-
BA
MƯƠI BA VỊ TỔ ẤN-HOA
H.T Thích Thanh Từ
soạn dịch
Tu Viện
Chơn Không 1971
Thành Hội
Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành - PL. 2534 - 1990
ẤN ĐỘ
1. Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp (Mahakasyapa)
Đồng
thời đức Phật
Ngài dòng Bà-la-môn (Brahmana)
ở nước Ma-Kiệt-Đà, cha tên Ẩm-Trạch, mẹ tên Hương-Chí. Thuở bé,
Ngài dung nghi trang nhã, toàn thân màu vàng, ánh sáng chiếu rất
xa. Thầy tướng xem tướng ngài nói:
─ Đứa bé nầy đời trước có
phước đức thù thắng, lẽ ưng xuất gia
Cha mẹ Ngài nghe nói lo
sợ,cùng nhau thầm bàn (sẽ cưới vợ đẹp để làm nhụt chí của nó).
Vừa lớn lên, cha mẹ liền lo chọn người lập gia thất cho ngài,
nhưng ngài một bề từ chối, sau cùng bất đắc dĩ ngài phải nói:
─ Có người con gái nào thân
đồng màu sắc như con, con mới ưng cưới.
Cha mẹ ngài bèn đúc một
tượng vàng, đẩy đi khắp trong nước, tìm người nữ nào giống màu
sắc ấy, cưới cho ngài. Quả nhiên, gặp được một cô con gái giống
hệt như ngài, thế là ngài phải lập gia đình
Bởi đời đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipasyin),
sau khi Phật Niết-bàn, chúng xây tháp thờ Xá-lợi, trong tháp có
an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày pho tượng trên mặt
bị lở khuyết. Khi ấy, ngài ca-diếp là thợ đúc vàng, có cô gái
nhà nghèo, vì thấy mặt Phật hư khuyết, cô còn một đồng tiền vàng
đem đến nhờ Ngài ca-diếp nấu ra để phết lại tượng Phật.Thấy cô
phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoan hỷ đứng ra làm chu tất
việc nầy, nhơn đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ làm vợ chồng,
mà coi như đôi tri-kỷ, chớ không vì tình dục.
Do phước báo đó nên 91 kiếp
thân thể hai vị đều toàn một màu vàng. Sau sanh cõi Phạm-thiên,
hết phước cõi Phạm-thiên chết, sanh về cõi nầy trong nhà
Bà-là-môn giàu có hiện tại. Tuy hiện nay hai vị làm vợ chồng, mà
sống như tình tri-kỷ, không có ý dâm dục.
Đến sau, cả hai đều xin cha mẹ xuất gia. Cha mẹ bằng lòng,ngài
liền xuất gia làm Sa-môn vào núi tu hạnh Đầu-đà (Dhuta). Một
hôm,nhơn nghe trong hư không có tiếng bảo:
─ Phật đã ra đời, nên đến đó
thọ giáo.
Ngài liền tìm đến tịnh-xá
Trúc-Lâm, chí thành đảnh lễ Phật.
Phật bảo:
─ Lành thay Tỳ-kheo đến đây,
hãy cạo bỏ râu tóc đi.
Ngài liền cạo bỏ râu tóc,
thọ giới Tỳ-kheo, mặc y cà-sa. Từ đây, ngài theo Phật hiểu sâu
giáo Pháp, tinh tấn tu hành không lúc nào lơi lỏng, cho đến
chứng quả A-La-Hán. Có lần ngài từ xa đến ra mắt Phật. Các chúng
Tỳ kheo ngồi vây quanh Phật, trông thấy ngài mặc y bằng vải rách,
thân hình tiều tụy, có ý thầm khi. Phật biết, bèn bảo:
─ Ca-Diếp đến đây! Ta nhường
nửa tòa cho ngồi.
Ngài vẫn không dám ngồi.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
Ta có đại từ đại bi, các
thiền-định tam-muội và vô lượng công đức để tự trang nghiêm.
Tỳ-kheo Ca-Diếp cũng như thế. Do đó,ta nhường nửa tòa cho Ca-Diếp
ngồi. Chúng Tỳ-kheo đều dứt tâm ngạo mạn, lại thầm cung kính
ngài.
Hôm nọ, Phật ở trong hội
Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều
ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu ).
Phật bảo :
─ Ta có chánh Pháp nhãn tạng,
Niết-bàn diệu-tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn-tự, ngoài
giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ
chánh pháp nầy, truyền trao mãi đừng cho dứt, đến sau sẽ truyền
cho A-Nan. Thế-Tôn đến trước tháp Đa-Tử gọi Ma-Ha-Ca-Diếp đến
chia nửa tòa cho ngồi, lấy y Tăng-Già-Lê quấn vào mình Ca-Diếp,
rồi nói kệ phó pháp :
Pháp bổn pháp vô pháp
vô pháp pháp diệc pháp
Kim phó vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp.
Dịch:
Pháp gốc pháp không pháp
Pháp không pháp cũng pháp
Nay khi trao không pháp
Mỗi pháp đâu từng pháp.
Ngài già yếu, Phật nhiều lần khuyên:
─ Ca-Diếp tuổi đã già, nên ở
một chổ nhận những thức cúng dường của thí chủ, chớ đi khất thực
nhọc nhằn.
Ngài bạch Phật :
─ Con tuy già yếu, song
không dám ở một chổ thọ sự cúng dường của thí chủ. Vì sợ e sau
này, các Tỳ kheo đời sau sẽ nói :
─ Đệ tử lớn của Phật trước
kia vẫn ở một chỗ thọ sự cúng dường, rồi họ sanh phóng túng.
Lúc Phật Niết-bàn tại thành Câu-Thi-Na trong rừng Sa-La, thì
ngài đang ở trong động Tất-Bát-La (SthaviRa) trên núi Kỳ-Xà-Quật.
Nghe tin Phật Niết-bàn, ngài và 500 đệ tử vội vã hướng về thành
Câu-Thi-Na. Đến nơi, đã đễ Phật vào kim-quan, ngài buồn bã.
Thầy trò đi nhiễu kim-quan ba vòng, rồi đảnh lễ Phật. Khi ấy,
hai bàn chân Phật duỗi ra ngoài kim-quan để an ủi ngài. Ngài
vuốt ve hai bàn chân Phật, lòng rất bi thảm.
Sau khi thiêu thân Phật
xong,ngài tuyên bố với chúng Tỳ-kheo:
─ Xá-lợi của Phật giao cho
trời, người xây tháp thờ làm ruộng phước, còn trách nhiệm
Tỳ-kheo chúng ta phải lo kết tập kinh điển để lưu lại đời sau.
Ngài bèn nói kệ :
Như-Lai đệ tử
Thả mạc Niết-bàn
Đắc thần thông giả
Đương phó kiết tập
Dịch:
Đệ tử Như-Lai
Chớ vội Niết-bàn
Người được thần thông
Nên đến kiết tập .
Thế là, sau Phật Niết-bàn 7
ngày, Ngài triệu tập 500 vị đại A-La-Hán tụ hợp tại núi
Kỳ-Xà-Quật, trong động Tất-Bát-La kiết tập.nChỉ có tôn giả A-Nan
không được dự hội, vì chưa sạch các lậu, Tôn-giả A-Nan buồn bả,
suốt đêm chuyên tâm thiền-định, đến gần sáng liền chứng ngộ, các
lậu dứt sạch được quả A-La-Hán .
Sau đó,tôn giả được mời dự
hội. Ngài thưa toàn chúng:
─ Tỳ-kheo A-Nan nhớ giỏi bậc
nhất, thường theo hầu hạ Như-Lai, nghe pháp Phật nói ghi nhớ
không sót, như nước rót vào bình không rơi ngoài một giọt, nên
mời kiết-tập tạng Kinh và tạng Luận . Mời Tỳ-kheo Ưu-Ba Ly kiết
tập tạng Luật. Toàn chúng đều hoan-hỷ chấp thuận.
Hội kiết-tập nầy, Ngài là
chủ-tịch. Sau cuộc kiết tập đã viên mãn,nhơn duyên độ sanh đã
xong xuôi, Ngài thấy tuổi đã già yếu lắm, bèn gọi tôn giả A-Nan
đến bảo:
─ Khi Như-Lai sắp vào
Niết-bàn có dặn ta đem chánh pháp nhãn tạng giao phó cho ông.
Nay ta sắp ẩn, đúng lúc giao phó cho ông, ông phải khéo gìn giữ
chớ để đoạn dứt.
Ngài nhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát
của Phật đợi đến Phật Di-Lặc ra đời sẽ trao lại, nên dự bị vào
núi Kê-Túc nhập định. Liền đó, Ngài đi từ giả vua A-Xà-Thế và
những người thân thuộc, rồi vào núi Kê-Túc trải tòa cỏ ngồi an
nhiên nhập định
2. Tổ A-Nan (Ananda)
Sanh
sau Phật 30 năm
Ngài con vua Hộc-Phạn, dòng
Sát-đế-lợi, ở thành Ca-tỳ-la-vệ, em ruột Đề-bà-đạt-đa, em con
nhà chú của Phật Thích Ca. Thuở nhỏ, ngài có nhiều tướng tốt và
thông minh tuyệt vời. Đến 25 tuổi xin theo Phật xuất gia.
Một hôm, Phật cần chọn người
làm thị giả, tất cả hội chúng lần lượt đứng ra xin làm thị giả,
mà Phật không bằng lòng. Sau cùng, Tôn-giả Đại-Mục-Kiền-Liên
nhập định biết tôn ý Phật muốn A-Nan làm thị giả.
