ba. Do thấy vậy, thấy vậy, Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật
này.
Ví như, này các Tỷ-kheo, phàm có
các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciracati,
sông Sarabhù, sông Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền
bỏ tên họ trước, trở thành biển lớn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có
bốn giai cấp này: Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà, sau khi từ bỏ
gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Như Lai
tuyên bố sau này, chúng từ bỏ tên và họ của chúng từ trước, và
chúng trở thành những Sa môn Thích tử. Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật
này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ tư. Do thấy vậy, thấy vậy,
Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và luật này.
Ví` như, này các Tỷ kheo, phàm có
những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước
mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy mà biển lớn có giảm tăng.
Cũng vậy này các Tỷ Kheo, nếu có những vị Tỷ kheo nhập vào Niết Bàn
giới, không có dư y, Niết bàn giới cũng không vì vậy được thấy có giảm
tăng. Này các Tỳ Kheo, nếu có nhiều vị Tỷ kheo nhập vào Niết Bàn giới
không có dư y, Niết bàn giới cũng không vì vậy, được thấy có giảm tăng.
Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, đây là vi diệu thứ năm. Do thấy
vậy, thấy vậy, Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và luật này.
Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn
chỉ có một vị là vị mặn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, pháp này cũng chỉ
có một vị là vị giải thoát. Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này,
đây là vi diệu chưa từng có thứ sáu. Do thấy vậy, thấy vậy, Tỷ-kheo
thích thú trong Pháp và Luật này.
Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn
có nhiều châu báu, ở đấy có những châu báu này, như trân châu, ma-ni
châu, lưu-ly, xà-cừ, ngọc bích, san-hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã-não. Cũng
vậy này các Tỷ-kheo, Pháp và Luật này có nhiều châu báu, nhiều loại
châu báu, ở đấy có những loại châu báu này, như Bốn niệm xứ, Bốn
chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi, Thánh đạo tám
ngành. Này các Tỷ-kheo, vì rằng Pháp và Luật này có nhiều châu báu này
như Bốn niệm xứ... Thánh đạo tám ngành. Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và
Luật này, đây là vi diệu chưa từng có thứ bảy. Do thấy vậy, thấy vậy,
các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn
là trú xứ các loại sinh vật lớn, tại đấy có những sinh vật như các
con timi, timigalà, timiramingalà, những loại Asurà, các loài Nàgà,
các loài Gandhabbà. Trong biển lớn có các loài hữu tình dài một trăm, hai
trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm do-tuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Pháp và Luật này là trú xứ của các loại sinh vật lớn. Ở đấy có những
sinh vật này. Bậc Dự lưu, bậc đã hướng đến chứng ngộ Dự lưu quả;
bậc Nhất lai, bậc đã hướng đến chứng Bất lai quả; bậc A-la-hán, bậc
đã hướng đến chứng ngộ quả A-la-hán. Này các Tỷ-kheo, vì rằng Pháp
và Luật này là trú xứ của các sinh vật lớn. Ở đấy có những sinh vật
này.. quả A-la-hán.
Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật
này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ tám. Do thấy vậy, thấy vậy,
các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám pháp
vi diệu, chưa từng có trong Pháp và Luật này, do thấy vậy, thấy vậy,
các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong khi ấy, nói lên lời cảm hứng:
5. Che kín, trời có mưa,
Mở rộng, trời không mưa,
Do vậy, hãy mở rộng
Cái gì bị che kín,
Như vậy sẽ không mưa.
(VI) (Ud 57)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàatthi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Mahàkaccàna trú ở giữa dân chúng Avantiụ, gần Kuraraghara,
trên ngọn núi tên Pavatta. Lúc bấy giờ nam cư sĩ Sona Kotikanna là thị
giả của Tôn giả Mahàkaccàna. Rồi nam cư sĩ Sona Kotikanna trong
khi độc cư thiền định, tư tưởng như sau được khởi lên: "Như Tôn
giả Mahàkaccàna thuyết pháp, thật không dễ dàng cho một người sống
trong gia đình có thể thực hành một cách viên mãn Phạm hạnh thuần tịnh,
trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất
gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Nam cư sĩ Sona Kotikanna
đi đến Tôn giả Mahàkaccàna, sau khi đến đảnh lễ Tôn giả rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Sona Kotikanna
thưa Tôn giả Mahàakaccàna.
- Thưa Tôn giả, ở đây trong khi
con độc cư thiền tịnh... sống không gia đình. Thưa Tôn giả, Tôn giả
hãy cho con xuất gia.
Nghe nói vậy, Tôn giả Mahàkaccàna
nói với nam cư sĩ Sona Kotikanna:
- Này Sona, thật khó thay đời
sống Phạm hạnh, ăn một bữa ăn, nằm một mình cho đến trọn đời. Này
Sona, tại đây hãy sống trong gia đình, chú tâm vào lời dạy của chư
Phật, tạm thời hiện tại sống Phạm hạnh, ăn một ngày một bữa, nằm
ngủ một mình. Như vậy lòng ham muốn xuất gia của nam cư sĩ Sona Kotikanna
được giảm nhẹ bớt.