Đại chúng cử Tôn- giả
Mục-Kiền-Liên, Xá-Lợi-Phất, v, v…. đến yêu cầu Ngài làm thị giả.
Ngài nhiều lần từ chối, song các Tôn-giả một bề nài nỉ buộc lòng
Ngài phải xin Phật ba điều, nếu Phật ưng cho, Ngài mới dám làm
thị giả.
1/ Không theo Phật thọ trai
riêng, nếu thí chủ không mời ngài.
2/ Không mặc y thừa của Phật.
3/ Không đến Phật phi thời.
Thế-Tôn chẳng những chấp thuận lời xin của Ngài, mà còn khen
ngợi Ngài thông minh biết dự đoán trước những điều sẽ xẩy ra.
Thế là, Ngài theo làm thị giả Phật ngót 25 năm.
Hôm nọ, Ngài đi khất thực về
đến tịnh-xá Phật, thấy Di mẫu Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề đang đứng tựa
cửa khóc. Di mẫu quần áo bụi bặm, chân dính bùn nhơ, vẻ người bi
thảm. Ngài đến gần hỏi duyên cớ. Biết Bà từ xa tìm đến xin Phật
xuất gia, đôi ba phen năn nỉ mà Phật quyết định không cho. Ngài
cảm động, vào đảnh lễ Phật xin cho Bà được xuất gia. Phật vẫn
nhiều lần từ chối, Ngài vẫn kiên chí xin kỳ được mới thôi. Thế
là mở đầu cho phái nữ xuất gia, chính Ngài là người tích cực
khai đường vậy.
Chính đức Phật đã từng khen
Ngài:
─ Thị giả của các đức Phật
đời quá khứ, không ai hơn A-Nan, thị giả các đức Phật đời vị lai
cũng không ai hơn A-Nan.
Và Phật khen A-Nan được tám
điều chưa từng có v.v…
Sau khi Phật Niết-bàn, Tổ
Ca-Diếp triệu tập các đại Tỳ-kheo kiết tập kinh điển, Ngài là
người được toàn hội đề cử kiết tập tạng kinh… Khi sắp tụng lại
lời Phật, Ngài nhìn qua đại chúng nói kệ:
-
Tỳ-kheo chư quyến thuộc
-
Ly Phật bất trang nghiêm !
-
Du như hư không trung
-
Chúng tinh chi vô nguyệt.
Dịch:
-
Tỳ-kheo các quyến thuộc
-
Vắng Phật chẳng trang nghiêm
!
-
Ví như trong hư-không ,
-
Nhiều sao mà không trăng.
Nói kệ xong, Ngài đảnh lễ
đại chúng, lên pháp tòa mở đầu:
─ Tôi nghe như vầy, một lúc
nọ Phật ở tại xứ….nói kinh…. cho đến trời người v.v…đều kính lễ
vâng làm .
Ngài kiết tập kinh xong Tổ
Ca Diếp hỏi đại chúng:
─ Đại-Đức A-Nan tụng đọc lại
có chỗ nào sai lầm chăng ?
Đại chúng đồng thinh đáp:
Chẳng khác những lời đức
Thế-Tôn đã nói.
Một hôm Ngài hỏi Tổ Ca-Diếp:
─ Khi Thế-Tôn phú chúc và
truyền y kim-tuyến cho sư-huynh, còn có truyền pháp gì riêng nữa
chăng ?
Tổ Ca-Diếp liền gọi:
─ A-Nan !
Ngài ứng thinh:
─ Dạ.!
Tổ Ca-Diếp bảo:
─ Cây cột phướng trước chùa
ngã. Ngài nhơn đây tỏ ngộ.
Tổ Ca-Diếp bèn ấn chứng và
đem chánh pháp nhãn-tạng truyền lại cho Ngài. Tổ nói kệ:
-
Pháp pháp bổn lai pháp,
-
Vô pháp vô phi pháp.
-
Hà ư nhất pháp trung,
-
Hữu pháp hữu phi pháp
Dịch:
-
Các pháp,pháp xưa nay,
-
Không pháp,không phi pháp .
-
Tại sao trong một pháp,
-
Có pháp,có phi pháp ?
Ngài đảnh lễ thọ nhận. Môn
đệ của Ngài có hai vị xuất sắc, Thương-Na-Hòa-Tu và Mạc-Điền-Để
Ca (Mạc-Điền-Địa). Ngài chọn Thương Na Hòa Tu làm người kế thừa
tổ vị và truyền trao y bát lại.
Cảm thấy thân bèo bọt đã đến
thời kỳ hoại diệt, đã tìm được người kế.thừa, Ngài dự định vào
Niết-bàn, Ngài đến từ giả vua A-Xà-Thế, song không gặp vua. Ngài
liền đi thẳng đến bờ sông Hằng, lên một chiếc thuyền ngồi
kiết-già thả trôi lơ lửng giữa dòng sông. Vua A-Xà-Thế hay tin
Ngài sắp vào Niết-bàn ở sông Hằng, liền cùng quan quân tùy tùng
tìm đến bờ sông. Vua thấy Ngài ngồi trên thuyền ở giữa dòng sông
bèn đảnh lễ nói kệ:
-
Khể thủ tam giới tôn,
-
Khí ngã như chí thử.
-
Tạm bằng bi nguyện lực,
-
Thả mạc Bát-niết-bàn.
Dịch:
-
Lạy đấng tôn tam giới,
-
Bỏ con đến nơi nầy.
-
Tạm nương sức bi nguyện,
-
Xin chớ vội Niết-bàn.
Vua nước Tỳ-Xá-Ly nghe tin
cũng đến bên bờ kia sông Hằng, đảnh lễ và nói kệ:
-
Tôn giả nhất hà tốc,
-
Nhi qui tịch diệt trường !
-
Nguyện trụ tu du gian,
-
Nhi thọ ư cúng dường.
Dịch:
-
Tôn giả sao quá nhanh,
-
Sớm vào nơi tịch diệt !
-
Xin tạm dừng chốc lát,
-
Để nhận con cúng dường.
Ngài thấy hai vua đồng đến
khuyến thỉnh, bèn nói kệ:
-
Nhị vương thiện nghiêm trụ,
-
Vật vi khổ bi luyến.
-
Niết-bàn đương ngã tịnh,
-
Nhi vô chư hửu cố.
Dịch:
-
Hai vua ở an vui,
-
Chớ vì thương buồn khổ.
-
Niết-bàn, tôi an tịnh,
-
Vì không còn các nghiệp.
Ngài giữ tâm bình đẳng ở
giữa dòng sông vào Niết-bàn. Hai vua họp nhau làm lễ thiêu thân
Ngài và phân chia xá-lợi xây tháp cúng dường.
3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)
Thế kỷ
đầu sau Phật Niết-bàn
Ngài dòng Tỳ-Xá-Đa nước Ma-Đột-La,
cha tên Lâm-Thắng, mẹ là Kiều-Xa-Da. Ngài ở trong thai mẹ sáu
năm mới sanh. Tục truyền ở Ấn-Độ khi nào cỏ Thương-Nặc-Ca sanh
là có một vị thánh nhơn ra đời. Chính khi Ngài lọt lòng mẹ thì
thứ cỏ ấy cũng mọc lên, vì thế cha mẹ Ngài đặt tên là
Thương-Na-Hòa-Tu.
Lúc đầu, Ngài xuất gia làm
đồ đệ vị tiên ở núi Tuyết. Chính Ngài tu theo pháp tiên đã được
thần thông, sau gặp Tổ A-Nan, Ngài hồi đầu trở về chánh pháp. Tổ
A-Nan, thấy Ngài đã thâm ngộ diệu tâm nên truyền pháp kệ rằng :
-
Bổn lai truyền hửu pháp,
-
Truyền liễu ngôn vô pháp
-
Các các tu tự ngộ
-
Ngộ liễu vô vô pháp.
Dịch :
-
Xưa nay truyền có pháp
-
Truyền rồi nói không pháp.
-
Mỗi mỗi cần tự ngộ
-
Ngộ rồi không không pháp.
Tổ lại dặn:
─ Xưa Đức Như-Lai đem đại
pháp nhãn nầy trao cho Ngài Ca-Diếp, Ngài Ca-Diếp trao lại cho
ta, nay ta sắp vào Niết-bàn đem trao lại cho ngươi, Ngươi phải
khéo gìn giữ truyền trao không để dứt mất.
Sau khi đắc pháp nơi Tổ
A-Nan, Ngài đi đến khu rừng Ưu-Lưu-Trà cất tịnh-xá hoằng hóa
Phật-pháp rất hưng thịnh. Chính nơi đây, khi Phật còn tại thế có
lần đi giáo hóa ngang khu rừng nầy, Phật nói với A-Nan:
Sau khi ta Niết-bàn, khoảng
100 năm, có một Tỳ-kheo tên Thương-Na-Hòa-Tu ở tại khu rừng nầy
hoằng truyền chánh pháp
Thấy cơ duyên hóa đạo đã
viên mãn, Ngài đem chánh pháp nhãn tạng truyền lại cho đệ tử là
Ưu-Ba-Cúc-Đa. Ngài vào núi Bạch-Tượng phía Nam nước Kế-Tân sắp
vào Niết-bàn. Nhơn trong chánh định Ngài thấy nhóm 500 người đệ
tử của Ưu-Ba-Cúc-Đa thường hay lười biếng và khinh mạn, Ngài
liền đến cảnh tỉnh họ, khi Ngài đến, Ưu-Ba-Cúc-Đa đi vắng. Ngài
lại tòa của Ưu-Ba-Cúc-Đa ngồi, đệ tử Cúc-Đa không biết Ngài là
người gì ? Tất cả đều bực tức không phục. Họ chạy báo cho Cúc-Đa
hay. Cúc-Đa về đến thấy thầy mình liền đảnh lễ. Song đệ tử vẫn
còn tâm khinh mạn chẳng kính. Ngài lấy tay mặt chỉ lên hư không
liền có sữa thơm chảy xuống,
Ngài bảo Cúc-Đa.:
─ Ngươi biết gì chăng .
Cúc-Đa thưa:
─ Chẳng biết. Cúc-Đa bèn
nhập chánh định để xem xét, cũng không thể hiểu.
Cúc-Đa thưa:
─ Điềm lành nầy do chánh
định gì xuất hiện ?
─ Đây là chánh định Long-Phấn-Tấn.
Còn cả năm trăm thứ chánh định như thế mà ngươi chưa biết. Chánh
định của Như-Lai, hàng Bích-Chi không thể biết. Chánh định của
Bích-Chi, hàng La-Hán không thể biết. Chánh định thầy ta là
A-Nan, ta cũng không biết. Nay chánh định của ta, ngươi đâu thể
biết. Chánh định ấy là tâm không sanh diệt, trụ trong sức đại từ,
cung kính lẫn nhau, được thế đó mới có thể biết.
─ Đệ tử của Cúc-Đa trông
thấy những kỳ-diệu ấy đều kính phục, chí thành sám hối. Ngài lại
nói kệ :
-
Thông đạt phi bỉ thử
-
Chí thánh vô trường đoản
-
Nhữ trừ khinh mạn ý
-
Tất đắc A-La-Hán.
Dịch :
-
Thông suốt không kia đây
-
Chí thành không hay dở
-
Ngươi trừ tâm khinh mạn
-
Chóng được A-La-Hán.
Sau đó, Ngài thị tịch bằng
cách dùng hỏa quang tam muội thiêu thân. Thầy trò Ưu-Ba-Cúc-Đa
thu nhặt xá-lợi xây tháp cúng dường .
4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)
Cuối thế
kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn
Ngài dòng Thủ-Đà-La ở nước
Sất-Lợi, cha tên Thiện-Ý. Trước khi sanh Ngài, thân phụ nằm mộng
thấy mặt trời vàng xuất hiện trong nhà. Thưở bé Ngài mặt mũi
khôi ngô, tánh tình thuần hậu, trí huệ minh mẫn
Khoảng 12 tuổi, Ngài được
gặp Tổ Thương-Na-Hòa-Tu đến tận nhà và dạy cho Ngài phương pháp
buộc niệm. Nghĩa là mỗi khi khởi nghĩ ác liền bỏ một hòn sỏi đen
vào hũ, khi khởi nghĩ lành liền bỏ một hòn sỏi trắng vào hũ. Mỗi
tháng đem ra xem xét coi đen nhiều hay trắng nhiều ; nếu đen
nhiều phải cố gắng sửa đổi. Ngài vâng làm như vậy, ban đầu sỏi
đen nhiều, dần dần bằng nhau và sau nầy trắng nhiều.
Năm 17 tuổi, Ngài xin Tổ
Thương-Na-Hòa-Tu xuất gia. Tổ hỏi :
- Ngươi được bao nhiêu tuổi
?
Ngài thưa :
- Bạch thầy, con
được 17 tuổi.
- Thân ngươi 17 tuổi hay tánh ngươi 17 tuổi ?
Ngài hỏi lại :
- Đầu thầy
tóc bạc, vậy tóc thầy bạc hay tâm thầy bạc ?
Tổ bảo :
- Tóc ta bạc không
phải tâm ta bạc
- Con cũng thế, thân con được 17 tuổi, không
phải tánh con 17 tuổi.
Tổ bèn hoan-hỉ nhận cho xuất gia làm thị
giả. Đến 20 tuổi, Ngài thọ giới cụ túc và ngộ đạo. Tổ bảo :
Xưa Đức Thế-Tôn đem chánh
pháp vô thượng truyền cho Tổ Ca-Diếp. Tổ Ca-Diếp truyền lại cho
thầy của thầy ta là Đức A-Nan, thầy ta truyền cho ta và nay ta
truyền lại cho ngươi chánh pháp nầy. Ngươi cố gắng hộ trì đừng
để đoạn dứt. Hảy nghe bài kệ đây :
-
Phi pháp diệc phi tâm,
-
Vô
tâm diệc vô pháp.
-
Thuyết thị tâm pháp thời,
-
Thị pháp phi tâm
pháp
Dịch :
-
Phi pháp cũng phi
tâm,
-
không tâm cũng không pháp ,
-
Khi nói tâm pháp ấy,
-
Pháp ấy
phi tâm pháp.
Khi, Ngài đến nước Ma-Đột-La,
Ngài cảm hóa rất đông dân chúng qui hướng Phật pháp, có nhiều
người đã chứng đạo quả. Có những khi Ngài thuyết pháp, chư thiên
rải hoa, quả đất rúng động, khiến cung ma cũng bị chấn động. Vua
ma-ba-tuần sợ e Phật-giáo thạnh hành thì bè đảng của chúng bị
tiêu diệt, nên quyết dùng hết thần lực phá hoại Phật-pháp. Ma
bèn hiện các ngọc nữ đến làm nhiễu loạn tâm thính giả. Ngài liền
nhập định để quán sát nguyên do, Được cơ hội thuận tiện, ma đem
vòng chuỗi anh-lạc quàng vào cổ Ngài. Xuất định, Ngài dùng thần
lực biến ba thây chết -người, chó, rắn – thành một tràng hoa đẹp.
Ngài dùng lời diệu ngọt bảo ma :
Ngươi sẵn lòng tốt đem chuỗi
anh-lạc rất quí tặng ta, giờ ta biếu lại ngươi tràng hoa đẹp nầy,
gọi là thù tạc nhau.
Vua ma nghe rất mừng, đưa cổ
nhận tràng hoa. Tràng hoa tròng vào cổ giây lát hóa thành thây
thúi, giòi tửa ghê tởm. Vua ma kinh sợ gớm chán, muốn cởi ra mà
cởi không được, dùng hết thần lực cũng không cởi nổi. Túng thế,
vua ma chạy lên cõi trời Dục cầu cứu với vua Trời, rốt cuộc
không kết quả. Lần lượt vua ma cầu cứu đến Trời Phạm. Vua các
Trời đều bảo :
- Pháp ấy là do đệ tử Phật biến hóa ra, chúng ta
còn phàm lậu làm sao trừ được.
Vua ma nghe phán như vậy lại
hỏi :
- Thế thì làm thế nào gỡ ra ?
Vua Trời nói kệ :
-
Nhược nhơn địa đảo,
-
Hoàn
nhơn địa khởi.
-
Ly địa cầu khởi,
-
Chung vô kỳ lý.
Dịch :
-
Nếu nhơn đất ngã,
-
Phải nhờ đất dậy.
-
lìa đất muốn dậy,
-
Trọn không lý ấy.
Vua ma nhận lời dạy, rời
khỏi cung Trời trở về chỗ Ngài Ưu-Ba-Cúc-Đa chí thành lễ tạ sám
hối. Ngài bảo:
-Thánh trước dạy ta hàng phục ngươi. Tuy vậy, nếu
ngươi biết cải thiện là được thờ phụng Phật, khỏi sa vào đường
dữ.
Vua ma nghe dạy vui vẻ thưa:
- Tôn-giả vì con làm lợi ích
lớn, cúi xin Tôn-giả cởi vòng thây thúi dùm con .
Ngài dạy:
-
Vậy ngươi phải quỳ gối chấp tay tự xướng ba lần quy-y tam bảo đi.
Vua ma quỳ gối chấp tay xướng ba lần quy-y tam bảo xong, thì
vòng thây thúi biến mất. Vua ma vui mừng nhảy nhót đảnh lễ Ngài
nói kệ:
-
Khể thủ tam muội tôn,
-
Thập
lực đại từ túc.
-
Ngã kim nguyện hồi hướng,
-
Vật linh hữu liệt
nhược.
Dịch :
-
Cúi lạy chánh-định
tột,
-
Đủ mười lực đại từ.
-
Nay con xin hồi hướng,
-
Chớ còn tánh yếu
hèn.
Sau khi quy-y tam bảo xong,
Ngài bảo vua ma:
- Xưa ngươi thường thấy Như-Lai, giờ đây hiện
thử cho ta xem.
Vua ma thưa:
- Hiện việc xưa
không khó, chỉ xin Tôn-giả trông thấy đừng lễ.
Vua ma liền vào
rừng ẩn mất. Chốc lát bỗng thấy Phật từ mé rừng đi ra oai nghi
nghiêm chỉnh, theo sau đoàn Tỳ-kheo 1250 vị. Ngài vừa trông thấy,
bất giác cúi mình đảnh lễ. Ma hoảng kinh biến mất. Lúc hóa đạo,
mỗi khi giáo hóa một người thâm ngộ Phật-pháp Ngài để vào thất
đá một thẻ tre. Ngôi thất ấy bề dài 18 thước tay bề ngang 12
thước tay. Thế mà một thời gian thẻ tre đầy ói cả thất. Sau cùng,
Ngài độ ông Hương-Chúng con một vị trưởng giả và truyền chánh
pháp lại cho ông nầy. Nhơn thân phụ ông Hương-Chúng mộng thấy
mặt trời vàng xuất hiện trong nhà, nên Ngài đổi hiệu là Đề-Đa
-Ca. Đã có người kế thế và nhơn duyên hóa đạo đã xong. Ngài từ
biệt đại chúng, Ngồi kiết già thị-tịch. Đề-Đa-Ca và môn đệ mở
cửa thất đá lấy thẻ tre làm vật liệu thiêu Ngài., thiêu xong
lượm xá-lợi xây tháp cúng dường .