Lần thứ hai, trong khi độc cư thiền
định... sống không gia đình. Lần thứ hai nam cư sĩ Sona Kotikanna đi
đến Tôn giả Mahàkaccàna..."... Hãy cho con xuất gia". Lần thứ
hai, Tôn giả Mahàkaccàna nói với nam cư sĩ Sona Kotipanna:
- Này Sona, thật khó thay... được
giảm nhẹ bớt. Lần thứ ba, nam cư sĩ Sona Kotikanna trong khi độc cư thiền
định... sống không gia đình.
Lần thứ ba, nam cư sĩ Sona
Kotikanna đi đến Tôn giả Mahàkaccàna và thưa "... Hãy cho con
xuất gia". Rồi Tôn giả Mahàkaccàna cho nam cư sĩ Sona Kotikanna xuất
gia. Lúc bấy giờ, tại Avantisudakhhinàpatha, có ít Tỷ-kheo. Rồi Tôn
giả Mahàkaccàna, sau ba kỳ an cư mùa mưa, một cách khó khăn, một cách
mệt nhọc tụ tập được một nhóm mười Tỷ-kheo và trao Đại giới cho
Tôn giả Sona.
Tôn giả Sona sau khi an cư mùa
mưa cô độc thiền tịnh, tư tưởng sau đây được khởi lên: "Ta chưa
được thấy tận mắt Thế Tôn, tuy rằng ta có nghe Thế Tôn là vị như vậy,
như vậy. Nếu vị Giáo thọ sư của ta cho phép ta sẽ đi đến yết kiến
Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác". Rồi Tôn giả Sona vào buổi
chiều từ độc cư thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahàkaccàna,
sau khi đảnh lễ Tôn giả Mahàkacàna rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên Tôn giả Sona thưa với Tôn giả Mahàkaccàna:
- Thưa Tôn giả, trong khi con độc
cư thiền tịnh, tư tưởng sau đây được khởi lên: "Ta chưa được
thấy tận mặt Thế Tôn... Chánh Đẳng Giác".
- Lành thay, lành thay Sona! Hãy
đi này Sona, để yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh-Đẳng-Giác.
Này Sona, người sẽ thấy Thế Tôn khả ái, khởi dậy lòng tin, các căn an
tịnh, tâm ý thanh tịnh, đã đạt được an chỉ chế ngự tối thượng, bậc
long tượng được điều phục, hộ trì, các căn nhiếp phục. Sau khi thấy,
hãy nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh,
ít não nhẹ nhàng, khoẻ mạnh, an ổn không!.
- Thưa vâng, Tôn giả.
Tôn giả Sona hoan hỷ tín thọ
lời dạy của Tôn giả Mahàkaccàna, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ Tôn giả Mahàkaccàna, thân bên hữu hướng về Tôn giả dọn dẹp
sàng tọa, cầm y bát bộ hành hướng về Tôn giả dọn dẹp sàng tọa, cầm
y bát bộ hành hướng đến Sàvatthi, tiếp tục bộ hành đi đến Sàvatthi,Jetavana,
khu vườn ông Anàthapindika, đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sona bạch
Thế Tôn:
- Bậc giáo thọ sư của con, bạch
Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ, hỏi thăm... có an ổn không?
- Này Tỷ-kheo, Thầy có kham nhẫn
được không? Thầy có sống dễ dàng không? Đi đường đến đây có mệt
mỏi không? Khất thực có mệt mỏi không?
- Bạch Thế Tôn, con có thể kham nhẫn!
Bạch Thế Tôn, con có thể sống dễ dàng. Bạch Thế Tôn, con đi đường
không có mệt nhọc! Khất thực không có mệt nhọc.
Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy sửa soạn
sàng tọa cho Tỷ-kheo mới đến này.
Tôn giả Ananda suy nghĩ:
"Thế Tôn bảo ta: "Này Ananda, hãy sửa soạn sàng tọa cho Tỷ-kheo
mới đến này". Như vậy Thế Tôn muốn ở chung một chỗ với Tỷ-kheo
ấy. Như vậy Thế Tôn muốn ở chung với Tôn giả Sona ấy". Nên
chỗ nào Thế Tôn ở, tại chỗ ấy Tôn giả Ananda sửa soạn sàng tọa
cho Tôn giả Sona. Rồi Thế Tôn, sau khi ngồi ở ngoài trời đã quá
khuya, rửa chân và đi vào tịnh xá. Tôn giả Sona, sau khi ngồi ngoài
trời đã quá khuya, rửa chân và đi vào Tịnh xá. Rồi Thế Tôn, khi đêm
đã gần sáng, thức dậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Sona:
- Hãy nói pháp cho các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Sona vâng đáp Thế
Tôn, đọc thuộc lòng mười sáu phần của phẩm tám một cách đầy đủ.