5. Tổ Đề-Đa-Ca (Dhrtaka)
Đầu thế
kỷ thứ hai sau Phật Niết-bàn
Ngài tên Hương-chúng ở nước
Ma-Già-Đà. Nhơn thân phụ Ngài nằm mộng thấy mặt trời vàng ánh
xuất hiện trong nhà, chiếu sáng khắp cả. Lại thấy phía trước
hiện ra một hòn núi lớn, trang nghiêm bằng bảy báu, trên đảnh
núi có dòng suối, nước chảy trong veo, tràn khắp bốn phía. Sau
đó, mẹ sanh ra Ngài.
Ngài gặp Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa bèn
đem điềm mộng của cha thuật lại và nhờ giải hộ. Tổ giải:
-Núi báu là thân ta, suối
nước tuôn ra là pháp vô tận, mặt trời xuất hiện trong nhà là
tướng ngươi vào đạo, ánh sáng chiếu khắp là trí tuệ siêu việt
của ngươi.
Ngài nghe giải xong, vui mừng khắp khởi xướng kệ
rằng :
-
Nguy nguy thất bảo sơn,
-
Thường xuất trí huệ tuyền.
-
Hồi vi chân pháp vị,
-
Năng độ chư hữu
duyên.
Dịch :
-
Vòi vọi núi bảy báu,
-
Thường tuôn suối trí huệ.
-
Chuyển thành vị chơn pháp,
-
Hay độ
ngưòi có duyên
Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa cũng nói kệ
đáp :
-
Ngã pháp truyền ư nhữ,
-
Đương
hiện đại trí huệ .
-
Kim nhựt tùng ốc xuất,
-
Chiếu diệu ư thiên địa
.
Dịch :
-
Pháp ta truyền cho
ngươi,
-
Sẽ hiện trí-huệ lớn .
-
Mặt trời mọc trong nhà,
-
Chiếu sáng
khắp trời đất .
Ngài nghe kệ rồi, xin theo
Tổ xuất gia học đạo. Thấy Ngài ứng đối lanh lẹ, trí-huệ minh đạt,
Tổ hoan hỷ chấp nhận cho xuất gia làm đệ-tử. Một hôm, Tổ gọi
Ngài bảo: Như-Lai đem đại pháp nhãn tạng trao cho Đại-Ca-Diếp,
lần lượt trao truyền cho đến ta, nay ta trao lại cho ngươi. Hãy
nghe kệ đây:
-
Tâm tự bổn lai tâm,
-
Bổn tâm
phi hữu pháp.
-
Hữu pháp hữu bổn tâm,
-
Phi tâm phi bổn pháp.
Dịch :
-
Tâm tự xưa nay tâm,
-
Bổn tâm chẳng có pháp.
-
Có pháp có bổn tâm,
-
Chẳng tâm chẳng bổn
pháp
Ngài thành kính nhận lãnh
chánh pháp. Sau, Ngài sang Trung-Ấn giáo hóa. Nơi đây có tám
ngàn vị đại tiên, dưới sự lãnh đạo của đại tiên Di-Dá-Ca. Nghe
Ngài đến đây, Di-Dá-Ca vân tập tiên chúng đến yết kiến Ngài.
Gặp Ngài, Di-Dá-Ca thưa:
- Xưa tôi cùng Thầy đồng sanh cõi trời Phạm-Thiên. Tôi gặp tiên A-Tư-Đà
truyền cho pháp tiên. Thầy gặp đệ tử Phật hướng dẫn tu tập thiền
định. Từ đó, cách nhau đã đến sáu kiếp.
Ngài bảo:
- Lời tiên nhơn đã
nói đúng như vậy. Song, ông chuyên về pháp tiên tột cùng sẽ đến
đâu ?
Di-Dá-Ca thưa:
- Tôi tuy
chưa gặp bậc chí thánh, song tiên A-Tư-Đà thường thọ ký rằng:
"Sáu kiếp về sau, tôi sẽ nhờ bạn đồng học mà được chứng quả giải
thoát. Nay gặp nhau đây đâu không đúng như vậy ư ?"
Ngài bảo:
- Ông đã biết như
vậy thì cần phải xuất gia, pháp tiên là đường nhỏ, không thể đưa
người đến giải thoát. Ta hóa đạo đã lâu, cũng muốn dừng nghỉ.
Nếu ông thật thú hướng về đại pháp thì không nên chậm trễ.
Di-Dá-Ca nghe nói vui mừng
liền xin xuất gia. Ngài độ cho ông xuất gia thọ giới.
Lúc đó, tiên chúng theo
Di-Dá-Ca thấy vị tiên trưởng của mình làm như vậy, rất bất mãn.
Họ nói thầm với nhau rằng: "Đề-Đa-Ca đâu đủ sức làm thầy mình
mà theo xuất gia".
Ngài biết tâm họ, muốn gây
cho họ có niềm tin, liền phóng quang sáng chiếu, chân đi trên hư
không như người đi trên đất bằng, lại hóa cây dù báu che khắp
chúng tiên, nơi ngón tay sữa thơm tuôn ra, trong sữa hiện lên
một hoa sen, trong hoa sen hóa ra Đức Phật.
Chúng tiên trông thấy thần
biến phi thường, bèn cuối đầu cầu xin xuất gia. Tôn giả hoan hỷ
chấp nhận.
Thấy cơ duyên hóa độ đã viên
mãn, Ngài truyền pháp lại cho Di-Dá-Ca, rồi thâu thần tịch diệt.
Di-Dá-Ca và đồ chúng thiêu
hài cốt Ngài, thâu lượm xá-lợi xây tháp tại núi Ban-Trà thờ
phụng cúng dường.
6. Tổ Di-Dá-Ca (Miccaka)
Đầu thế
kỷ thứ ba sau Phật Niết-bàn
Ngài người Trung-Ấn, không
rõ họ gì. Ngài cùng chúng tiên thọ giáo xuất gia với Tổ Đề-Đa-Ca.
Sau đó, Ngài tu hành chứng được quả thánh. Khi sắp tịch, Tổ
Đề-Đa-Ca gọi Ngài lại bảo:
-Xưa Như-Lai thầm trao đại
pháp nhãn cho Đại-Ca-Diếp lần lượt truyền trao đến ta, nay ta
trao cho ngươi, ngươi phải gìn giữ truyền trao chớ dứt. Nghe ta
nói kệ :
-
Thông đạt bổn tâm pháp,
-
Vô
pháp vô vi pháp .
-
Ngộ liễu đồng vị ngộ,
-
Vô tâm diệc vô pháp .
Dịch :
-
Thông đạt pháp bổn
tâm,
-
Không pháp không phi pháp
-
Ngộ rồi đồng chưa ngộ,
-
Không tâm
cũng không pháp .
Sau khi được pháp, Ngài du
hóa các nơi tùy căn cơ giáo hóa chúng sanh. Một hôm, Ngài đến
Bắc-Ấn chợt thấy trên thành có vầng mây màu vàng. Ngài ngó sang
những người bên cạnh bảo :
-Đây là vượn khí đại thừa. Trong thành
nầy sẽ có bậc chí nhơn nối pháp cho ta .
Khi đi vào trong thành
đến chợ, quả gặp người tay ôm bầu rượu, đón Ngài hỏi :
- Tôn-giả
từ phương nào đến, muốn đi về đâu ?
Ngài đáp :
-Ta từ tâm mình
đến, muốn đi không chỗ.
– Tôn-giả biết vật trong tay tôi chăng ?
Đây là đồ đựng vật làm mất thanh tịnh.
– Tôn-giả biết tôi chăng
?
– Tôi thì chẳng biết, biết thì chẳng tôi
Ngài lại bảo :
- Ngươi hãy
nói tên họ ra, ta sẽ chỉ nhơn đời trước cho ngươi. Người ấy bèn
nói kệ :
-
Ngã kim sanh thử quốc,
-
Phục
ức tích thời nhựt .
-
Bổn tánh Phả-La-Đọa,
-
Danh tự Bà-La-Mật.
Dịch :
-
Nay tôi sanh nước nầy,
-
Lại nhớ ngày xa xưa
-
Dòng họ Phả-La-Đọa,
-
Tên là Bà-La-Mật
Ngài nghe rồi nhớ lại duyên
trước, bèn bảo Bà-Tu-Mật :
- Thầy ta là Đề-Đa-Ca thường nói :
"Xưa kia Như-Lai du hóa Bắc-Ấn có báo A-Nan: Sau khi ta diệt
độ khoảng ba trăm năm, ở nước nầy sẻ có vị thánh nhơn ra đời, họ
Phả-La- Đọa tên Bà-Tu-Mật, làm vị Tổ thứ bảy của Thiền-Tông
. Đây là Như-Lai thọ ký cho ngươi, ngươi nên xuất gia."
Bà-Tu-Mật liền để bầu rượu
xuống, đảnh lễ Ngài. Đảnh lễ xong, đứng qua một bên thưa :
- Con nhớ lại kiếp xưa thường làm thí chủ cúng dường Phật một bảo tòa.
Như-Lai thọ ký cho con rằng : "Ngươi ở hiền kiếp sẽ được
Phật-pháp làm Tổ thứ bảy". Nay gặp gỡ đây là cái duyên trước
vậy, cúi xin Tôn giả đại từ thương xót độ thoát cho con. Ngài
liền vì ông cho cạo tóc xuất gia và thọ đầy đủ giới pháp. Thấy
tuổi đã già và cơ duyên hóa độ cũng xong,
Ngài truyền chánh pháp lại
cho Bà-Tu-Mật. Truyền xong, Ngài thâu thần tịch diệt. Bà-Tu-Mật
và môn đồ lượm xá-lợi để vào bình báu, xây tháp cao tôn thờ trên
từng chót để mọi người cúng dường.
7. Tổ Bà-Tu-Mật (Vasumitra)
Cuối thế
kỷ thứ ba sau Phật Niết-bàn
Ngài họ Phả-La-Đọa sanh
trưởng tại miền Bắc-Ấn. Khi còn tại gia, Ngài thường mặc đồ sạch
sẽ, tay cầm bầu rượu, đi dạo chơi trong xóm làng, có khi Ngài
ngâm thơ thổi sáo, người thường không sao hiểu nổi, họ bảo Ngài
là người điên. Sau khi gặp Tổ Di-Dá-Ca nói lại lời huyền ký Như-Lai,
Ngài liền tỉnh ngộ tiền duyên, ném bầu rượu phát nguyện xuất gia.
Theo Tổ tu hành, Ngài ngộ được tâm tông. Một hôm,Tổ Di-Dá-Ca gọi
Ngài căn dặn:
-Công hạnh của ta gần viên
mãn,chánh pháp nhãn tạng nầy trao lại cho ngươi, ngươi phải ân
cần gìn giữ chớ để đoạn diệt. Hãy nghe kệ đây :
-
Vô tâm vô khả đắc,
-
Thuyết
đắc bất danh pháp.
-
Nhược liễu tâm phi tâm,
-
Thủy giải tâm tâm
pháp.
Dịch :
-
Không tâm không thể
được,
-
Nói được chẳng gọi pháp
-
Nếu rõ tâm phi tâm,
-
Mới hiểu tâm
tâm pháp.
Sau khi Tổ Di-Dá-Ca nhập
Niết-bàn, Ngài đi hoằng khắp nơi tuyên dương chánh pháp. Khi đến
nước Ca-Ma-La
Ngài lên pháp tòa giảng
đạo,có một trí sĩ đến dưới tòa lớn tiếng tự xưng:
-Tôi là
Phật-Đà-Nan-Đề, hôm nay quyết luận nghĩa với thầy.
Ngài bảo:
-
Nầy nhơn giả! Nếu luận thì chẳng phải nghĩa, nếu nghĩa thì chẳng
phải luận. Nếu nghĩ luận nghĩa, trọn chẳng phải nghĩa luận.
Nan-Đề
biết đây là người nói nghĩa thù thắng,khởi tâm kính phục,thưa
rằng:
- Con nguyện cầu đạo,được thưởng thức vị cam lồ.
Ngài
thương xót liền cho xuất gia thọ giới, không bao lâu truyền pháp
cho Nan-Đề. Đã có người thừa kế, Ngài dự định vào Niết-bàn. Ngài
liền nhập từ tam-muội để vào tịch định. Lúc
đó,Đế-Thích,Phạm-Vương cùng chư thiên đồng đến đảnh lễ,nói kệ :
-
Hiền kiếp thánh chúng Tổ,
-
Nhi đương đệ thất vị.
-
Tôn giả ai niệm ngã,
-
Thỉnh vị tuyên Phật
địa.
Dịch :
-
Hiền kiếp các thánh
Tổ,
-
Ngài là vị thứ bảy,
-
Tôn giả thương xót con,
-
Thỉnh vì nói
Phật địa .
Ngài xuất định nói với họ
rằng :
- Pháp ta đã được là không phải có. Nếu muốn biết
Phật-địa phải lìa có và không.
Nói xong, Ngài vào tịch
định thị hiện tướng Niết-bàn. Chư thiên nghe rồi hoan hỷ tán hoa
trời,đảnh lễ. Nan-Đề cùng đồ chúng trà tỳ thân Ngài, rồi lượm
xá-lợi xây tháp cúng dường .
8. Tổ Phật-Đà-Nan-Đề (Buddhanandi)
Đầu thế
kỷ thứ tư sau Phật Niết-bàn
Ngài họ Cù-Đàm, người nước
Ca-Ma-La. Thuở nhỏ trên đảnh Ngài có cục thịt nổi cao, thường
phát ra hào quang
năm sắc xen lẫn. Ngài thông
minh tuyệt vời, chữ nghĩa một phen xem qua là ghi nhớ. Năm 14
tuổi, Ngài phát tâm xuất gia chuyên dùng hạnh thanh tịnh để tự
tu. Khi Tổ Bà-Tu-Mật đến nước Ca-Ma-La, Ngài đến vấn nạn, nhơn
đó kính phục xin theo làm đệ tử. Tổ sắp Niết-bàn, gọi Ngài đến
phó chúc rằng :
-Chánh pháp nhãn tạng của
Như-Lai, nay ta trao cho ngươi, ngươi phải truyền bá chớ để đoạn
dứt, Nghe ta nói kệ:
-
Tâm đồng hư không giới,
-
Thị
đằng hư không pháp.
-
Chứng đắc hư không thời,
-
Vô thị vô phi pháp
Dịch :
-
Tâm đồng hạn hư không,
-
Chỉ pháp bằng thái hư.
-
Khi chứng được hư không,
-
Không pháp,
không phi pháp.
Ngài vâng giữ phụng trì. Sau khi đắc pháp,Ngài
thống lãnh đồ chúng du hóa khắp nơi.Đến nước ĐềGià,Ngàiđi qua
cổng nhà họ Tỳ-Xá-La,chợt thấy trên nóc nhà có hào quang trắng
xông lên hư không.Ngài chỉ chúng xem và bảo:
-Trong nhà nầy hiện có một
vị thánh nhơn, tuy miệng không nói một lời, chơn không đi một
bước, mà thật là bậc căn khí đại thừa. Dù không ra ngoài đường
mà biết việc xúc uế. Quả là người nối pháp cho ta, khiến
Phật-pháp hưng thịnh. Vị nầy, sau sẽ độ được năm trăm người
chứng quả thánh.
Ngài nói xong,có người
trưởng giả trong nhà bước ra làm lể thưa:
- Tôn-giả cần điều gì
dừng lại đây ?
Ngài bảo:
- Ta đến tìm người
thị giả,chớ không cần gì.
Trưởng giả thưa:
-Nhà tôi đâu có người
kỳ đặc mà Ngài tìm,chỉ có đứa con trai tên Phục-Đà-Mật-Đa không
biết nói,không biết đi,tuổi đã năm mươi,nếu Ngài cần tôi cho,
không tiếc. Ngài bảo:
-Đứa
con ông nói đó,chính là người tôi tìm.
Trưởng giả thỉnh Ngài vào
nhà. Phục-Đà-Mật-Đa vừa trông thấy Ngài liền
chổi dậy,chấp tay nói kệ:
-
Phụ mẫu phi ngã thân,
-
Thùy
vi tối thân giả ?
-
Chư Phật phi ngã đạo,
-
Thùy vi tối đạo giả ?
Dịch :
-
Cha mẹ chẳng phải
thân,
-
Ai là người chí thân ?
-
Chư Phật phi đạo tôi,
-
Cái gì là tột
đạo ?
Ngài nói kệ đáp:
-
Nhữ ngôn dữ
tâm thân,
-
Phụ mẫu phi khả tỷ,
-
Nhữ hạnh dữ đạo hiệp,
-
Chư Phật tâm
tức thị,
-
Ngoại cầu hữu tướng Phật,
-
Dữ
nhữ bất tương tợ,
-
Nhược thức nhữ bổn tâm,
-
Phi hiệp diệc phi ly .
Dịch :
-
Lời ngươi cùng tâm
thân,
-
Cha mẹ không thể sánh,
-
Hạnh ngươi cùng đạo hiệp,
-
Chư Phật
chính là tâm,
-
Ngoài cầu Phật có tướng,
-
Cùng ngươi không chút giống,
-
Nếu biết bổn tâm ngươi,
-
Chẳng hiệp
cũng chẳng lìa .
Mật-Đa nghe bài kệ xong rất
hoan hỷ, bước xuống đảnh lễ Ngài và đi bảy bước, một lòng thành
khẩn xin xuất gia
Ngài chấp nhận cho xuất
gia,liền triệu tập chúng hiền thánh làm lễ truyền giới cụ
túc. Sau đó, Ngài lại dặn dò Mật-Đa:
- Pháp nhãn của Như-Lai thầm
truyền đến đời ta, nay ta trao lại cho ngươi, ngươi nên truyền
trao chớ đoạn dứt.
Nghe ta nói kệ :
-
Hư không vô
nội ngoại,
-
Tâm pháp diệc như thử,
-
Nhược liễu hư không cố,
-
Thị
đạt chơn như lý.
Dịch :
-
Hư không chẳng trong
ngoài,
-
Tâm pháp cũng như thế,
-
Nếu hiểu rõ hư không,
-
Là đạt lý
chơn như .
Mật-Đa hân hạnh được truyền
pháp vui mừng vô hạn, liền nói kệ khen ngợi :
-
Ngã sư thiền Tổ trung,
-
Thích
đương vi đệ bát,
-
Pháp hóa chúng vô lượng,
-
Tất hoạch A-La-Hán .
Dịch :
-
Thầy tôi trong thiền
Tổ,
-
Hiện là vị thứ tám,
-
Giáo hóa chúng không cùng,
-
Thảy được quả
La-Hán .