Rồi Thế Tôn, sau khi Tôn giả Sona chấm dứt tụng đọc của mình,
Thế Tôn cám ơn và nói:
- Lành thay, lành thay Tỷ-kheo! Tỷ-kheo
đã khéo nắm giữ, khéo tác ý, khéo thọ trì toàn bộ mười sáu phần
trong phẩm thứ tám. Người được đầy đủ thiện ngôn, minh bạch, phát
ngôn rõ ràng, ý nghĩa minh xác. Này Tỷ-kheo, Thầy có bao nhiêu tuổi an cư
mùa mưa?
- Bạch Thế Tôn, con có một tuổi
an cư mùa mưa.
- Này Tỷ-kheo, vì sao Thầy lại để
chậm như thế?
- Bạch Thế Tôn, đã lâu con thấy
sự nguy hại trong các dục, sự bó buộc của đời sống gia đình, nhiều
phận sự, nhiều công việc phải làm.
Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa
này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
6. Thấy nguy hại ở đời,
Biết pháp không sanh y,
Bậc Thánh không ưa ác,
Bậc tịnh không ưa ác!
(VII) (Ud 58)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ,
Tôn giả Kankharevata ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết-già,
lưng thẳng, tự mình quán sát sự thanh tịnh do vượt qua được nghi ngờ.
Thế Tôn thấy Tôn giả Kankharevata ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết-già,
lưng thẳng tự mình quán sát sự thanh tịnh do vượt qua được nghi ngờ.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
7. Phàm những nghi hoặc gì,
Đời này hay đời sau,
Tự mình chưa cảm thọ,
Hay người khác cảm thọ,
Người hành thiền từ bỏ,
Hoàn toàn tất cả chúng,
Nhiệt tâm hành Phạm hạnh.
(VIII) (Ud 59)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha,
tại Veluvana chỗ nuôi các con sóc. Lúc bấy giờ, Tôn giả Ananda
trong ngày trai giới, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Ràjagaha
để khất thực. Devadatta thấy Tôn giả Ananda đi khất thực
ở Ràjagaha, sau khi thấy, đi đến Tôn giả Ananda và nói với
Tôn giả Ananda.
- Bắt đầu từ hôm nay, Hiền giả
Ananda, ta sẽ làm lễ trai giới và sẽ tác thành các tăng sự, khác với
Thế Tôn, khác với chúng Tỷ-kheo.
Tôn giả Ananda, sau khi đi khất thực
ở Ràjagaha, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn,
sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Tôn giả Ananda bạch Theá Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con vào
buổi sáng đắp y, cầm bát, vào Ràjagaha để khất thực. Bạch Thế
Tôn, Devadatta thấy con đi khất thực ở Ràjagaha, thấy vậy liền
đi đến con và nói: "Bắt đầu từ hôm nay, Hiền giả Ananda..
khác với chúng Tỷ-kheo!". Hôm nay, bạch Thế Tôn, Devadatta sẽ
phá hòa hợp Tăng, làm lễ trai giới và hành các tăng sự.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
8. Dễ làm là việc lành,
Đối với kẻ làm lành;
Khó làm là việc ác,
Đối với kẻ làm lành;
Dễ làm là việc ác,
Đối với kẻ làm ác,
Đối với các bậc Thánh.
(IX) (Ud 60)
Như vậy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn bộ hành giữa
dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Lúc bấy giờ, nhiều
thanh niên Bà-la-môn, không xa Thế Tôn bao nhiêu, dùng những lời nhiếc mắng
vượt đà quá xa. Thế Tôn thấy nhiều thanh niên, không xa bao nhiêu, dùng
những lời nhiếc mắng, vượt đà quá xa.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý
nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
9. Lời nói của kẻ trí,
Khi bối rối luống cuống,
Rơi vào nhiều đề tài,
Nhiều lãnh vực sai khác,
Họ muốn miệng mở rộng,
Cái gì dắt dẫn họ,
Họ đâu có biết rõ.
(X) (Ud 61)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Cùlapanthaka ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già, lưng thẳng
để niệm trước mặt. Thế Tôn thấy Tôn giả Cùlapanthaka ngồi
không xa bao nhiêu, ngồi kiết già, lưng thẳng để niệm trước mặt.
Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa
này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
10. Với thân, tâm an trú,
Đứng, ngồi hay nằm xuống,
Tỷ-kheo an trú niệm,
Trước sau được thù thắng,
Trước sau được thù thắng,
Vượt tầm mắt ác ma.
Giới thiệu
| [1-3] | [4-5]
| [6-8]