Ngài truyền pháp xong, sắp
vào Niết-bàn. Hôm ấy đang ngồi trên bổn tòa, Ngài an nhiên thị
tịch. Số chúng Ngài
độ có đến năm trăm vị chứng
nhị quả. Toàn chúng trà tỳ hài cốt Ngài, lượm xá-lợi xây bảo
tháp tôn thờ .
9. Tổ Phục-Đà-Mật-Đa (Buddhamitra)
Cuối thế
kỷ thứ tư sau Phật Niết-bàn
Ngài họ Tỳ-Xá-La ở nước
Đề-Già. Từ lọt lòng mẹ đến năm mươi tuổi chưa từng nói một
lời,chưa từng đi một bước. Cha mẹ nghi nhơn duyên gì mà Ngài thế
ấy ? Đến gặp Tổ Phật-Đà-Nan-Đề nói duyên đời trước rằng :
- Đứa bé nầy đời trước thông
minh lắm,ở trong Phật pháp do lòng đại bi muốn làm lợi ích lớn
cho chúng sanh,cho nên thường nguyện :"Nếu tôi sanh chỗ nào
không bị tình phụ tử ràng buộc, tùy duyên lành kia liền được
giải thoát miệng nó không nói là tiêu
biểu đạo không tịch. Chơn nó không đi là tiêu biểu pháp không
đến đi."
Cha mẹ Ngài nghe lời giải thích của Tổ sạch hết nghi
ngờ,vui vẻ cho theo Tổ xuất gia.
Sau khi đắc pháp, Ngài du
hóa khắp nơi, sang Trung-Ấn giáo hóa. Nơi đây có ông trưởng-giả
tên là Hương-Cái. Ông nầy có người con trai tên Nan-Sanh. Ông
trưởng-giả Hương-Cái dẫn con đến yết kiến Ngài. Đảnh lễ xong,ông
trưởng-giả thưa :
- Thằng bé nầy ở trong thai mẹ ngót sáu mươi
năm,do đó tôi đặt tên là Nan-Sanh. Có một tiên đến xem tướng
nó,rồi nói: "Thằng nhỏ nầy hẳn là tướng phi phàm,sẽ làm pháp khí
đại thừa,sau gặp Bồ-Tát hóa độ". Bởi có duyên lành nên nay được
gặp Ngài,tôi nguyện cho nó theo Ngài xuất gia học đạo.
Ngài hoan
hỷ nhận cho Nan- Sanh xuất gia thọ giới. Trong buổi lễ xuất gia
thọ giới bỗng có ánh sáng mát chiếu khắp chổ Nan-Sanh ngồi. Cơ
duyên hóa độ sắp viên mãn, Ngài kêu Nan-Sanh lại dặn dò :
- Đại
pháp nhãn tạng của Như-Lai,nay ta trao cho ngươi,
Ngươi phải gìn giữ truyền
trao đừng cho đoạn dứt. Ngươi nhận lời ta dạy,hãy nghe kệ đây :
-
Chơn lý bổn vô danh,
-
Nhơn
danh hiển chơn lý,
-
Thọ đắc chơn thật pháp,
-
Phi chơn diệc phi
ngụy.
Dịch :
-
Chơn lý vốn không
tên,
-
Nhơn tên bày chơn lý,
-
Nhận được pháp chơn thật,
-
Chẳng chơn
cũng chẳng ngụy.
Nói kệ xong, Ngài bèn vào
chánh định hiện tướng Niết-bàn. Chư thiên trổi nhạc cúng dường.
Nan-Sanh cùng đồ chúng dùng dầu thơm gỗ chiên đàn làm lễ hỏa
táng chơn thể của Ngài. Hỏa táng xong lượm xá-lợi về tôn thờ nơi
chùa Na-Lan-Đà .
10. Tổ Hiếp-Tôn-Giả (Parsvika)
Đầu thế
kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn
Ngài
tục danh là Nan-Sanh, người Trung-Ân. Thân mẫu mang thai đến 60
năm mới sanh ra Ngài. Lúc Ngài sắp sanh,
Thân
phụ nằm mộng thấy một con voi trắng to trên lưng có chở một bảo
tọa, trong bảo tọa có hạt minh châu, từ ngoài cửa đi vào chiếu
sáng khắp nhà. Ông giựt mình tỉnh giấc thì Ngài ra đời.
Sau
gặp Tổ Phục-Đà-Mật-Đa độ cho xuất gia. Được xuất gia rồi Ngài
cần mẫn tu học cho đến quên ăn bỏ ngủ, suốt ngày đêm chưa từng
đặc lưng xuống chiếu,như thế mãi cả đời. Vì thế thời nhơn gọi
Ngài là Hiếp-Tôn-Giả (Tôn-giả hông không dính chiếu ). Lãnh thọ
chánh pháp xong, Ngài đi vân du các nơi tùy cơ giáo hóa. Đến
nước Hoa-Thị, Ngài
tạm
nghỉ dưới cây đại thọ. Khi ấy, Ngài lấy tay chỉ xuống đất bảo
chúng :
- Khi
nào đất này biến thành màu vàng, sẽ có một thánh nhơn vào hội.
Ngài vừa nói dứt lời, đất liền biến thành màu vàng. Chốc lát có
một thanh niên con nhà giàu tên Phú-Na-Dạ-Xa đến trước Ngài đứng
chắp tay, Ngài hỏi :
-
Ngươi từ đâu đến ?
Thanh niên thưa :
- Tâm con chẳng phải đến.
–Ngươi dừng chổ nào ?
–Tâm con chẳng phải dừng.
-
Ngươi chẳng định sao ?
– Chư Phật cũng thế.
–Ngươi chẳng phải
chư Phật.
–Chư Phật cũng chẳng phải.
Ngài nhơn đó nói bài kệ :
-
Thử địa biến kim sắc,
-
Dự tri ư thánh chí,
-
Đương tọa bồ-đề thọ,
-
Giác hoa nhi thành dỉ.
Dịch :
-
Đất này hóa sắc vàng,
-
Biết có thánh nhơn sang,
-
Ngồi dưới cây
bồ-đề,
-
Hoa giác nở hoàn toàn .
Phú-Na-Dạ-Xa cũng đọc bài kệ:
-
Sư tọa
kim sắc địa,
-
Thường thuyết chơn thật nghĩa,
-
Hồi quang nhi chiếu
ngã,
-
Linh nhập tam-ma-đề .
Dịch :
-
Thầy ngồi đất sắc vàng,
-
Thường nói nghĩa chơn thật,
-
Xoay ánh
sáng chiếu con,
-
Khiến vào nơi chánh định .
Ngài
biết ý Phú-Na-Dạ-Xa lòng cầu đạo rất thiết tha, nên độ cho xuất
gia và truyền giới cụ túc. Một hôm, Ngài gọi Phú-Na bảo :
-Đại
pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay trao cho ngươi, ngươi phải khéo
lưu truyền chớ để dứt mất. Hãy nghe ta nói kệ :
-
Chơn thể tự
nhiên chơn,
-
Nhơn chơn thuyết hữu lý,
-
Lãnh đắc chơn chơn pháp,
-
Vô
hành diệc vô chỉ
Dịch :
-
Chơn thể đã sẵn chơn,
-
Bởi chơn nói có lý,
-
Hội được pháp chơn
nhơn,
-
Không đi cũng không dừng .
Truyền
pháp xong, Ngài ngay nơi chỗ ngồi thị hiện các tướng rồi vào
Niết-bàn. Hỏa táng thân Ngài xong có xá-lợi nhiều vô số, chúng
phải lấy y bọc đem về kính thờ cúng dường .
11. Tổ Phú-Na-Dạ-Xa ( Punyayasas )
Giữa thế
kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn .
Ngài dòng Cù-Đàm ở nước
Hoa-Thị, thân phụ là Bảo-Thân. Thân phụ sanh được bảy người con
trai, Ngài là con út. Thuở nhỏ. Ngài tâm tư bình thản không tịnh
không loạn. Ngài thường nói với các anh :
- Nếu gặp bực đại-sĩ ngồi
nơi đạo tràng thuyết pháp, em quyết đến đó gần gũi tùy hỷ.
Khi Tổ Hiếp-Tôn-Giả đến nước
nầy chấn hưng Phật pháp, Ngài liền đến dự trong hội ấy. Thấy
Ngài ứng đối mẫn tiệp, ngôn ngữ hợp lý, Tổ độ cho xuất gia. Sau
khi đắc pháp nơi Tổ Hiếp-Tôn-Giả, Ngài một lòng tinh tấn,lấy sự
giáo hóa làm trọng trách. Đạo đức Ngài vang khắp, số chúng qui
ngưỡng đến ngàn vạn, những người được quả thánh tới năm trăm vị.
Về sau, Ngài đến nước Ba-La-Nại có một vị trưởng-giả vào hội.
Ngài hỏi đồ chúng :
- Các ngươi có biết người
mới vào đây chăng ?
Xưa Phật huyền ký rằng : "Sau
khi ta diệt độ gần 600 năm,sẽ có một vị thánh nhơn ra đời hiệu
Mã-Minh, sanh trong nước Ba-La-Nại, nói pháp nơi thành Hoa-Thị,
bẻ dẹp các đạo khác, độ người vô lượng ". Mã-Minh nghe Ngài nói
trúng tên mình thì thầm khen, bước ra đảnh lễ Ngài và hỏi :
- Tôi muốn biết Phật, thế
nào là Phật ?
Ngài đáp :
- Ông muốn biết Phật, chẳng
biết ấy là phải.
– Đã chẳng biết Phật thì đâu
biết là phải ?
– Ông đã chẳng biết Phật,
tại sao biết chẳng phải ?
– Đây thật là nghĩa cưa.
– Đó là nghĩa cây. Ông nói
nghĩa cưa là thế nào ?
– Tôi cùng thầy phân ra bằng
nhau. Nghĩa cây của thầy nói là sao ?
– Ngươi bị ta xẻ .
Mã-Minh liền ngộ được thắng
nghĩa của Ngài, vui thích cầu xin xuất gia Ngài vì độ cho ông
xuất gia và thọ giới cụ-túc
Số chúng được Ngài độ, có
đến hai trăm vị chứng quả A-La-Hán, ngoài ra còn vô số người
phát tâm qui kính Tam-bảo. Thấy cơ duyên giáo hóa sắp viên mãn,
Ngài kêu Mã-Minh lại dặn dò :
-Ngươi nên chuyển bánh xe
pháp làm vị Tổ thứ 12. Xưa đại pháp nhãn tạng của Như-Lai trao
cho Tổ Ca-Diếp lần lượt truyền trao, nay ta trao cho ngươi,
ngươi phải truyền tiếp . Nghe ta nói kệ :
-
Mê ngộ như ẩn hiển,
-
Minh ám bất tương ly,
-
Kim phó ẩn hiển pháp,
-
Phi nhất diệc phi nhị .
Dịch :
-
Mê ngộ như ẩn hiện,
-
Tối sáng chẳng rời nhau,
-
Nay trao pháp ẩn hiện,
-
Chẳng một cũng chẳng hai .
Ngài truyền pháp cho Mã-Minh
xong ,liền hiện thần biến , rồi lặng lẽ viên tịch . Mã-Minh và
đồ chúng xây tháp trùm trên chơn thân thờ Ngài .
12. Bồ-Tát Mã-Minh ( Asvaghosha )
Cuối thế
kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn .
Bồ-Tát người nước Ba-La-Nại,
hiệu Mã-Minh cũng có hiệu Công-Thắng. Vì khi Ngài sanh ra, các
con ngựa đều ré lên, nên gọi là Mã-Minh. lại cũng có thuyết nói,
mỗi khi Ngài thuyết pháp, các con ngựa trong chuồng ở gần đều
lặng lẽ lóng nghe, khi thuyết xong chúng lại hý vang, nên gọi
Ngài là Mã-Minh. Lúc chưa xuất gia, Ngài là một biện sĩ lỗi lạc,
danh tiếng đồn đãi vang cả quốc nội và quốc ngoại.
Sau khi được Tổ Phú-Na-Dạ-Xa
độ cho xuất gia và truyền tâm ấn, Ngài lại nổi tiếng là một nhà
thuyết pháp tài tình.
Bao nhiêu tà thuyết ngoại
đạo đều bị Ngài bẻ dẹp. Chính Ngài là người thắp sáng ngọn đuốc
Đại-Thừa ở đầu thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn. Ngài đi giáo
hóa đến nước Hoa-Thị nơi đây ngọn đuốc pháp của Ngài càng sáng
rực hơn.
Một hôm, có một ông già gầy
ốm vào trong hội nghe pháp, bỗng nhiên ngã xuống đất. Ngài bảo
chúng :
-Đây là việc phi thường, sẽ
có tướng lạ. Ông già kia liền biến mất. Chợt thấy dưới đất vọt
lên một người con gái nhan sắc đẹp đẽ thân như màu vàng, dùng
tay chỉ Ngài nói kệ :
-
Khể thủ trưởng lão tôn,
-
Đương thọ Như-Lai ký,
-
Kim ư thử địa thượng,
-
Nhi độ sanh tử chúng .
Dịch :
-
Cúi đầu lễ trưởng lão,
-
Hiện nhận lời Phật ghi,
-
Nay ở nơi xứ nầy,
-
Độ chúng khỏi sanh tử .
Nói kệ xong, trong chớp mắt
không thấy cô nữa. Ngài bảo chúng :
- Giây lát đây sẽ có ngoại
đạo đến đấu sức với ta.
Bỗng chốc gió mưa ầm ĩ xối
xả kéo đến, khiến trời đất mịt mù. Ngài bảo :
- Đây là báo hiệu ngoại đạo
sẽ đến. Ta sẽ trừ chúng. Nói xong, Ngài chỉ tay lên hư không,
hiện ra con rồng vàng to lớn, phấn khởi oai thần, khiến pháp
ngoại đạo tan biến .
Sau bảy ngày, có một con sâu
nằm nép dưới tòa của Ngài. Ngài lấy tay nắm bắt con sâu ấy đưa
cho đại chúng xem và nói :
- Con sâu nầy là trá hình
của ngoại đạo, đến ẩn núp nơi đây đặng nghe trộm pháp của ta .
Nói xong, Ngài ném con sâu ra bảo : " đi ngay ! ". Nhưng con sâu
sợ hãi nằm im không động Ngài an ủi :
- Ta không có hại ngươi.
Ngươi hãy hiện lại bổn hình. Ngoại đạo liền hiện bổn hình đảnh
lễ xin sám hối. Ngài hỏi :
- Ngươi tên gì ?
Có bao nhiêu đồ đệ ?
Ngoại đạo thưa :
- Con tên Ca-Tỳ-Ma-La, có
đến ba ngàn đồ đệ.
- Ngài hỏi :
- Tột thần lực của ngươi
biến hóa thế nào.
Ngoại đạo thưa :
- Con hóa biển cả là việc
chẳng khó.
- Ngài hỏi :
- Ngươi hóa tánh biển được
chăng ?
Ngoại đạo mờ mịt không
biết, thưa :
- Lời nầy con không thể biết.
Ngài vì giải thích :
- Tánh biển là núi sông quả
đất đều y cứ nơi đó mà lập, tam muội lục thông do đây phát hiện.
Ngoại đạo nghe pháp ấy, liền
khởi lòng tin mạnh mẽ, cùng ba ngàn đồ đệ đều cầu xin xuất gia.
Ngài vì họ cho cạo đầu xuất gia, rồi triệu tập năm trăm vị thánh
tăng đến làm lễ thọ giới cụ túc. Ngài bảo giới tử :
- Các ngươi thú hướng Bồ-Đề
sẽ thành đạo thánh. Ca-Tỳ-Ma-La quả nhiên được giới thể, phát
hào quang sáng, có mùi hương lạ xông khắp.
Một hôm, Ngài gọi Ma-La đến
bảo :
- Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai,
nay trao cho ngươi, truyền bá chớ để đoạn dứt. Nghe ta nói kệ :
-
Ẩn hiển tức bổn pháp,
-
Minh ám nguyên bất nhị,
-
Kim phó ngộ liễu pháp,
-
Phi thủ diệc phi khí.
Dịch :
-
Ẩn hiện vốn pháp này,
-
Sáng tối nguyên không hai,
-
Nay truyền pháp liểu ngộ,
-
Không lấy cũng chẳng bỏ .
Truyền pháp xong, Ngài vào
chánh định hiện tướng viên tịch. Ca-Tỳ-Ma-La và đồ chúng đem
chơn thể của Ngài để vào khám thờ. Ngài là vị Tổ thứ 12 của
Thiền-Tông, cũng là một vị pháp sư làm sáng tỏ giáo pháp
Đại-Thừa. Ngài sáng tác ba bộ luận:
1-Đại-Thừa Khởi Tín Luận.
2.-Đại Tông địa huyền văn
bổn luận.
3.-Sự sư pháp ngũ thập tụng
.
Nổi tiếng nhất là bộ
Đại-Thừa Khởi Tín Luận, đến hiện giờ những nước Phật-giáo
Đại-Thừa vẫn truyền dạy bộ luận nầy .
13. Tổ Ca-Tỳ-Ma-La (Kapimala)
Đầu thế
kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn.
Ngài người nước Hoa-Thị, ban
đầu học theo ngoại đạo, giỏi các pháp huyễn thuật, đồ chúng có
đến ba ngàn. Khi đến so tài với Mã-Minh, bị Tổ hàng phục,liền
cùng đồ chúng phát tâm xuất gia. Tổ Mã-Minh độ cho Ngài xuất gia,
sau truyền tâm pháp. Sau khi được truyền tâm pháp, Ngài đi giáo
hóa khắp nơi. Lần lượt đến nước Tây-Ấn, nơi đây có Thái-tử tên
Vân-Tự-Tại rất ngưỡng mộ Ngài.Thái-Tử thỉnh Ngài và đại chúng
vào cung cúng dường,Ngài từ chối bảo
-Phật cấm Sa-môn không được
gần gũi vua quan những nhà có thế lực, nên tôi không dám nhận
lời. Thái-tử bạch:
-Thưa Tôn-giả ! phía Bắc
thành nầy có một hòn núi lớn, trong núi có hang đá yên lặng bặt
người thế tục, có thể ở nơi đó thiền định được. Tuy nhiên, trong
đó có nhiều rắn và thú dữ, song tin tưởng đức cao dày của
Tôn-giả sẽ chuyển hóa chúng. Ngài nhận lời, cung đồ đệ tiến
thẳng đến núi ấy. Vừa đến núi nầy quả gặp một con rắn lớn dài
gần một dặm, trợn mắt nhìn Ngài, Ngài vẫn đi thẳng không ngó đến
nó. Ngài đi đến phía Nam chân núi dừng nghỉ chỗ đất bằng,con rắn
ấy đến quấn chung quanh Ngài, Ngài cũng chẳng đoái hoài, giây
lát con rắn bò đi. Ngài tìm lại chúng theo Ngài thì họ đã chạy
tán loạn hết. Ngài một mình đi thẳng đến hang đá. Bỗng thấy một
ông già mặc toàn đồ trắng đi ra chấp tay kính lễ Ngài, Ngài hỏi
:
-Ông ở đâu ?
Ông già thưa :
-Con xưa làm vị Tỳ-kheo rất
thích vắng lặng, bực người mới học đến hỏi,nhơn đó nổi sân; bởi
duyên cớ ấy khi chết đọa làm thân rắn ở trong hang nầy, đến giờ
đã ngàn năm.Vừa gặpTôn-giả là bực thánh đức nên ra kính lễ. Ngài
hỏi :
-Núi nầy còn có người nào ở
nữa chăng?
Và họ theo đạo nào ?
Ngươi chỉ cho ta biết ?
Ông già thưa :
-Cách đây mười dặm về phía
Bắc có một tàng cây thật to, dưới tàng cây có năm trăm vị nhân
tài ẩn dật, vị lãnh tụ hiệu là Long-Thọ,thường vì chúng nói pháp,
con cũng thường đến nghe. Ngài chờ đồ chúng tụ hội, cùng họ tiến
đến phía Bắc. Vừa đến cây to,quả nhiên Long-Thọ ra nghinh tiếp
Ngài. Long-Thọ vui vẻ đảnh lễ thưa Ngài :
- Chỗ núi sâu vắng vẻ, nơi
hang ổ của thú dữ, đại đức chí tôn sao thương xót đến đây?
Ngài đáp :
-Ta không phải chí tôn, đến
để phỏng vấn hiền giả.
Long-Thọ lặng thinh thầm
nghĩ:
-Tôn-giả nầy được tánh quyết
định, đạo nhãn đã sáng chưa ? Phải là người đại thánh,thừa kế
chơn tông chăng ?
Ngài biết liền bảo:
-Tuy tâm niệm của ngươi,ta
đã biết rồi,chỉ cần xuất gia,lo gì ta chẳng phải thánh ?
Bấy giờ Long-Thọ sám hối tạ
tội. Ngài độ cho xuất gia. Một hôm,Ngài gọi Long-Thọ lại bảo:
-Nay ta đem đại pháp nhãn
tạng của Như-Lai trao cho ngươi, ngươi phải truyền nối chớ dứt.
Nghe ta nói kệ :
-
Phi ẩn phi hiển pháp,
-
Thuyết thị chơn thật tế,
-
Ngộ thử ẩn hiển pháp,
-
Phi ngu diệc phi trí .
Dịch :
-
Pháp không ẩn không hiển,
-
Nói là mé chơn thật,
-
Ngộ pháp ẩn hiển nầy,
-
Chẳng ngu cũng chẳng trí .
Truyền pháp xong, Ngài trình
thần biến rồi tịch diệt. Long-Thọ và đồ chúng hỏa táng thân Ngài,
lượm xá-lợi xây tháp cúng dường .
14. Bồ-Tát Long-Thọ (Nagarjuna)
Giữa thế
kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn.
Ngài cũng có tên là Long-Thắng,dòng
Phạm-Chí ở miền Tây-Ân. Thuở nhỏ, Ngài bẩm tánh thông minh;vừa
nghe Phạm-Chí tụng bốn kinh Phệ-Đà là Ngài thuộc lòng văn nghĩa.
Đến 20 tuổi, Ngài đi châu du khắp các nước tìm học các môn thiên
văn, địa lý,toán số,sấm ký và các học thuật của ngoại đạo. Môn
nào Ngài học đến đều xuất sắc hơn mọi người. Nhơn một cơ duyên
chẳng lành. Ngài nhận thực được các pháp là vô thường đau khổ
nên vào núi ở ẩn. Số người tìm đến cầu học với Ngài rất đông.
Sau khi gặp Tổ Ca-Tỳ-Ma-La
cảm hóa, Ngài xin xuất gia được Tổ độ cho và truyền cả tâm ấn.
Từ đó,Ngài vân du thuyết pháp khắp nơi,lần lượt đến miền Nam-Ấn.
Dân chúng xứ nầy chỉ sùng phước nghiệp,từ Ngài đến đem pháp yếu
chỉ dạy,họ tự bảo nhau : "Chỉ phước nghiệp nầy là việc tôi
thắng,nói về Phật tánh thì đâu thể thấy".
Ngài nhơn đó bảo họ :
-Các ngươi nếu muốn
thấy được Phật tánh thì trước hết phải bỏ tâm ngã mạn đi,mới có
thể thấy được. Họ hỏi Ngài :
-Phật tánh lớn hay nhỏ ?
Ngài đáp :
-Chẳng nhỏ chẳng lớn, không
rộng không hẹp, không phước không báo, chẳng chết chẳng sống.
Dân chúng nghe Ngài nói tột lý,vui mừng nguyện học pháp ấy. Ngài
liền ngay trên tòa hóa thân như vầng mặt trăng. Dân chúng tuy
nghe thuyết pháp mà không thấy có hình Ngài. Trong ấy có con một
ông nhà giàu tên là Ca-Na-Đề-Bà, khi thấy thế liền cảm ngộ.
Đề-Bà bảo dân chúng :
-Biết tướng nầy chăng ?
Dân chúng thưa :
-Chúng tôi không thể phân
biệt được.
Đề-Bà nói:
-Đây là Bồ-Tát thị hiện để
biểu thị Phật tánh,muốn chúng ta hiểu rỏ vậy. Vô tướng tam muội
giống như mặt trăng tròn là nghĩa Phật tánh rỗng rang sáng suốt
.Đề-Bà nói dứt lời thì vầng trăng ẩn mất, Bồ-Tát hiện ngồi an
nhiên chỗ cũ,nói kệ:
-
Thân hiện viên nguyệt tướng,
-
Dĩ biểu chư Phật thể,
-
Thuyết pháp vô kỳ hình,
-
Dụng biện phi thinh sắc.
Dịch :
-
Thân hiện tướng trăng tròn,
-
Để nêu thể các Phật,
-
Nói pháp không hình ấy,
-
Dùng rõ phi thinh sắc .
Toàn chúng nghe xong, đều
cảm ngộ,cầu xin xuất gia. Ngài triệu tập các bậc thánh tăng đến
truyền giới. Trong số xuất gia nầy, Đề-Bà là người dẫn đầu. Một
quốc gia ở gần miền Nam-Ấn,có đến năm ngàn người tu theo ngoại
đạo được nhiều phép lạ, Vua và quốc dân đều thọ giáo nơi
họ,khiến đạo Phật mờ tối. Ngài thấy thế cảm động,bèn đổi hình
thức,mặc áo trắng đợi mổi khi vua ra thành, Ngài cầm cây cờ đi
trước,hoặc ẩn hoặc hiện. Làm như thế đến bảy lần. Hôm nọ,vua lấy
làm lạ kêu lại hỏi :
-Ngươi là người gì dám đi
trước ta, mà bắt không được,thả chẳng đi ?
Ngài đáp :
-Tôi là người trí,biết tất
cả việc.
Vua nghe ngạc nhiên,muốn thí
nghiệm nói:
-Chư thiên nay đang làm gì ?
Ngài đáp :
-Chư thiên đang đấu chiến
với A-Tu-La.
Vua hỏi :
-Làm sao được biết ?
Ngài đáp :
-Nếu bệ hạ muốn biết chốc
lát sẽ thấy chứng nghiệm. Quả nhiên,phút chốc thấy gươm giáo tay
chơn ở trên không rơi xuống. Vua và quốc dân rất kính phục
Ngài,nhơn đó,Ngài chuyển họ trở lại quy y Tam-Bảo.Hôm nọ,Ngài
gọi Ca-Na-Đề-Bà đến dặn dò.
-Như-Lai lấy đại pháp nhãn
tạng trao cho Tổ Ca-Diếp,cho đến đời ta,nay ta trao cho ngươi.
Hãy nghe kệ :
-
Vị minh ẩn hiển pháp,
-
Phương thuyết giải thoát lý,
-
Ư pháp tâm bất chứng,
-
Vô sân diệc vô hỷ.
Dịch :
-
Vì sáng pháp ẩn hiển,
-
Mới nói lý giải thoát,
-
Nơi pháp tâm chẳng chứng,
-
Không sân cũng không
hỷ.
Dặn dò xong,Ngài nhập nguyệt
luân tam muội rồi hiện tướng thần biến vào Niết-bàn. Ngài sáng
tác rất nhiều bộ luận để xiển dương giáo pháp Đại-Thừa :
1-Trung luận,
2-Thuận trung luận,
3-Thập nhị môn luận,
4-Đại-Thừa phá hữu luận,
5-Lục thập tụng như lý luận,
6- Đại-Thừa nhị thập tụng
luận,
7-Thập bát không luận,
8-Hồi tránh luận,
9-Bồ-đề tư lương luận,
10-Bồ-đề tâm ly tướng luận,
11-Bồ-đề hạnh kinh,
12-Thích ma ha diễn luận, 1
3-Khuyến phát chư vương yếu
kệ,
14-Tán pháp giới tụng,
15-Quảng đại pháp nguyện
tụng.
Bồ-Tát Mã-Minh là người khêu mồi
ngọn đèn chánh pháp đại-thừa ; chính Ngài là người thắp sáng và
truyền bá khắp nơi cho đến vô tận ngọn đuốc Đại-Thừa, Những tác
phẩm của Ngài,bộ Trung-Luận có giá trị nhất, đến hiện nay đã
dịch ra nhiều thứ chữ để truyền bá khắp thế giới.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/33vitoan-hoa1.htm